LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Thực trạng và giải pháp nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động liên doanh
tại Công ty Dầu khí Đài Hải (DHP)
Sinh viên: Trần Thị Hà Tuyết
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng gia tăng mạnh
mẽ của nền kinh tế thế giới hiện nay, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối
ngoại của mỗi một quốc gia là một tất yếu khách quan. Đây là quá trình khai
thác các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực của nền kinh tế của các quốc
gia nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Chính vì thế không
một nước nào bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm vi quốc gia mà
không tham gia vào các hoạt động kinh tế trong khu vực và toàn cầu.
Hiện nay, Việt nam đang trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế, hội nhập với
các nước trong khu vực và trên thế giới nên hoạt động kinh tế đối ngoại ngày
càng diễn ra sôi động. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng cao, hợp tác và
đầu tư nước ngoài luôn được khuyến khích m
ở rộng,..Qua hơn 10 năm thực
hiện Luật đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và doanh
nghiệp liên doanh nói riêng đã thể hiện và phát huy vai trò quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Thế
nhưng hoạt động liên doanh với nước ngoài vẫn còn tồn tại không ít những
vấn đề phát sinh, mặc dù Chính phủ Việt nam đã ban hành nhiều biện pháp
nhằ
m cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ vướng mắc, giảm bớt những khó
khăn cho các doanh nghiệp liên doanh.
Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động liên doanh tại Công ty Dầu
khí Đài Hải (DHP), với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm tháo gỡ khó
khăn, tôi đã chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả hoạt động liên doanh tại Công ty Dầu khí
Đài Hải (DHP)” làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp. Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
2
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về doanh nghiệp liên doanh theo Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Chương II: Thực trạng liên doanh với nước ngoài tại Công ty Dầu khí Đài
Hải (DHP)
Chương III: Định hướng phát triển và các giải pháp nhằm tăng cường liên
doanh có hiệu quả với nước ngoài tại Công ty Dầu khí Đài Hải (DHP)
Qua bài viết này tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tớ
i
Cô giáo- Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh – Khoa kinh tế Ngoại thương, Trường Đại
học Ngoại thương, Văn phòng Công ty Dầu khí Đài Hải Hà nội đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành bài viết này. Tôi hy vọng bài viết sẽ nhận được
nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong trường và của Công ty Dầu
khí Đài Hải (DHP).
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài
để tiến hành sản xuất, kinh doanh với mục đích tìm kiếm l
ợi nhuận và những
mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu mà
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư của các dự
án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp
sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ thương mại.
Theo Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt nam ngày 12/11/1996 đã đưa ra các
khái niệm sau:
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là” là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài của Việt nam.
- “Nhà đầu tư nước ngoài” là tổ chức kinh tế, cá nhân n
ước ngoài đầu tư
vào Việt nam.
Hiện nay, do sự phát triển đa dạng, sâu rộng mang tính toàn cầu của nền
kinh tế thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đó mà cũng hình thành những
hình thức đầu tư đa dạng để phù hợp với điều kiện đầu tư của từng nhà đầu tư,
của từng quốc gia trong từng điều kiện c
ụ thể.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu
2.1 Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là một loại hình đầu tư, trong đó các bên tham gia hợp đồng (gọi là
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
4
các bên hợp doanh) ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động
sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội
dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho
các bên tham gia mà không thành lập một pháp nhân.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp
doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả
thuận và được
cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Các bên hợp doanh vẫn giữ nguyên sở hữu riêng đối với tài sản góp vào
hợp doanh.
Kết quả hoạt động phụ thuộc vào sự tồn tại và việc thực hiện nghĩa vụ của
mỗi bên hợp doanh.
2.2 Doanh nghiệp liên doanh
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh
doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo t
ỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên
doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách
pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu trách
nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn
của mình trong vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên
nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận.
2.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu t
ư nước ngoài (tổ chức hoặc
cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ
nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ nhà.
Tài sản của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc tổ chức
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
5
kinh tế, cá nhân nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy điều hành
doanh nghiệp.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được tiến hành
trên cơ sở hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao, hợp đồng xây
dựng – chuyển giao – kinh doanh, hợp đồng xây dựng – chuyển giao.
Hợp đồng xây dựng (Build) - kinh doanh (Operation) - chuyển giao
(Transfer) (BOT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
của nướ
c chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công
trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn này nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng (Build) - chuyển giao (Transfer)- kinh doanh
(Operation) (BTO) là văn bản được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền của nước chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài để xây dự
ng công trình kết
cấu hạ tầng, sau khi xây xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình
đó cho nhà nước chủ nhà, Chính phủ nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước
ngoài quyền kinh doanh khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định
để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng (Build) - chuyển giao (Transfer) (BT) là văn bản
được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà vớ
i nhà
đầu tư nước ngoaì để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây xong
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước chủ nhà,
Chính phủ nước chủ nhà cho phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác
để kinh doanh, khai thác nhằm thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
Vốn để thực hiện dự án theo hợp đồng BOT, BTO, BT là vốn riêng của
nhà đầu tư nước ngoài, song cũng có thể là v
ốn của nhà đầu tư nước ngoài
cộng với vốn của Chính phủ nước chủ nhà.
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
6
Quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài được quy định cụ thể
trong hợp đồng BOT, BTO, BT.
Hợp đồng BOT, BTO, BT có hiệu lực kể từ khi được cấp giấy phép đầu
tư.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của m
ột doanh nghiệp liên
doanh
1.1 Khái niệm doanh nghiệp liên doanh
Kể từ cuối thế kỷ 19, với sự xuất hiện của hoạt động xuất nhập khẩu tư
bản giữa các cường quốc tư bản, các thực thể kinh doanh dựa trên cơ sở sự
pha trộn của các tác nhân kinh tế về vốn, lao động, máy móc, thị trường của
các công ty mang quốc tịch khác nhau xuất hiện. Những thự
c thể kinh doanh
hợp nhất này là mầm mống vật chất đầu tiên của các doanh nghiệp liên doanh
với nước ngoài.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, với sự gia tăng nhanh chóng của buôn bán
và đầu tư quốc tế, các doanh nghiệp liên doanh được thành lập không chỉ
nhằm thu lợi ích ngoại vi mà đã trở thành sự lựa chọn có tính chất sống còn về
mặt chiến lược của các công ty thông qua hoạt động hợp tác. Các doanh
nghiệp liên doanh trở thành phương tiện để vượt qua các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan, sự khác biệt về văn hoá, luật pháp và các chính sách của
Chính phủ các nước để tạo ra những lợi thế kinh tế mới nhờ mở rộng quy mô,
thực hiện chuyển giao công nghệ và gia tăng cạnh tranh ở các thị trường khác
nhau. Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài có những quy luật vận
động nội tại và những đặc thù phát triển, chúng được quan ni
ệm theo những
cách khác nhau.
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
7
Trong cuốn “Từ điển tiếng Anh kinh doanh”, J.H Adam đã định nghĩa:
“Doanh nghiệp liên doanh là một quan hệ bạn hàng tạm thời nhưng đôi khi có
tính chất lâu dài được thành lập từ hai hoặc nhiều cá nhân hoặc công ty hoạt
động trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định trong đó rủi ro về thua lỗ nhưng
vẫn có thể mong đợi một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý. Các bên liên doanh cùng chia
sẻ các khoản chi phí và lợi nhuận theo các t
ỷ lệ được thoả thuận.” Định nghĩa
này chỉ ra một doanh nghiệp liên doanh thực chất là một quan hệ bạn hàng
tạm thời hoặc lâu dài của hai bên hoặc nhiều cá nhân hoặc công ty cùng hoạt
động trong một lĩnh vực kinh doanh. Lợi nhuận là độnglực để thành lập các
doanh nghiệp liên doanh. Các khoản chi phí và lợi nhuận được phân chia giữa
các bên theo tỷ lệ đã được thoả thuận.
Luật kinh doanh (Business Law) của Hoa Kỳ
định nghĩa: “Liên doanh là
một quan hệ bạn hàng trong đó hai hay nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động
hoặc tài sản để thực hiện mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận
và rủi ro ngang nhau hoặc do các bên thoả thuận”. Giống với định nghĩa trên
đây, định nghĩa này cũng nêu rõ được liên doanh là một quan hệ bạn hàng của
hai hay nhiều chủ thể cùng tham gia nhằm thực hiện những mục tiêu nhất đị
nh
và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro. Tuy vậy định nghĩa này còn cho
thấy tài sản và lao động là những yếu tố cơ bản do các bên liên doanh đóng
góp để thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra khái niệm về liên
doanh như sau: Trên quan điểm cạnh tranh, liên doanh là một hình thức nằm
giữa hợp đồng và liên minh, trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt
động với nhau trong một ho
ặc hơn các lĩnh vực dưới đây:
a. Tiến hành các hoạt động mua bán.
b. Khai thác các tài nguyên thiên nhiên, phát triển hoặc điều hành các hoạt
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
8
động sản xuất.
c. Nghiên cứu và triển khai.
d. Hoạt động, chế tạo và xây dựng.
Theo cách tiếp cận của tổ chức OECD, liên doanh là một hình thức trung
gian nằm giữa hợp đồng và liên minh xét theo mức độ quan hệ và quy mô, liên
doanh là một hình thức không phải là một quan hệ hợp đồng đơn giản mà nó
cao hơn hình thức quan hệ này. Tuy vậy liên doanh cũng không phải là một
quan hệ có tính chất liên minh chặt chẽ và đầy
đủ với sự tham gia của nhiều
bên và có quy mô lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Với vị trí trung
gian đó, liên doanh có thể xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm
cả hoạt động buôn bán, sản xuất, nghiên cứu, khai thác...Giống như các định
nghĩa trên đây, quan niệm này cũng chỉ ra được liên doanh có thể thành lập
trên cơ sở hai hoặc nhiều công ty liên kết lại với nhau, nhưng đây chỉ là những
hoạt động liên kết có tính chất bộ phận.
Luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp liên
doanh như sau: “doanh nghiệp liên doanh” là doanh nghiệp do hai bên hoặc
nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc
hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và
chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầ
u tư
nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp doanh nghiệp Việt nam, hoặc do doanh
nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên
doanh.
Qui định này của luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam tập trung chủ yếu
vào khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp liên doanh là hợp đồng liên doanh ký
kết giữa bên hoặc các bên Việt nam với bên hoặc các bên nước ngoài. Số bên
tham gia vào doanh nghiệp liên doanh có thể là một hoặc nhiều bên nh
ằm tiến
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
9
hành hoạt động kinh doanh. Cũng có thể các doanh nghiệp liên doanh được
thành lập là một bên của một doanh nghiệp liên doanh mới. Tuy nhiên, trong
điều kiện của Việt nam, có một ngoại lệ do hoàn cảnh lịch sử để lại là cơ sở
pháp lý của doanh nghiệp liên doanh có thể là một Hiệp định Quốc tế ký giữa
hai Chính phủ: Chính phủ Việt nam và Chính phủ nước ngoài (doanh nghiệp
liên doanh dầu khí Việt Xô-Vietsopetro là một ví dụ minh hoạ cho ngoại l
ệ
này).
Như vậy, nếu căn cứ theo một số định nghĩa trên đây, có thể thấy rằng
trên thực tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với doanh nghiệp liên doanh
nước ngoài, mỗi cách tiếp cận nhấn mạnh đến một khía cạnh đặc thù nhất định
của doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phù hợp với điều kiện của từng
nước.
Tuy vậy, các đị
nh nghĩa trên đây đều tập trung vào những yếu tố cơ bản
sau đây:
- Thứ nhất, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là một hình thức của
tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế trong các hình thức kinh doanh quốc
tế là xuất nhập khẩu, gia công thuê cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia
công, hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, công ty 100%
vốn nước ngoài hoặc hoạt động cấp giấy phép kinh doanh hay thành lập các
đại lý đặc quyề
n. Cụ thể hơn, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là một
hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp. Tính chất quốc tế được thể hiện chủ yếu
ở sự khác nhau về quốc tịch của các bên tham gia liên doanh, quá trình thành
lập liên doanh và sự hoạt động của các bên vượt ra ngoài biên giới quốc gia
của chúng.
- Thứ hai, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là một quan hệ bạn
hàng lâu dài và là một liên kết hữu cơ c
ủa hai bên hoặc nhiều bên nhưng các
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
10
bên này ít nhất thuộc hai quốc tịch khác nhau. Nếu chỉ có các bên cùng một
quốc tịch tham gia liên doanh thì đó là liên doanh trong nước hay liên doanh
nội địa ngoại trừ trường hợp các bên có cùng quốc tịch thành lập liên doanh ở
một nước thứ ba. Các bên tham gia có thể là các chi nhánh của các công ty đa
quốc gia, các chi nhánh của công ty đa quốc gia với các cơ quan của Chính
phủ hoặc giữa chi nhánh của công ty đa quốc gia với tư nhân. Điều này có
nghĩa là đối tác tham gia thành lập liên doanh r
ất đa dạng.
- Thứ ba, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài bao gồm nhiều yếu tố
nước ngoài khác nhau: quốc tịch khác nhau, công nghệ quản lý khác nhau,
khác nhau về hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá. Sự khác nhau
này làm tăng tính phức tạp của việc tổ chức liên doanh cũng như làm tăng rủi
ro của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh.
- Thứ tư, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoạt độ
ng trên cơ sở
đóng góp của các bên về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cùng chịu
trách nhiệm về lợi nhuận và chia sẻ các rủi ro. Điều này phản ánh thuộc tính
“cộng đồng” về trách nhiệm của các bên đối với những hoạt động của liên
doanh. Bản chất của lợi thế này của liên doanh không phải là phép cộng đơn
giản các lợi thế sẵn có của các bên mà chính là việc tạo ra những l
ợi thế mới
lớn hơn khả năng nội tại của các bên.
- Thứ năm, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài có thể bao gồm các hoạt động chế tạo, chế biến, buôn bán hoặc các hoạt
động dịch vụ như dịch vụ tài chính ngân hàng, du lịch, vận tải, bảo hiểm, tư
vấn, hoạt động nghiên cứu cơ bả
n và nghiên cứu triển khai...Đối tượng hoạt
động kinh doanh đa dạng của doanh nghiệp liên doanh làm tăng tính đặc thù
trong hoạt động của các liên doanh trong các lĩnh vực khác nhau.
- Thứ sáu, cơ sở pháp lý của sự tồn tại và hoạt động của các doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
11
nghiệp liên doanh với nước ngoài là hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên
và luật pháp của nước sở tại. Sự thỏa thuận của các bên dưới sự bảo đảm của
luật pháp tạo nên cơ chế điều chỉnh hoạt động của các bên trong một thực thể
thống nhất. Điều này cho thấy một mặt các bên tham gia thành lập doanh
nghiệp liên doanh phải chấp nhận tiến hành hoạt
động kinh doanh theo hệ
thống luật pháp nước sở tại. Mặt khác, luật pháp của nước sở tại phải thích
ứng với thông lệ quốc tế và hấp dẫn ở mức nhất định đối với các đối tác nước
ngoài tham gia thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Từ những phân tích trên đây có thể đi đến kết luận: Doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài là một hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế củ
a các bên
tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng
phân chia lợi nhuận, cùng chia sẻ những rủi ro để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong
hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với các qui định
luật pháp của nước sở tại.
1.2 Những đặc trưng cơ bản của một doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là một thực thể kinh doanh và là một thực thể
pháp lý độc lập được hình thành trên cơ sở những sự khác nhau nhất định
trong môi trường kinh doanh và vì vậy nó đòi hỏi phải có sự thích ứng của các
bên về những yếu tố kinh doanh cơ bản: thích ứng về nguồn lực, thích ứng về
tổ chức và thích ứ
ng về cạnh tranh...Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
có hai đặc trưng cơ bản: đó là đặc trưng về mặt kinh doanh và đặc trưng về
mặt pháp lý.
a/ Đặc trưng về mặt kinh doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được thành lập trên cơ sở các
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
12
bên cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận dựa theo
tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định của liên doanh. Tuy vậy, cơ chế phân chia
lợi nhuận này còn phụ thuộc vào hình thức thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Các bên cùng chia sẻ rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp liên doanh.
Các loại rủi ro rất đa dạng, chẳng hạn: rủi ro về chính trị - đó là sự thay đổi
của thể chế chính trị, sự thay đổi củ
a Chính phủ hay Nhà nước; rủi ro về pháp
lý – sự thay đổi của hệ thống luật pháp và sự thay đổi của các chính sách và
qui định áp dụng đối với liên doanh; rủi ro về kinh tế – sự thay đổi về giá cả,
quan hệ cung cầu, mặt hàng liên quan đến liên doanh hoặc do tình trạng kinh
tế của đất nước đang ở tình trạng suy thoái; rủi ro trong kinh doanh – sự thay
đổi của khối khách hàng, tình trạng cạnh tranh trên thị trường hoặc rủi ro do
thiếu hiểu biết về môi trường văn hoá, phong tục, tập quán của người tiêu
dùng tại nước sở tại. Những rủi ro này sẽ càng lớn nếu thị trường hoạt động
của liên doanh hoàn toàn xa lạ với công ty có chiến lược đầu tư ra nước ngoài
trong dài hạn. Rủi ro, mạo hiểm càng cao thì khả năng thu lợi nhuận càng lớn
nhưng đồng thời xác suất đổ vỡ của doanh nghiệp liên doanh càng cao.
Đối
với các công ty đầu tư một khối lượng vốn lớn vào một lĩnh vực kinh doanh
nhất định thì hình thức liên doanh sẽ tạo điều kiện giảm bớt tổn thất xảy ra
trong kinh doanh, đối với các công ty này, rủi ro, mạo hiểm được chia sẻ cùng
với các bên cùng tham gia liên doanh.
b/ Đặc trưng về mặt pháp lý
Doanh nghiệp liên doanh là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo
luật pháp của n
ước sở tạI. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân.
Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia liên doanh được ghi trong hợp
đồng liên doanh. Mỗi bên tham gia liên doanh vừa có tư cách pháp lý riêng –
chịu trách nhiệm pháp lý với bên kia và tư cách pháp lý chung – chịu trách
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
13
nhiệm pháp lý với toàn thể liên doanh.
Hợp đồng liên doanh là văn bản thoả thuận giữa các bên tham gia liên
doanh và nó là điều kiện cần để hình thành nên thực thể pháp lý độc lập này.
Còn điều lệ hoạt động của doanh nghiệp liên doanh là điều kiện đủ để đảm
bảo tính chủ thể, tính chỉnh thể, tính độc lập của thực thể pháp lý, đảm bảo
khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệ
p liên doanh và là cơ
sở để phân biệt thực thể kinh doanh này với thực thể kinh doanh khác.
Như vậy, những văn bản pháp lý quy định đặc trưng pháp lý của doanh
nghiệp liên doanh gồm có hợp đồng liên doanh và đIều lệ hoạt động của
doanh nghiệp liên doanh. Mỗi loại văn bản đóng một vai trò nhất định trong
việc hình thành tính thực thể về mặt pháp lý của doanh nghiệp liên doanh.
Giữa đặc trưng kinh doanh và
đặc trưng pháp lý có mối liên hệ qua lại lẫn
nhau. Đặc trưng kinh doanh phản ánh thực chất và quy định bản chất nội tại
của doanh nghiệp liên doanh trong việc tạo ra những lợi ích cho các bên. Đặc
trưng pháp lý quy định tính độc lập của doanh nghiệp liên doanh và phản ánh
tính hợp pháp của sự tồn tại của doanh nghiệp liên doanh theo điều kiện của
nước sở tại (nước có doanh nghiệp liên doanh thành lập). Cả hai
đặc trưng này
cùng phản ánh một thực thể độc lập – doanh nghiệp liên doanh, cho nên có thể
gọi doanh nghiệp liên doanh là một thực thể kinh doanh – pháp lý quốc tế
độc lập.
Doanh nghiệp liên doanh hoạt động trong một môi trường kinh doanh đa
dạng của nước sở tại. Môi trường này bao gồm cả môi trường chính trị, môi
trường kinh tế, môi trường luật pháp, môi trường văn hoá xã hội và môi
trường cạnh tranh. Các loại môi trường này đều tác
động đến doanh nghiệp
liên doanh kể từ khi công ty bắt đầu thành lập và môi trường kinh doanh có sự
thay đổi trong từng giai đoạn nhất định. Đồng thời doanh nghiệp liên doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
14
cũng có mối quan hệ hữu cơ với thị trường nước ngoài.
Những đặc trưng cơ bản của một doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
được thể hiện qua mô hình dưới đây:
Môi trường kinh doanh: chính trị, kinh tế, pháp luật,
văn hoá - xã hội, cạnh tranh quốc tế…
1.3 Thành lập doanh nghiệp liên doanh
Muốn thành lập doanh nghiệp liên doanh các bên liên doanh phải lập và
gửi hồ sơ đến cơ quan cấ
p giấy phép đầu tư, hồ sơ gồm:
- Đơn xin cấp giấy phép đầu tư do các bên liên doanh ký,
- Hợp đồng liên doanh,
- Điều lệ doanh nghiệp liên doanh,
- Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các bên liên
doanh,
Doanh nghiệp liên doanh
(DNLD)
Đặc trưng về mặt
kinh doanh
Đặc trưng về mặt
pháp lý
Cùng
góp
vốn
Cùng
tham
gia
quản lý
Cùng
phân
chia
lợi
nhuận
Cùng
chia
sẻ rủi
ro
DNLD hoạt
động theo hợp
đồng liên doanh,
đIều lệ và luật
pháp của nước
sở tại
DNL
D có
tư
cách
pháp
nhân
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
15
- Bản giải trình kinh tế kỹ thuật,
- Hồ sơ chuyển giao công nghệ (nếu có),
- Báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc bản giải trình các yếu tố có
thể ảnh hưởng đến môi trường,
- Hồ sơ thuê đất nếu có thuê đất,
- Chứng chỉ quy hoạch, thiết kế sơ bộ công trình, nếu có xây dựng công
trình.
Hợp đồng liên doanh do các bên ký phải có những nộ
i dung chính như
sau:
+Tên, địa chỉ, quốc tịch, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh,
+ Mục tiêu và phạm vi kinh doanh,
+ Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức, tiến
độ góp vốn và tiến độ xây dựng doanh nghiệp liên doanh,
+ Sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước,
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên,
+ Sửa đổi và chấ
m dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng, điều kiện kết
thúc, giải thể doanh nghiệp,
+ Giải quyết tranh chấp giữa các bên liên doanh,
Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh phải gồm các nội dung chủ yếu như:
+ Tên, địa chỉ, quốc tịch, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh,
+ Mục tiêu và phạm vi kinh doanh,
+ Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ
góp vốn pháp định của các bên,
phương thức và tiến độ góp vốn pháp định,
+ Số lượng thành viên, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm kỳ
của Hội đồng quản trị, quyền hạn của Tổng giám đốc và các phó tổng giám
đốc,
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
16
+ Đại diện của doanh nghiệp liên doanh trước toà án, trọng tài và cơ
quan Nhà nước Việt nam,
+ Các vấn đề tài chính của doanh nghiệp,
+ Tỷ lệ phân chia lãi và lỗ cho các bên liên doanh,
+ Quan hệ lao động trong doanh nghiệp liên doanh, kế hoạch đào tạo
cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân,
+ Thời hạn hoạt động, kết thúc và giải thể doanh nghiệp liên doanh,
+ Thủ tục sửa đổi điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
Trong suố
t quá trình hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, nếu các
bên liên doanh thoả thuận thống nhất sửa đổi, bổ sung các điều khoản của hợp
đồng liên doanh, điều lệ doanh nghiệp liên doanh thì những sửa đổi bổ sung
đó chỉ có hiệu lực khi đã được chuẩn y của cơ quan cấp giấy phép đầu tư.
Kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư doanh nghiệp liên doanh chính
thức đượ
c thành lập và tiến hành hoạt động kinh doanh.
1.4 Vốn của doanh nghiệp liên doanh
a. Khái niệm
Vốn đầu tư của doanh nghiệp liên doanh là tổng vốn để thực hiện dự án
đầu tư, bao gồm vốn pháp định và vốn vay.
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh là vốn bắt buộc phải có
theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam và được ghi trong điều
lệ của doanh nghiệp. V
ốn pháp định tối thiểu phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối
với các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, trồng rừng, dự án xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng ở các vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội khó khăn thì vốn pháp định có thể bằng 20% vốn đầu tư nhưng phải được
cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.
Trong quá trình ho
ạt động kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh không
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
17
được giảm vốn pháp định, song có thể tăng vốn pháp định, vốn đầu tư, thay
đổi tỷ lệ góp vốn của các bên nhưng phải do Hội đồng quản trị quyết định và
phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chuẩn y.
b. Phương thức và tỷ lệ góp vốn pháp định của các bên liên doanh
Bên nước ngoài góp vốn pháp định bằng:
+ Tiền nước ngoài, tiền Việt nam có nguồn gố
c từ đầu tư trực tiếp tại
Việt nam,
+ Thiết bị, máy móc nhà xưởng, công trình xây dựng khác,
+ Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công
nghệ và dịch vụ kỹ thuật.
Bên Việt nam góp vốn pháp định bằng:
+ Tiền Việt nam, tiền nước ngoài,
+ Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác,
+ Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công
nghệ và dị
ch vụ kỹ thuật.
+ Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt nam về đất
đai,
+ Các nguồn tài nguyên, giá trị quyền sử dụng mặt nước, mặt biển theo
quy định của pháp luật Việt nam.
Các bên liên doanh có thể góp vốn bằng các hình thức khác nữa nhưng
phải được Chính phủ Việt nam chấp thuận.
Giá trị phần vốn của mỗi bên liên doanh được xác định trên c
ơ sở giá thị
trường tại thời điểm góp vốn và do các bên thoả thuận thống nhất. Nhưng giá
trị máy móc thiết bị dùng để góp vốn pháp định phải được một tổ chức giám
định độc lập cấp chứng chỉ giám định. Trong trường hợp cần thiết cơ quan
quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài có quyền chỉ định tổ chức giám định
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
18
để giám định lại giá trị các khoản vốn góp của mỗi bên.
Tỷ lệ góp vốn pháp định của các bên liên doanh do chính các bên thoả
thuận, nhưng phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài
không dưới 30% vốn pháp định. Trong một số trường hợp đặc biệt, căn cứ vào
lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích
kinh tế xã hội khác của dự án, cơ quan cấp giấy phép
đầu tư có thể xem xét
cho phép bên nước ngoài góp vốn pháp định với tỷ lệ thấp đến 20%.
Đối với những dự án quan trọng do Chính phủ Việt nam quy định, khi ký
kết hợp đồng liên doanh, các bên liên doanh được thỏa thuận về thời điểm,
phương thức và tỷ lệ tăng vốn góp của bên Việt nam vào vốn pháp định của
doanh nghiệp liên doanh.
Vốn pháp định có thể được góp toàn bộ một lần khi thành l
ập doanh
nghiệp liên doanh hoặc từng phần trong một thời gian hợp lý, nhưng phương
thức và tiến độ góp vốn pháp định phải phù hợp với giải trình kinh tế – kỹ
thuật và phải được quy định trong hợp đồng liên doanh.
1.5 Lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động của doanh nghiệp liên doanh
a. Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên doanh. H
ội
đồng quản trị gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên.
Mỗi bên liên doanh cử người của mình tham gia Hội đồng quản trị theo
tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định; nhưng bên ít nhất cũng
phải có 2 thành viên nếu là liên doanh hai bên, hoặc một thành viên nếu là liên
doanh nhiều bên.
Trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh được thành lập
giữa doanh nghiệp liên doanh đang hoạt độ
ng tại Việt nam với doanh nghiệp
Việt nam hoặc với nhà đầu tư nước ngoài, bên doanh nghiệp liên doanh đang
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
19
hoạt động có ít nhất một thành viên là công dân Việt nam đại diện cho bên
Việt nam trong liên doanh.
Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị do các bên liên doanh thoả thuận
nhưng không được quá năm năm.
Hội đồng quản trị họp mỗi năm ít nhất một lần. Ngoài ra có thể có cuộc
họp bất thường do 2/3 thành viên Hội đồng quản trị, hoặc do một trong các
bên liên doanh, hoặc do Tổng giám đốc hay Phó tổng giám đốc th
ứ nhất yêu
cầu.
Các cuộc họp của Hội đồng quản trị do Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu
tập và chỉ được tiến hành khi có 2/3 thành viên tham dự.
Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí của tất cả các
thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp đối với các vấn đề quan
trọng như: bổ
nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc thứ
nhất, kế toán trưởng, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, duyệt quyết toán
thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, vay vốn đầu tư. Đối với
các vấn đề khác quyết định của Hội đồng quản trị có giá trị khi được quá bán
số thành viên có mặt biểu quyết.
b. Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc là c
ơ quan quản lý điều hành
hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp liên doanh. Tổng giám đốc hoặc Phó
Tổng giám đốc thứ nhất phải là người đại diện cho bên Việt nam và là công
dân Việt nam thường trú tại Việt nam. Nếu doanh nghiệp liên doanh chỉ có
một Phó Tổng giám đốc thì đó là Phó Tổng giám đốc thứ nhất.
Hội đồng quản trị phân định quyền hạn và nhiệm vụ giữa Tổng giám
đốc và Phó Tổng giám
đốc thứ nhất. Tổng giám đốc là người đại diện cho
doanh nghiệp liên doanh trước toà án và cơ quan Nhà nước Việt nam. Tổng
giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoạt động của doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
20
nghiệp liên doanh. Nếu có ý kiến khác nhau giữa Tổng giám đốc và Phó Tổng
giám đốc thứ nhất trong việc quản lý đIều hành hoạt động của doanh nghiệp
liên doanh thì phải chấp hành ý kiến của Tổng giám đốc, nhưng Phó Tổng
giám đốc thứ nhất có quyền bảo lưu ý kiến của mình để đưa ra Hội đồng quản
trị xem xét và quyết định tại một phiên họp gần nhất.
Trong trườ
ng hợp riêng biệt, căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, tính chất
của dự án, Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh có quyền thuê tổ
chức quản lý để quản lý hoạt động của doanh nghiệp.
Hợp đồng thuê quản lý là hợp đồng thuê vận hành, quản lý, khai thác
công trình do các bên ký kết. Hợp đồng thuê quản lý không được làm thay đổi
mục tiêu, phạm vi hoạt động của dự án đã được ghi trọn trong giấ
y phép đầu
tư. Hợp đồng thuê quản lý không được làm thay đổi mục tiêu, phạm vi hoạt
động của dự án đã được ghi trong giấy phép đầu tư. Hợp đồng thuê quản lý chỉ
có hiệu lực khi được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chuẩn y. Thời hạn chuẩn bị
hợp đồng thuê quản lý là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
Tổ chức quản lý tiến hành ho
ạt động trong phạm vi quy định của hợp
đồng thuê quản lý. Tổ chức quản lý phải thực hiện nghĩa vụ về thuế và các
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Việt nam. Doanh nghiệp liên doanh
có nghĩa vụ thay mặt tổ chức quản lý nộp các khoản thuế này cho Nhà nước
Việt nam.
Ban giám đốc doanh nghiệp liên doanh có nghĩa vụ hỗ trợ và giám sát
hoạt động của tổ chức qu
ản lý. Doanh nghiệp liên doanh là người chịu trách
nhiệm trước pháp luật mọi hoạt động của tổ chức quản lý trong việc thực hiện
hợp đồng thuê quản lý.
1.6 Thời hạn hoạt động, chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp liên doanh
Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp liên doanh do các bên liên doanh
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
21
thoả thuận, được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chuẩn y và ghi trong Giấy phép
đầu tư, nhưng không quá 50 năm. Trong trường hợp đặc biệt, căn cứ vào quy
định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định thời hạn dài hơn
nhưng không quá 70 năm.
Doanh nghiệp liên doanh có quyền đề nghị kéo dài thời hạn hoạt động đã
ghi trong Giấy phép đầu tư. Muốn vậ
y chậm nhất là 6 tháng trước khi kết thúc
thời hạn hoạt động doanh nghiệp phải làm đơn gửi đến cơ quan cấp giấy phép
đầu tư xem xét quyết định. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đơn xin gia
hạn cơ quan cấp giấy phép đầu tư thông báo quyết định của mình.
Doanh nghiệp liên doanh chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép đầu tư;
- Do đề nghị của một hoặc các bên và được cơ quan quản lý Nhà nước về
đầu tư nước ngoài chấp thuận;
- Theo quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài do
doanh nghiệp liên doanh vi phạm nghiêm trọng pháp luật và quy định của
Giấy phép đầu tư.
- Do bị tuyên bố phá sản
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật
2. Những quan điểm của Nhà nướ
c Việt nam về thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh
2.1 Quá trình thành lập và hoạt động của các liên doanh trong công nghiệp
Việt nam phaỉ gắn với việc thực hiện có hiệu quả quá trình dịch chuyển cơ
cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Theo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định:
“
Đảng ta đề ra quan điểm xây dựng nền kinh tế mở cửa trong nước và với bên
ngoài; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
22
lập, chủ quyền; thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên doanh nhằm thu hút vốn,
công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài”. Như vậy các
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tranh
thủ vốn, công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến kích thích việc khai thác
các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội để tạo ra tiềm lực công nghệ và tài
chính cũng như phát triển thị trường trong nước, kích thích phát triển nông
nghiệp, thay
đổi bộ mặt nông thôn cũng như tạo điều kiện phát triển các ngành
kinh tế khác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài
sẽ là những “đầu tàu” dịch chuyển vốn, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm
quản lý và là phương thức kết hợp nhuần nhuyễn các loại quy mô, trình độ
công nghệ vào hình thành và phát triển công nghệ mũi nhọn, đẩy mạnh việc
phân công lao động xã hội theo ngành, theo vùng lãnh thổ, gắn v
ới lợi thế
trong từng vùng và gắn Việt nam với các nước trong khu vực và các nước trên
thế giới. Đồng thời với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mục tiêu công
nghiệp và dịch vụ chiếm 90% trong toàn bộ nền kinh tế vào năm 2020 là việc
hình thành lớp người có kiến thức, có năng lực điều hành và quản lý kinh tế
với tác phong công nghiệp, nhạy bén và năng động để
đưa đất nước ra khỏi
tình trạng tụt hậu, phát triển đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra yêu cầu gắn việc khai thác
triệt để các nguồn nhân lực bên trong với việc thu hút các nguồn lực bên
ngoài. Quá trình thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh phải
gắn với việc đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng hàng xuất kh
ẩu đã qua
chế biến, từng bước thay thế nhập khẩu những mặt hàng sản xuất trong nước
có hiệu quả.
Thành lập các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là phương tiện
có hiệu quả để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện công cuộc công
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
23
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu theo xu hướng “mở cửa”,
từng bước khai thác lợi thế so sánh của đất nước. Với mục tiêu hoạt động
đầu tư nước ngoài đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim
ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể
dầu khí) thì vốn đầu tư nước ngoài cần thu hút khoảng 12 tỷ đô la Mỹ (v
ốn
đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới), với vốn thực hiện khoảng 11 tỷ đô
la Mỹ. Do sự di chuyển vốn và công nghệ vào nền kinh tế mà làm thay đổi
được tỷ lệ tương quan giữa các khu vực, các ngành, các vùng góp phần định
hình những khu vực, những ngành kinh tế mũi nhọn và từng bước dịch chuyển
cơ cấu tổng thể của toàn bộ nền kinh tế. Trên góc
độ cơ cấu lãnh thổ, việc
thành lập các doanh nghiệp liên doanh còn là điều kiện để thay đổi cơ cấu kinh
tế theo vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa miền núi và miền xuôi, phát triển
những vùng xa xôi, hẻo lánh và lạc hậu.
Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là phương tiện để mở
cửa nền kinh tế ra thế giới, thực hiện quá trình phát triển kinh tế hướng
vào xuất khẩu. Phát triển các doanh nghi
ệp liên doanh với nước ngoài còn
là cơ hội để giải quyết việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động.
Hơn nữa, do yêu cầu phát triển các doanh nghiệp Việt nam đang ở trong
tình trạng thiếu vốn và lạc hậu về máy móc, thiết bị trong điều kiện tạo ra tổng
sản phẩm lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản
Vi
ệt nam lần thứ VI (1986), trước những biến động to lớn và phức tạp trên thị
trường thế giới và những khó khăn thách thức của việc chuyển các cơ sở công
nghiệp từ kiểu theo cơ chế quản lý tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị
trường, các doanh nghiệp đã bước đầu vượt qua những thử thách, chao đảo và
trì trệ, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triể
n kinh tế đất nước, tuy nhiên
tiềm lực và quy mô còn quá nhỏ bé so với vị trí, vai trò của nó trong nền kinh
Khoá luận tốt nghiệp
Trần Thị Hà Tuyết
24
tế.
Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã
đánh giá nền kinh tế Việt nam như sau: “Đến nay nước ta vẫn còn là một trong
những nước nghèo nhất thế giới; trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu,
nợ nầ
n rất nhiều…nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách”. Theo số
liệu thống kê, trình độ công nghệ của thiết bị, máy móc và công nghệ của các
doanh nghiệp quá thấp so với mức tiên tiến của thế giới. Trình độ công nghệ
máy móc thiết bị của Việt nam chỉ đạt 0,7%, một số khâu đạt từ 0,15% đến
0,20%, giá trị hiện tại của hầu hết thiết b
ị còn 30% sơ với nguyên giá ban đầu.
Hệ số sử dụng của thiết bị, máy móc quá thấp, mức tiêu hao nhiên liệu cao
hơn 1,5 đến 2,0 lần so với mức tiên tiến của thế giới, trang bị kỹ thuật của các
doanh nghiệp nhìn chung lạc hậu 2-3 thế hệ so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á. Do vậy, các doanh nghiệp đang tìm cách thu hút vốn đầu tư
nước ngoài để mở rộng khả năng sả
n xuất và tăng cường khả năng kinh doanh.
Mặt khác, do yêu cầu của việc mở rộng thị trường ra nước ngoài của các
doanh nghiệp công nghiệp và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu gắn với thay thế hàng nhập khẩu, việc thành lập và phát triển hoạt
động của doanh nghiệp liên doanh sẽ cho phép mở rộng xuất khẩu hàng hoá
với chất lượng cao hơn và giá thành hạ h
ơn cũng như tận dụng được thế mạnh
phía nước ngoài về thị trường. Hiện nay thị trường hàng công nghiệp Việt nam
còn quá nhỏ bé, manh mún, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường
thế giới thấp, cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ yếu là nhóm hàng
nguyên liệu. Các doanh nghiệp liên doanh sẽ là những phương tiện quan trọng
để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu. Nhờ
mở rộng xuất khẩu, cán cân thanh
toán của đất nước sẽ từng bước được cải thiện và thay đổi vị trí của đất nước