Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tài liệu ĐỀ ÁN: " Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình nội địa hóa, và bàn đến một số giải pháp, kiến nghị từ cả phía Nhà nước cũng như DN" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.18 KB, 29 trang )




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Một số vướng mắc trong
quá trình thực hiện
chương trình nội địa hóa,
và bàn đến một số giải
pháp, kiến nghị từ cả phía
Nhà nước cũng như DN
LỜI NÓI ĐẦU

Xe máy đang trở nên phổ biến tại Việt Nam, từ thành thị đến nông thôn,từ các
thành phố lớn đến miền núi. Ngày nay, chuyện mua sắm xe máy không còn là vấn đề lớn
do đời sống người dân tăng, giá thành xe giảm . Chiếc xe không chỉ là một phương tiện đi
lại , đi làm, đi ăn mà còn đối với nhiều người nó còn là một vật trang sức , nhất là đối với
giới trẻ.
Lưu lượng xe ngày một tăng với nhiều chủng loại xe khác nhau như Honda,
Suzuki, Yamaha, Loncin, Lifan … Điều này đã chứng tỏ VN là một thị trường tiềm năng
to lớn đối với các nhà sản xuất xe máy. Xuất phát từ điều này chương trình nội địa hoá
(NĐH) xe máy ra đời để chiếm lĩnh các thị trường ngay tại VN, từ đó phát triển một nền
công nghiệp sản xuất xe máy của riêng VN. Và có thể từ đó còn có thể xuất khẩu xe máy
sang một số nước ở châu Phi và trong khu vực.
Tuy nhiên, từ khi các chính sách NĐH ra đời ra bộc lộ nhiều bất cập. Nhiều DN
đã lợi dụng những kẽ hở của luật để gian lận thuế, hay việc thay đổi liên tục của các văn
bản hướng dẫn, hay việc còn bất đồng ở việc xác định tỷ lệ NĐH, thu thuế NĐH…
Bài viết này đề cập đến một số vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình
NĐH, và bàn đến một số giải pháp, kiến nghị từ cả phía Nhà nước cũng như DN. Đồng
thời bàn đến thời hạn của chương trình NĐH trước tiến trình hội nhập quốc tế ngày một
đến gần với Việt Nam.


Đề án gồm có 3 phần :
Phần I : Tổng Quan Về Chương Trình NĐH
Phần II : Thực Trạng Của Chương Trình NĐH
Phần III : Giải Pháp Và Kiến Nghị.

Bài viết này chủ yếu sử dụng các tài liệu, văn bản, sách báo theo định hướng ĐH
VIII, cụ thể từ các năm 2000-2002. Mặc khác cũng do nhiều hạn chế khác nên đề án còn
bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo
cũng như các bạn sinh viên có qua tâm.
Xin trân thành cảm ơn TS Lê Công Hoa, Trưởng bộ môn kinh tế công nghiệp
khoa Quản trị kinh doanh, đã hướng dẫn tận tình để hoàn thành được đề án này.
















1




Chương I

Tổng Quan Về Chương Trình Nội Địa Hoá Xe Máy Việt Nam

I.Thực Chất Của Chương Trình Nội Địa Hoá

1. Chiến Lược Phát Triển Công Nghiệp

Chiến lược thường được quan niệm như là nghệ thuật phối hợp các hành động, các
quá trình nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn. Chiến lược phát triển công nghiệp là
một bộ phận trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã- hội của đất nước. Chiến lược
phát triển công nghiệp phải xác định được mục tiêu dài hạn (10 năm, 20 năm) của hệ
thống công nghiệp và phương thức, biện pháp cơ bản để được mục tiêu dài hạn ấy. Nói
cách khác, chiến lược phát triển công nghiệp phải xác định được trạng thái tương lai của
công nghiệp và cách thức đưa công nghiệp đến trạng thái ấy.
Nội dung của chiến lược phát triển công nghiệp đất nước được cấu thành từ các bộ
phận chủ yếu sau đây :
Hệ thống các quan điểm cơ bản về định hướng phát triển công nghiệp. Hệ thống các
quan điểm định hướng này được xác định trên cơ sở các quan điểm định hướng phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước.
Hệ thống các mục tiêu chiến lược phát triển công nghiệp.
Các giải phát chiến lược. Đó là những giải pháp cần thực hiện để đạt được các mục
tiêu chiến lược đã xác định.
Các căn cứ của chiến lược. Đó chính là việc nghiên cứu và cụ thể hoá đường lối phát
triển kinh tế của đảng; phân tích thực trạng của công nghiệp, mối quan hệ giữa công
nghiệp và các ngành kinh tế khác; bối cảnh trong nước và quốc tế; những thách thức và
cơ hội ; dự báo sự biến động của môi trường kinh tế, xã hội ; những tàI liệu điều tra cơ
bản khác.
Nếu xét theo mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành hệ thống công nghiệp , nội

dung của chiến lược phát triển công nghiệp bao gồm :
Chiến lược phát triển chung của toàn bộ hệ thống công nghiệp.
Chiến lược phát triển từng ngành chuyên môn hoá (ngành kinh tế – kĩ thuật).
Chiến lược phát triển doanh nghiệp .
Chiến lược về con người xác định phương hướng đảm bảo nhân lực và phát triển toàn
diện con người trong kinh doanh.
2. Mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu
Chiến lược này đã được các nước đi tiên phong trong công nghiệp hoá thực hiện từ
cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Nhiều nước đang phát triển , thực hiện chiến lược này vào
những năm 50 và 60 của thế kỉ .
Tư tưởng cơ bản của chiến lược thay thế nhập khẩu là tập trung phát triển mạnh sản
xuất các loại hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá tiêu dùng, đẻ thay thế các hàng hoá xưa nay
vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Sự phát triển ấy nhằm khai thác các nguồn lực sẵn có

2
để thoả mãn nhu cầu cơ bản và cấp thiết trong nước, mở rộng thị trường cho phát triển
sản xuất, tạo thêm việc làm, tiết kiệm ngoại tệ …
Để thực hiện những yêu cầu và nội dung trên, cần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau
đây :
Xác định tổng cầu mỗi loại hàng hoá trên thị trường trong nước, thông qua việc phân
tích lượng hàng hoá đã nhập khẩu, tổng số và cơ cấu dân cư, mức sống …
Ban hành các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư
phát triển các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước thay thế hàng hoá nhập khẩu.
Ban hành các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước (thuế quan bảo hộ, hạn nghạch
nhập khẩu, trợ cấp…). Các chính sách bảo hộ này vận động qua ba giai đoạn : bảo hộ với
cường đọ cao trong thời giang đầu; giảm dần mức độ bảo hộ để yêu cầu các doanh gnhiệp
trong nước vươn tới trình độ cao hơn ; xoá bỏ bảo hộ khi các doanh nghiệp trong nước đủ
sức khống chế thị trường nội địa và có thể vươn ra thị trường nước ngoài.
Cần chú ý là việc thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu không có nghĩa “đóng cửa
“ nền kinh tế đất nước, mà vẫn mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, nhưng giành ưu tiên

cho nhập khẩu các điều kiện để sản xuất hàng thay thế nhập khẩu
Chiến lược phát triển công nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập xuất khẩu xuất phát từ
mục tiêu tốt đẹp. Song, kinh nghiệm thực tế nhiều nước cho thấy, việc theo đuổi chiến
lược này rất hạn chế trong việc thực hiên mục tiêu đã đặt ra vì mấy lẽ :
Chính sách bảo hộ chậm được sửa đổi gây nên sự ỷ lại của các nhà sản xuất.
Dung lượng thị trường không lớn, tạo nên những cản trở cho sự phát triển sản xuất.
Khả năng vươn ra thị trường nước ngoài bị hạn chế vì hàng hoá kém sức cạnh tranh.
Tình trạng thiếu hụt ngoại tệ không được giải toả vì lượng nhập khẩu các điều kiện
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu tăng lên…

II. Vì Sao Phải Thực Hiện Nội Địa Hoá Sản Xuất Xe Máy

Chương trình nội địa hoá là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của chiến
lược phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam, nhằm mang lại nhiều lợi ích
trong phát triển kinh tế – xã hội. Chương trình này không những tạo ra giá trị kinh tế
lớn, mà còn giúp các doanh nghiệp hình thành được mạng lưới cơ sở công nghiệp chế
tạo phụ tùng , linh kiện xe máy, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động và quan trọng
là giảm giá thành sản phẩm.

1.Hiện Trạng Thị Trường Xe Máy Việt Nam
Trước đây, xe máy được xem là một tài sản lớn, phải là những gia đình giàu có mới
có thể mua được. Nhưng ngày nay, do nhu cầu về phương tiện đi lại lớn, mức sống của
người dân được nâng cao hơn, giá thành xe máy đã hạ nhiều nên mua xe máy không còn
là vấn đề khó. Từ năm 1995 trở lại đây, bình quân số lượng xe máy tăng khoảng 400 –
500 ngàn xe/năm, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM…
Hiện nay, ở Việt Nam đã có trên 200 loại xe máy được sản xuất, lắp ráp và bán trong
nước với đủ các thương hiệu : Honda, Yamaha, Suzuki, Kawasaki của Nhật Bản; Citi
Dealim, Union của Hàn Quốc; VMDP của Đài Loan ; đặc biệt là xe máy có nguồn gốc từ
Trung Quốc : Loncin, Lifan, Sundro… do các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu lắp
ráp dưới dạng IKD.


3
Theo số liệu của Cục CSGT (Bộ Công An), tính từ năm 1995, số lượng xe máy lưu
hành trong cả nước là 3.678.000 chiếc và tăng trung bình hàng năm trên 11%. Chỉ tính
riêng năm 2000, số xe máy tăng thêm là 1.135.327 xe. Theo số liệu liệu của Bộ Thương
mại, trong 5 tháng đầu năm 2000, đã cấp hạn ngạch nhập khẩu 418.000 bộ linh kiện xe
máy cho các doanh nghiệp lắp ráp IKD trong nước (so với năm 1999 chỉ có 216.000 bộ ),
nếu tính cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đến hết tháng 5/2000 đã
thực hiện nhập khẩu 329.671 bộ linh kiện xe máy các loại ( số liệu của Tổng cục Hải
quan).
Những con số trên cho thấy, tốc đọ sử dụng xe máy ngày càng tăng nhanh, lượng xe
máy sử dụng ở Việt Nam phân bố không đồng đều. Trong tổng số hơn 5 triệu xe máy
đang lưu hành thì TP.HCM có khoảng 1,75triệu chiếc, TP.Hà Nội có khoảng 1,1 triệu
chiếc, các địa phương khác hơn 2,7 triệu chiếc. Thêm nữa, theo số liệu đIều tra mức bình
quân đầu người / xe ở Việt Nam cũng chưa phải là cao so với các nước trong khu vực:
Đài Loan 2 người / xe, Thái Lan 9 / xe con Việt Nam là 14, 32 người /xe. Tuy bình quân
là như vậy nhưng lại phân bố không đồng đều, tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM có
tỉ lệ 4 – 5 người/xe, các tỉnh biên giới phía Bắc là 40/xe, các tỉnh miền núi khác là 80-
90/xe Để chiếm lĩnh toàn bộ thị trường, ngành sản xuất xe máy VN cần tiến hành tiến
hành nội địa hoá nhiều hơn, hạn chế ngoại nhập, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của xe
và giá thành phù hợp. Hiện nay, giá thành xe máy tại VN quá cao so với các nước trong
khu vực ĐNA (từ 1,7-2 lần), nếu đem mức thu nhập đầu người để tính thì mức sống của
người dân VN thấp hơn từ 2,5-10 lần so với các nước khác trong khu vực. Việc này làm
thiệt hại đến người tiêu dùng, đồng thời đem lại siêu lợi nhuâncho các nhà sản xuất, lắp
ráp và kinh doanh xe máy.
Đó là nguyên nhâncủa việc gia tăng số lưọng doanh nghiệp lắp ráp xe máy IKD va
những vụ gian lận thương mại (ví dụ : 01chiếc xe máy sản xuất tại Honda- Dream II sản
xuất tại Thái Lan bán với giá 1000- 1100 USD, trong đó tại VN bán với giá gần 2500
USD). Do giá xe máy ở VN quá cao nên khu vực nông thôn và miền núi (chiếm 80% dân
số) tỷ lệ người có xe máy chỉ chiếm 1/15-1/20 so với các thành phố và đo thị lớn. Cũng

chính vì vậy mà một mục tiêu quan trọng trước mắt của chiến ngành công nghiệp xe máy
là phải tăng số lượng xe máy lưu hành rộng rãi trong đời sống nhân dân, tập trung sản
xuất các loại xe máy trong nước có gia thành thấp, phù hợp với sức mua của người dân
có thu nhập trung bình.
2. Chương Trình Nội Địa Hoá Và Những Kết Quả Ban Đầu

4
Cách đấy 10 năm, công nghệ chủ yếu lắp ráp dạng CKD (đơn giản), đến nay, công
nghệ sản xuất đang từng bước phát triển. Nhà nước đã cấp giấy phép cho 04 công ty liên
doanh, một công ty có vốn 100% nước ngoài (VMDP) và trên 50 doanh nghiệp sản xuất
xe máy dạng IKD. Nhìn chung, hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, lắp
ráp xe máy đều có lãi, mặc dù có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp liên doanh
hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với các doanh nghiệp lắp ráp IKD khác
trong nước. Hiện tại, tổng số vốn các doanh nghiệp sản xuất xe máy ở VN vào khoảng
337,643 triệu USD, vốn pháp định là 142,35 triệu USD, đảm bảo lắp ráp khoảng 1,5 triệu
xe máy / năm. Theo số liệu năm 1998 cho thấy, Honda VN lãi khoảng 18,154 triệu USD,
trong đó bình quân mỗi xe lãi 222,27 USD mà vẫn đảm bảo hạ giá xuống con 24,7 triệu
/chiếc (so với xe Nhật là 32 triệu ), tỷ lệ nội địa hoá trên 51% đối với Super Dream và
Future. Hãng Suzuki lãi trong việc lắp ráp xe là 5,662 triệu USD, bình quân mỗi xe lãI
khoảng 222, 24 USD.
Nhìn chung, đối với chương trình nội địa hoá của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh
vực sản xuất, và lắp ráp xe máy đều phải có giấy phép đầu tư, trong đó 5 năm đầu tiên nội
địa hoá phải đạt từ 15-20% giá trị xe và nâng dần lên 50-60% từ 5 năm trở đi. Đó là chưa
kể đến các doanh nghiệp sản xuất săm lốp, ắc qui và một số linh kiện khác như : giảm
sóc, đồng hồ báo xăng, đèn , vành, bánh, nan hoa…Hiện nay, cả nước có khoảng 35 DN
cơ khí FDI đang hoạt động sản xuất va cung cấp phụ tùng, linh kiện cho các cơ sở lắp
ráp xe máy của Honda, Suzuki, VMEP… như công ty 756(Bộ quốc phòng ) cũng đã sản
xuất được các chi tiết, phụ tùng xe máy như bulông, bánh răng hộp số, bánh răng truyền
lực, bộ hơi xi lanh, piston, và các chi tiết chịu mài mòn khác; công ty cơ điện – hoá chất
đã sản xuất được các loại bánh răng thẳng, nghiêng với d≤ 350mm; các chi tiết trục với

I≤0,6kg; đồng thơI công ty còn sản xuất được các linh kiện cho lắp ráp xe máy TQ với
giá rẻ như hộp xích trên, dưới giá 3,57 USD, đèo hàng trước giá 1,9 USD… Ngoài ra,
còn phải kể tới 1 số sản phẩm của các công ty quang điện - điện tử-Bộ quốc phòng, nhà
máy cơ khí 17 đã chế tạo và sản xuất được một só loại sản phẩm có tính năng kĩ thuật cao
như phôi đúc áp lực cao, vỏ moayơ, nắp, chốt cố định , các loại phanh, hộp dầu phanh,
nhà máy còn tiến hành sản xuất thử nghiệm cụm khung xe, ống xả, chắn bùn, chắn xích.
Tuy VN chỉ mới có 35 DN (Malaysia có khoảng 350 DN, TháI Lan 300-400 DN)
nhưng đây là bước đầu góp một phần không nhỏ vào chiến lược nội địa hoá xe máy, để
đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng mà giá thành lại hạ.
Cho tới thời điểm hiện nay, trên toàn quốc có khoảng 48 DN được phép xây dựng dự
án đầu tư dây chuyền lắp ráp xe máy dạng IKD. Tổng công suất đăng kí trong các hồ sơ
của các chủ đầu tư đã lên tới 500.000 xe/năm với khoảng 113 chủng loại xe có nguồn gốc
từ các nước Asean, TQ, Hàn Quốc…Sản xuất xe máy theo hướng đi từ lắp ráp CKD, IKD
rồi tăng dần tỷ lệ nội địa hoá và tiến tới tự chế tạo hoàn chỉnh là một chủ trương đúng
đắn, phù hợp với khả năng về vốn và trình độ công nghệ của các cơ sở trong nước .
Người tiêu dùng có khả năng mua được xe máy với giá rẻ hơn so với các loại xe của DN
FDI và được lựa chọn nhiều chủng loại theo thị hiếu của mình.
3.Những Mục Tiêu Cơ Bản Đối Với Vấn Đề Nội Địa Hoá Xe Máy
Để những chương trình nội địa hoá ngày càng được nhân rộng, chúng ta phải xây
dựng được một ngành công nghiệp xe máy VN hoàn chỉnh và hiện đại, thoả mãn nhu cầu
trong nước về các chủng loại xe, giá cả, từ đó không những dần dần làm chủ được thị
trường xe máy trong nước mà còn từng bước xuất khẩu phụ tùng và xe máy sang các khu
vực và thế giới. Thông qua đó, ngành cơ khí cũng như các ngành phụ trợ khác có đIều

5
kiện phát huy hết khả năng của mình như (ngành hoá chất, cao su, nhựa, chất dẻo, điện,
điện tử, vật liệu mới…) để đáp ứng số lượng xe được sản xuất, lắp ráp trong nước đạt
khoảng 1,7 triệu xe/năm với tỷ lệ nội địa hoá khoảng 90%, chất lượng tương đương với
các xe được lắp ráp ở các nước Asean.
Nếu đảm bảo được tốt những mục tiêu trên, thị trường xe máy sẽ đượo mở rộng từ đô

thị đến các vùng nông thôn, phù hợp với thu nhập và sức mua của đa số người tiêu dùng
và số lượng xe máy lưu hành trên thị trường VN lúc đó chỉ còn nhãn hiệu “ Made in Việt
Nam”, người dân sẽ thoả mái lựa chọ xe với phương châm “ Người Việt Nam dùng hàng
Việt Nam”.










CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH NỘI ĐỊA HOÁ XE MÁY

I. Các Chính Sách Của Nhà Nước

1. Về HD Việc Thực Hiện Đầu Tư Sản Xuất, Lắp Ráp Sản Xuất Động Cơ Xe
Gắn Máy 2 Bánh Của Các DN Trong Nước(Thông tư của Bộ Công nghiệp số
02/2002/TT-BCN ngày 18 tháng 9 năm 2002)
- Căn cứ Quyết định số 38/2002/QĐ-TTg ngày 14/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quản lý sản xuất lắp rỏp và nhập khẩu linh kiện xe hai bỏnh gắn mỏy;
- Căn cứ Thông báo số 99/TB-VPCP ngày 06/6/2002 của Văn phũng Chớnh phủ thụng bỏo kết
luận của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề thực hiện chính sách nội địa hoá xe hai bánh gắn máy;

- Căn cứ các Thông tư liên tịch số 92/TTLT-BTC-BCN-TCHQ ngày 20/11/2001 của Liên
Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp - Tổng cục Hải quan, số 52/2002/TTLT-BTC-BCN ngày 04/6/2002
của Liên Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp hướng dẫn thực hiện chính sách ưu đói thuế đối với sản

xuất xe hai bánh gắn máy và động cơ xe hai bánh gắn máy,

Bộ Công nghiệp hướng dẫn việc thực hiện đầu tư sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy
hai bánh của các doanh nghiệp trong nước như sau:


A
. ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG:

Thông tư này áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành
lập theo pháp luật Việt Nam (trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).

B. CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ:

1. Các dự án đầu tư sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy hai bánh phải được xây
dựng theo đúng các quy định về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng được ban hành kèm theo
Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chớnh phủ, trỡnh Bộ Cụng nghiệp xem xột thẩm định.

2. Các dự án đầu tư sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy phải tuân thủ mục d, điểm 2
trong Quy định về tiêu chuẩn của doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe hai bánh gắn máy được ban
hành kèm theo Quyết định số 24/2002/QĐ-BCN ngày 7/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp.Quy định về việc phải chế tạo hoàn chỉnh được 01 cụm chi tiết của động cơ ban hành
kèm theo Quyết định nêu trên được hiểu như sau:


6
Doanh nghiệp phải tự đầu tư công nghệ, nhà xưởng để sản xuất được các chi tiết của cụm
sản phẩm do doanh nghiệp đăng ký (liệt kờ tại phụ lục 6, Thụng tư liên tịch số 52/2002/TTLT-
BTC-BCN ngày 04/6/2002 của liên Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp) theo một quy trỡnh cụng

nghệ hoàn chỉnh từ nguyờn liệu và bỏn thành phẩm. Các phôi đúc, dập, rèn của chi tiết, cụm chi
tiết được phép mua của các nhà sản xuất khác (trong nước và ngoài nước) và không nhất thiết
phải sản xuất các loại gioăng, đệm và các chi tiết đó được tiêu chuẩn hoá như bulông, đai ốc,
vũng bi…



3. Doanh nghiệp phải thực hiện chương trỡnh nội địa hoá động cơ xe gắn máy theo mục
tiêu và tiến độ cụ thể hàng năm như sau (bắt đầu tính từ năm thứ 1 sau khi dự án đó đi vào sản
xuất):

Năm thứ 1: tỷ lệ nội địa hoá động cơ ³ 20%

Năm thứ 2: tỷ lệ nội địa hoá động cơ ³ 30%

Năm thứ 3: tỷ lệ nội địa hoá động cơ ³ 45%

Năm thứ 4: tỷ lệ nội địa hoá động cơ ³ 60%.

Việc tính toán tỷ lệ nội địa hoá động cơ xe hai bánh gắn máy hai bánh thực hiện theo quy
định tại bản phụ lục số 06 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 52/2002/TTLT-BTC-BCN của
Liờn Bộ Tài chớnh - Bộ Cụng nghiệp ngày 04/6/2002.

4. Các động cơ xe gắn máy hai bánh do các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, lắp ráp phải
được kiểm tra theo quy định tại mục c, điều 4 (tiêu chuẩn về trỡnh độ kỹ thuật, công nghệ) trong
Quy định về tiêu chuẩn của doanh nghiệp sản xuất lắp ráp xe hai bánh gắn máy ban hành kèm
theo Quyết định số 24/2002/QĐ-BCN ngày 07/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.

5. Các doanh nghiệp sản xuất động cơ xe gắn máy phải có bản quyền về thiết kế động
cơ xe máy (do doanh nghiệp nghiên cứu phát triển hoặc được chuyển giao công nghệ hợp pháp

từ nhà sản xuất gốc). Trong trường hợp doanh nghiệp mua thiết kế, công nghệ sản xuất động cơ
của đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp phải có được Hợp đồng chuyển giao công nghệ, Hợp
đồng Licence nhón mỏc sản phẩm, quyền sở hữu cụng nghiệp của đối tác nước ngoài cung cấp
cho phía Việt Nam để sản xuất, lắp ráp động cơ.

Nội dung chuyển giao cụng nghệ bao gồm:

- Tài liệu thiết kế sản phẩm,

- Tài liệu về công nghệ sản xuất, lắp ráp động cơ,

- Giấy phộp sử dụng nhón hàng,

- Chương trỡnh đào tạo,

- Chương trỡnh hỗ trợ kỹ thuật.

Hợp đồng chuyển giao công nghệ chế tạo động cơ xe gắn máy từ nước ngoài vào Việt
Nam phải được thẩm định, phê duyệt theo quy định của phỏp luật hiện hành.

6. Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy hai bánh không được vi
phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhón hiệu hàng hoỏ kiểu dỏng cụng nghiệp trong việc sản
xuất, lắp rỏp động cơ xe gắn máy, phải đăng kiểm động cơ xe được sản xuất, lắp ráp theo pháp
luật hiện hành và tuân thủ các quy định về quản lý số máy của động cơ xe gắn máy của các cơ
quan quản lý nhà nước.

C
. Tổ Chức Thực Hiện
1. Các dự án đầu tư sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy (nếu là các doanh nghiệp
Nhà nước phải thông qua chủ quản đầu tư) gửi hồ sơ về Bộ Công nghiệp để được xem xét,

thẩm định. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Công nghiệp
sẽ có ý kiến chính thức về nội dung của dự án đầu tư.

2. Sau khi hoàn tất việc đầu tư, các doanh nghiệp báo cáo Bộ Công nghiệp để được
kiểm tra cụ thể.

Các doanh nghiệp có dự án đầu tư sản xuất động cơ xe hai bánh gắn máy ở trong nước
được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo như Quy định tại Điều 3, Quyết định
số 38/2002/QĐ-TTg ngày 14/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý sản xuất, lắp rỏp
và nhập khẩu linh kiện xe hai bỏnh gắn mỏy.

3. Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe hai bánh gắn máy, sau khi được Bộ Công
nghiệp kiểm tra, xác nhận đủ tiêu chuẩn quy định được ban hành theo Quyết định số
24/2002/QĐ-BCN ngày 07/6/2002 của Bộ Công nghiệp và quy định tại Thông tư liên tịch số
52/2002/TTLT-BTC ngày 04/6/2002 của liên Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp, được nhập khẩu

7
động cơ xe gắn máy nguyên chiếc (nếu doanh nghiệp chưa có dây chuyền lắp ráp động cơ xe
máy) hoặc bộ linh kiện động cơ xe gắn máy hai bánh (nếu doanh nghiệp có đầu tư dây chuyền
lắp ráp động cơ) theo quy định tại Quyết định số 46/QĐ-TTg ngày 04/4/2001 về quản lý xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005 của Thủ tướng Chính phủ.

4. Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp động cơ xe gắn máy hai bánh khi làm thủ tục
nhập khẩu bộ linh kiện động cơ phải xuất trỡnh văn bản xác nhận đủ điều kiện sản xuất, lắp ráp
của Bộ Công nghiệp với cơ quan Hải quan.

5. Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
2.Hướng Dẫn Thêm Về Quyết Toán Thuế Linh Kiện Xe Máy & Động Cơ Xe
Máy Nhập Khẩu Năm 2002


Ngày 24/3/2003, Bộ Tài chính ban hành Công văn số 2627/ TC/TCT hướng dẫn cụ thể
thêm một số nội dung về thực hiện quyết toán thuế linh kiện xe hai bánh gắn máy, động
cơ xe hai bánh gắn máy nhập khẩu trong năm 2002 để sản xuất.


Theo đó, việc quyết toán tỷ lệ nội địa hóa thực tế được thực hiện theo hướng dẫn tại mục IV
đến mục Vlll, Thông tư số 92/ TTLT-BTC-BCN; éiểm 3, 4, 5 Thụng tư số 52/TTLT- BTC-BCN và
các công văn số 13707 TC/TCT ngày 16- 12-2002, số 14302 TC/TCT ngày 30-12-2002 của Bộ
Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện chính sách thuế ưu đói theo tỷ lệ nội địa hóa-xe máy,
động cơ xe máy năm 2002.

Ngoài các quy định, hướng dẫn tại các văn bản nêu trên, trong quá trỡnh quyết toỏn Bộ Tài
chớnh đề nghị cục thuế, cục hải quan các địa phương và các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe
2 bánh gắn máy thực hiện cụ thể một số nội dung:

-Trong quỏ trỡnh thực hiện sản xuất, lắp rỏp xe mỏy, động cơ xe máy, doanh nghiệp có thay
đổi đơn vị cung cấp linh kiện, phụ tùng nội địa hóa so với đăng ký, thỡ việc thay đổi đơn vị cung
cấp linh kiện, phụ tùng nội địa hóa không được vượt quá 7 đơn vị so với đăng ký. Trường hợp
vượt quá 7 đơn vị so với đăng ký, doanh nghiệp được phép lựa chọn đơn vị cung cấp để quyết
toán xác định tỷ lệ nội địa hóa thực tế.

-éối với trường hợp doanh nghiệp kê khai đầu tư sản xuất bao gồm doanh nghiệp tự sản xuất
và liên doanh, liên kết sản xuất) cụm chi tiết, linh kiện, phụ tùng thực hiện nội địa hóa là cụm chi
tiết, đề nghị cục thuế, cục hải quan các địa phương căn cứ quy định về hướng dẫn quyết toán tại
Thông tư số 92, Thông tư số 52 và các hóa đơn chứng từ, sổ sách xuất, nhập kho doanh nghiệp
phải cung cấp theo hướng dẫn nêu trên, để xác định chính xác tỷ lệ nội địa hóa các chi tiết trong
cụm chi tiết là linh kiện, phụ tùng mà doanh nghiệp sản xuất được. Khi quyết toán chỉ tính tỷ lệ
nội địa hóa thực tế các chi tiết, trong cụm chi tiết mà doanh nghiệp chứng minh được do doanh
nghiệp đầu tư sản xuất.


-Về số lượng bộ linh kiện làm căn cứ tính thuế nhập khẩu thực tế phải nộp của doanh nghiệp,
Bộ Tài chính quy định: là số lượng bộ linh kiện xe máy, động cơ xe máy do doanh nghiệp nhập
khẩu theo chính sách ưu đói thuế theo tỷ lệ nội địa hóa năm 2002 (số lượng nhập khẩu kể từ
ngày thông báo của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc áp dụng chính sách ưu đói thuế đối với sản
xuất xe máy, động cơ xe máy có hiệu lực thi hành), trong phạm vi công suất tổng hợp tối đa
được Bộ Thương mại cho phép. éối với nhón hiệu xe doanh nghiệp đó thực hiện nhập khẩu
trong năm 2002, nhưng chưa thực hiện sản xuất, lắp ráp trong năm 2002 thỡ doanh nghiệp phải
bỏo cỏo quyết toỏn theo sản lượng đó sản xuất, lắp ráp trong năm 2003 đến thời điểm quyết
toán.

-Về mức thuế suất thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa thực tế áp dụng sau khi kiểm tra,
quyết toán, được xác định căn cứ tỷ lệ nội địa hóa thực tế và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đói theo chính sách ưu đói thuế đối với mặt hàng xe máy, động cơ xe máy quy định tại Quyết
định số 116/2001/Qé/BTC ngày 20-11/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

-Về giá tính thuế: sau khi hoàn thành việc thực hiện kiểm tra quyết toán, giá tính thuế được
xác định tương ứng với tỷ lệ nội địa hóa và mức thuế suất thuế nhập khẩu thực tế đạt được sau
khi đó kiểm tra quyết toỏn.
3.
Từ 1/1/03 Thuế Suất Nhập Khẩu Xe Máy Nguyên Chiếc Tối Thiểu Là 100%

Ngày 25/10/2002, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 147/ 2002/ QĐ- TTg về
cơ chế điều hành xuất nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp xe hai bánh và phụ tùng giai đoạn
2003-2005. Theo đó :

8
1. Việc nhập xe máy và phụ tùng xe máy thực hiện theo quyết đinh số 46/2001/ QĐ-
TTg ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
thời kì 2001-2005.
2. Các DN sản xuất, lắp ráp xe máy có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo đúng qui

định tại giấy phép đầu tư đã được cấp.
3. Các DN sản xuất xe máy, phụ tùng xe máy để xuất khẩu được hưởng các chính
sách ưu đãi theo qui định hiện hành .
4. Xe máy sản xuất, lắp ráp trong nước phải được đăng ký bảo hộ bản quyền sở hữu
công nghiệp và đăng kiểm chất lượng theo qui định của pháp luật.
Các sản phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam không đăng kí bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp và đăng kiểm chất lượng theo qui định của pháp luật thì không được phép
đăng kí lưu hành.
Các loại phụ tùng để lắp ráp xe máy, bao gồm phụ tùng nhập khẩu và sản xuất trong
nước phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, hợp pháp và đăng kí chất lượng sản phẩm theo
qui định của pháp luật hiện hành.
Đến ngày 1/1/2004 các DN sản xuất, lắp ráp phải chứng chỉ hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9001 (phiên bản 2000) cho hệ thống sản xuất và lắp ráp xe máy và động cơ xe
máy.
5. Từ 1/1/2003, thực hiện chính sách thuế đối với xe máy và phu tùng xe máy như
sau:
Mức thuế nhập khẩu xe máy nguyên chiếc và động cơ nguyên chiếc tối thiểu là 100%
Giữ nguyên mức thuế suất thuế nhập khẩu linh kiện hiện hành đối với phụ tùng xe
máy và linh kiện động cơ xe máy.
Các bộ Công nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Giao
thông vận tải và Thương mại phối hợp để kiểm tra các doanh nghiệp đang sản xuất, lắp
ráp xe máy hiện có và các DN có vốn đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ đăng kiểm,
tăng chống buôn lậu .
II. Những Vướng Mắc Trong Quá Trình NĐH Xe Máy
1. Vẫn Còn Bất Đồng Về Thuế Nhập Khẩu Xe Máy
Sau một thời gian dài tranh cói quyết liệt xung quanh nội dung xử lý quyết toỏn thuế
(QTT) nhập khẩu bộ linh kiện xe mỏy năm 2001 giữa một bên là Tổng cục Thuế (TCT)
và Tổng cục Hải quan, thuộc Bộ Tài chính (BTC) và một bên là các doanh nghiệp (DN)
sản xuất, lắp ráp xe máy cùng đại diện của họ là Hiệp hội Xe đạp - Xe máy Việt Nam,
những tưởng chuyện QTT đó được giải quyết ổn thỏa. Song, cho đến tận giữa tháng 4

này, vẫn cũn một số DN sản xuất, lắp rỏp xe mỏy “kiờn quyết” khụng chịu ký vào biờn
bản QTT.
Nhằm xử lý dứt điểm tỡnh trạng này, ngày 14 thỏng 4 vừa qua, BTC đó chớnh thức
gửi cụng văn tới các DN sản xuất, lắp ráp xe máy và Hiệp hội Xe đạp- Xe máy Việt Nam
với nội dung: “Đối với DN đó thực hiện QTT với BTC, nhưng chưa chịu ký biờn bản
QTT hoặc những DN đó ký biờn bản QTTỏ, song vẫn cũn cú ý kiến bảo lưu, chưa đồng ý
với kết quả QTT thỡ chậm nhất đến hết ngày 20 tháng 4 năm 2003 phải có văn bản đề
nghị kiểm tra lại kết quả QTTá năm 2001 theo tỷ lệ nội địa hóa để BTC xem xét phối hợp
với các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý”.
Việc xử lý, theo ụng Trương Chí Trung, Thứ trưởng BTC, trong quá trỡnh kiểm tra
QTT năm 2001 (theo đề nghị của DN), nếu phát hiện bất kỳ sự sai phạm nào trong việc
thực hiện chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa như DN không đủ các điều kiện; không

9
lắp ráp và bán bộ linh kiện cho các đơn vị khác, bán tư cách pháp nhân cho các DN khác
nhập khẩu bộ linh kiện; nhập khẩu bộ linh kiện không đúng với khai báo Hải quan; không
chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của linh kiện, phụ tùng thực tế được sản xuất
trong nước (mua bán hóa đơn để hợp thức hóa linh kiện, phụ tùng nội địa hóa, mua linh
kiện, phụ tùng nội địa hóa của các DN mua hàng nhập khẩu không rừ nguồn gốc...) thỡ
cỏc DN bị xử lý truy thu thuế bao gồm cả thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp... và bị phạt theo các quy định hiện hành và chỉ đạo của Chính phủ.
Vẫn theo Thứ trưởng Trung, quá thời hạn ngày 20 tháng 4 tới, nếu các DN không có ý
kiến đề nghị xem xét lại (kể cả những DN chưa ký biờn bản QTT), thỡ cỏc DN phải thực
hiện nộp thuế theo đúng các thông báo nộp thuế của cơ quan Hải quan. Theo nhiều DN,
công văn này đó đẩy DN vào “tiến thoái lưỡng nan”. Do, thời gian từ nay đến ngày 20
tháng 4 đó cận kề khiến cho nhiều DN khụng đủ thời gian làm mọi thủ thủ tục cần thiết
để chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của linh kiện, phụ tùng thực tế được sản xuất
trong nước.
Bởi nếu đề nghị BTC kiểm tra lại kết quả QTT thỡ khỏc nào “tự sỏt”, cũn nếu đồng ý
với biờn bản QTT thỡ DN phải nộp đầy đủ các khoản truy thu thuế dẫn đến sẽ có không

ít DN bị sạt nghiệp, phải đóng cửa hoặc thu hẹp sản xuất.
Theo ghi nhận của báo Đầu tư, kể từ khi BTC và các DN sản xuất, lắp ráp xe máy chưa
nhất trí được với nhau xung quanh vấn đề này, cho đến nay, đó cú khá nhiều cuộc họp
giữa các bên liên quan được tổ chức. Tại những cuộc họp này, BTC luôn luôn bảo lưu
quan điểm QTT thuế nhập khẩu bộ linh kiện xe máy theo tỷ lệ nội địa hóa của mỡnh là
hoàn toàn đúng luật (dựa Thông tư 176/1998/TTLT/BTC-BCN-TCHQ, Thông tư
120/2000/TTLT/BTC-BCN-TCHQ và Thông báo 99/2002/TB-VPCP của Văn phũng
Chớnh phủ), cũn cỏc DN lại cho rằng, BTC ỏp đặt khi thực hiện các văn bản kể trên.
Ngoài ra, theo các DN, họ chưa bao giờ được biết tới Thông báo 99/2002, bởi vỡ Thụng
bỏo này khụng phải là văn bản pháp lý nờn BTC khụng thể dựa vào đó mà “ép” DN
được.
Vừa qua, để gây áp lực với BTC, không ít DN đó thu hẹp sản xuất, cho cụng nhõn nghỉ
việc. Cũn BTC cũng khụng muốn trỏnh một tiền lệ xấu, bởi vỡ chớnh sỏch nội địa hóa
đâu chỉ thực hiện riêng đối với ngành sản xuất xe máy, mà cũn ỏp dụng rộng rói với
nhiều ngành khỏc như điện, điện tử, cơ khí... Chính vỡ vậy, trong một cuộc họp mới đây
giữa TCT và các DN sản xuất, lắp ráp xe máy, sau “lời qua tiếng lại” khá gay gắt và
“không bên nào chịu nhường bên nào”, cuối cùng đại diện TCT đề xuất phương án “cái
chết bất ngờ”. Theo vị đại diện này, TCT đồng ý kiểm tra lại việc quyết tóan đối với
những DN chưa ký vào biờn bản QTT hoặc cũn ý kiến bảo lưu. “Nhưng, việc kiểm tra lại
sẽ chấm dứt ngay và bắt buộc DN phải chịu mức thuế suất thuế nhập khẩu theo đúng tỷ lệ
đó được xác định khi phát hiện ra DN có bất cứ hành vi gian lận nào”, đại diện này đề
xuất. Tuy nhiên, các DN đều hiểu rằng “bói ra ma, quét nhà sẽ ra rác” nên họ không đồng
ý với phương án này và kỳ vọng vào việc BTC và các cơ quan chức năng sẽ tỡm ra một
phương án khác có tính khả thi cao hơn và dễ được các bên chấp nhận.
Thế nhưng, mọi sự kỳ vọng của các DN về một phương án QTT theo tỷ lệ nội địa hóa
nào đó khả dĩ hơn đó khụng thành hiện thực.
2.DN Lắp Rắp Xe Máy Không Thể Xác Minh Nguồn Gốc Linh Kiện
Hiệp hội Xe đạp - Xe máy Việt Nam đã gửi Công văn số 11/XM về nội địa hoá xe
gắn máy năm 2001 và 2002 lên Văn phòng Chính phủ, trong đó đề nghị Thủ tớng Chính


10

×