CHƯƠNG 3
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
Chương 3: HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
VÀ SẢN XUẤT SẠCH HƠN
Ruth Hillary
Khó khăn trong việc đặt ra một tiêu chuẩn cho toàn thế giới là tiêu chuẩn này
phải áp dụng được cho các quốc gia với trình độ phát triển kinh tế và quản lý môi
trường khác nhau. Do sự khác biệt về kinh tế và quản lý môi trường, đặc biệt là giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển, các tiêu chuẩn này có thể dẫn đến
tình trạng các nước công nghiệp tiến bộ áp đặt những yêu cầu và hệ thống quản lý
của mình cho các nước đang phát triển. Họ nghi vấn rằng ngành công nghiệp ở các
nước phát triển có chấp nhận hệ thống quản lý môi trường (EMS – Environmental
Management System) trên qui mô lớn hay không; và những chính sách này sẽ hạn
chế hay tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của họ?
Ảnh hưởng của ISO 14001 đối với thương mại của các nước đang phát triển sẽ
phụ thuộc vào mức độ điều chỉnh của các tiêu chuẩn đó đối với doanh nghiệp.
Như đã thảo luận ở Hội nghò Liên hiệp quốc về thương mại (UNCTAD) và Hội
nghò của tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO), ISO 14001 có thể
có cả tác động tích cực và tiêu cực đối với thương mại.
3.1. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC ĐẾN THƯƠNG MẠI
Nếu ISO thành công trong việc thống nhất giữa các tiêu chuẩn EMS của khu vực
và của quốc gia, người được lợi có thể là những nhà xuất khẩu ở các nước đang phát
triển. Vì việc tiếp nhận những thông tin về một tiêu chuẩn quốc tế sẽ dễ dàng hơn
việc tìm hiểu về một số tiêu chuẩn riêng lẻ của các quốc gia khác nhau.
Một tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp tránh được những yêu cầu trái ngược nhau, giảm
chi phí cho thanh tra đa phương và giảm những phiền phức cho các công ty của các
nước đang phát triển khi thực hiện những yêu cầu của các cơ quan cấp chứng chỉ ở
các nước nhập khẩu khác nhau.
Chứng chỉ hệ thống quản lý môi trường của một công ty có thể làm gia tăng tín
nhiệm của khách hàng, cơ quan tài chính, công ty bảo hiểm và những người điều
hành đối với công ty đó. Công ty được cấp chứng chỉ có thể có thêm khả năng cạnh
tranh, tiếp cận thò trường nhanh hơn và rộng hơn, cải thiện được thò phần và thu
được nhiều lợi nhuận hơn từ xuất khẩu. Sự tham gia vào ISO 14001 của các nước
đang phát triển có thể làm gia tăng tín nhiệm với nước ngoài do được tin tưởng hơn
vào năng lực quản lý của đòa phương. Phần lớn các tổ chức đều cho rằng việc tuân
thủ ISO 14001 sẽ đe dọa khả năng cạnh tranh của các công ty đòa phương và sau đó
sẽ áp đặt một hàng rào thương mại.
3.2. HÀNG RÀO THƯƠNG MẠI CÓ THỂ CÓ
Các công ty được khuyến khích xem xét những tác động đến môi trường của các
sản phẩm của họ khi đặt ra những mục tiêu môi trường. Những sản phẩm không phù
hợp với những mục tiêu này có thể bò loại bỏ. Thêm vào đó, những phương thức và
37
CHƯƠNG 3
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
những yêu cầu liên quan đến khía cạnh môi trường do công ty đặt ra cần phải thông
báo cho nhà cung cấp. Các công ty lớn ở những nước công nghiệp có thể gây áp lực
với những nhà phân phối của mình, buộc họ phải được công nhận và có chứng chỉ
nhằm đảm bảo việc cải tiến công tác môi trường và thể hiện trách nhiệm môi trường
của họ.
Những áp lực này có thể đi xa hơn, trở thành việc sử dụng chứng chỉ làm một
tiêu chí để đạt được những ưu đãi trong thương mại, mua quotas của nhà cung cấp
hay thậm chí từ bỏ những nhà cung cấp không có chứng chỉ để làm ăn với những
phía khác có chứng chỉ. Đây là một kinh nghiệm của ISO 9000.
Các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển có thể gặp phải khó khăn khi xin
chứng chỉ hoặc khi đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Sau đây là một số trở
ngại cả về mặt chính sách lẫn về phía doanh nghiệp.
3.2.1. Thiếu thông tin và thiếu sự tham gia tích cực
Trong quá trình thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế, ISO luôn mở rộng cửa chào đón
mọi quốc gia có cơ quan thành viên của ISO. Mặc dù, số lượng các nước đang phát
triển là “thành viên tham gia” (tức là có quyền tham gia và biểu quyết về các tài
liệu dự thảo) của TC 207- Ủy ban làm việc về hệ thống tiêu chuẩn ISO 14000 đã
tăng đến 27 nước (tính đến tháng 9 năm 1996) nhưng đa số quốc gia đều báo cáo
rằng họ không thể tham gia một cách có hiệu quả vào các hoạt động tiêu chuẩn hóa.
Do khó khăn về tài chính, họ không thể cử đại diện thường trực tới các cuộc họp của
ISO. Sự thiếu khả năng tham gia tích cực vào quá trình đặt ra những tiêu chuẩn quốc
tế làm cho những nước đang phát triển không thể thể hiện được những mối quan
tâm của mình, do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả công việc. Các tiêu chuẩn, luật lệ,
thủ tục chủ yếu do các nước công nghiệp và đại diện của công ty lớn đặt ra mà động
cơ của họ rất khác nhau. Các quốc gia không phải là thành viên của ISO thường
không có đầy đủ thông tin về các tiêu chuẩn dự thảo. Do đó, họ rất thiệt thòi vì họ
chỉ được biết về các tiêu chuẩn khi chúng đã được ban hành và như vậy họ sẽ bò tụt
hậu so với những nước trực tiếp tham gia vào quá trình chuẩn bò cho việc cấp chứng
chỉ EMS.
3.2.2. Thiếu kiến thức và thiếu chuyên môn
Trở ngại chính cho các nước đang phát triển khi tham gia vào ISO 14000 là sự
thiếu kiến thức cần thiết về các tiêu chuẩn EMS. Ngoài ra, người ta cũng có thể
hiểu nhầm hoặc sử dụng sai ISO 14001 do việc diễn đạt các tiêu chuẩn đó. Các văn
bản về tiêu chuẩn này cần được người sử dụng dòch ra và cần phải cụ thể hóa hơn
nữa trước khi đưa vào áp dụng thực tế.
Việc thiếu các chuyên gia, thiếu cán bộ kiểm tra đủ tiêu chuẩn và thiếu người tư
vấn cũng là một trở ngại cho các nước phát triển. Những công ty của các nước đang
phát triển có thể không có những kinh nghiệm cần thiết để thực hiện EMS do họ
không quen phải chấp hành các qui đònh về môi trường. Nếu không được đào tạo và
trợ giúp, nhiều công ty sẽ không thể hoàn thành những thay đổi về hoạt động và cơ
38
CHƯƠNG 3
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
cấu cần thiết và duy trì một lực lượng cán bộ kiểm tra nội bộ nhằm tuân theo những
tiêu chuẩn ISO 14001.
3.2.3. Thiếu cơ sở hạ tầng và sự tín nhiệm
Chứng chỉ cho bên thứ ba có thể là một rào cản đối với các nước đang phát triển
do thiếu những cơ quan cấp giấy chứng nhận trong nước có uy tín và do chi phí liên
quan đến các cơ quan quốc tế này. Mặc dù ISO 14001 đã cho phép hình thức tự
chứng nhận nhưng liệu hình thức này có đựơc khách hàng chấp nhận hay không thì
còn cần phải xem xét. Thiếu kinh phí và thiếu các kỹ năng chuyên ngành là lý do
chủ yếu dẫn đến cơ sở hạ tầng yếu kém. Mặc dù, khi cấp chứng nhận, ISO 14001
không yêu cầu phòng thí nghiệm đắt tiền hay trang thiết bò quá hiện đại nhưng
nhiều khi nó đòi hỏi về quản lý chất lượng và các tiêu chuẩn về an toàn cũng như
sức khỏe, mà chính các tiêu chuẩn này lại đòi hỏi cơ sở vật chất hiện đại cao cấp…
Ngay cả khi ở những nước đang phát triển có cơ quan cấp chứng chỉ riêng thì
những công ty xuất nhập khẩu vẫn có thể gặp những khó khăn do các đối tác buôn
bán nước ngoài không tin tưởng vào chứng chỉ do các tổ chức trong nước cấp.Uy tín
của một hệ thống cấp chứng chỉ phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của cán bộ kiểm
tra và đánh giá. Do thiếu một hệ thống các chuyên gia kiểm tra quốc tế có đủ điều
kiện, các nước đang phát triển phải lónh hội kiến thức chuyên môn trong lónh vực
này thông qua những khóa đào tạo tại nước ngoài do các tổ chức có uy tín hướng
dẫn. Vấn đề là ở chỗ vai trò của danh tiếng rất quan trọng. Cùng một tổ chức cấp
chứng nhận có thể được các đối tác thương mại khác nhau đánh giá khác nhau.
3.2.4. Thiếu quản lý
Do thiếu những khuyến khích kinh tế từ phía chính quyền, do thiếu thông tin và
do thiếu nhận thức nên có thể dẫn đến việc các công ty của các nước đang phát triển
thiếu quản lý chặt chẽ để triển khai EMS. Chẳng hạn như, tập đoàn công nghiệp n
Độ đã xác đònh những trở ngại do quản lý là: rất khó nhận ra những lợi ích của EMS
trong khi lại chỉ thấy những phức tạp của các tiêu chuẩn ISO 14001; nhầm lẫn về sự
giống nhau giữa những tiêu chuẩn của ISO 9000 và ISO 14001 và cho rằng việc
thực hiện theo những tiêu chuẩn này chỉ tạo thêm nhiều công việc. Kinh nghiệm
thực hiện ISO 9000 ở Mexico đã cho thấy sự thiếu giảm tới các phương thức, tư liệu
và hồ sơ cũng là một trở ngại cho việc triển khai ISO 9000. Còn các công ty ở
Vigeria, thói quen ra quyết đònh cá nhân thường đi liền với cơ cấu tổ chức không
phân đònh rõ ràng và nhân viên lại không được đào tạo đến nơi đến chốn. Cán bộ
quản lý có xu hướng không thích các hệ thống vì những biện pháp hệ thống hóa
nhiều khi cản trở việc ra quyết đònh cá nhân hoặc có thể can thiệp vào những hoạt
động sai trái, tham nhũng hoặc những quy đònh cá nhân ưu đãi cho một số đối tượng
do yêu cầu riêng của cấp trên, do tín ngưỡng, sắc tộc,… sự thờ ơ của nhân viên và
thậm chí là những phản ứng tiêu cực đối với yêu cầu của cán bộ kiểm tra cũng được
coi là những trở ngại ở cả n Độ và Nigeria.
39
CHƯƠNG 3
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
3.2.5. Thiếu công nghệ
Mặc dù, việc thực hiện ISO 14001 không trực tiếp đòi hỏi những thiết bò kỹ thuật
nhất đònh nhưng để tuân theo những qui đònh của nó và để tiếp tục cải tiến công tác
môi trường, không thể không đầu tư cho những công nghệ mới. Các nước đang phát
triển có thể không có sẵn các “công nghệ sạch” và do đó thường phải nhập công
nghệ với giá cao. Việc nhập công nghệ mới đòi hỏi chi phí đào tạo để nâng cao
trình độ nhân viên. Đầu tư vào công nghệ mới có thể không khả thi về mặt kinh tế
nếu nhà xuất khẩu buộc phải tăng giá bán đến mức không thể cạnh tranh được trên
thò trường.
3.2.6. Các chi phí liên quan
Những chi phí lớn liên quan đến việc tham gia vào ISO 14001 là một trong
những yếu tố chính đang gây khó khăn cho các nước đang phát triển. Chi phí cho tư
vấn, chi phí để đạt và duy trì chứng chỉ đang là những vấn đề đặc biệt cho các công
ty nhỏ và vừa. Theo kinh nghiệm thực hiện ISO 9000, ước tính một công ty nhỏ
không có chương trình môi trường và không có hệ thống kiểm tra chất lượng tại chỗ
có thể phải mất 90.000 USD cho chi phí tư vấn, 20.000 USD cho chi phí đăng kí và
cứ 6 tháng lại mất 10.000 USD để xin gia hạn đăng kí. Ngoài ra, còn các chi phí cho
phân tích, tài liệu và kiểm tra EMS cũng như chi phí đào tạo nhân viên. Do các
nước đang phát triển thiếu cơ quan đánh giá có uy tín trong nước nên các nhà sản
xuất có thể tìm đến các cơ quan trực thuộc của nước ngoài và mời các cố vấn nước
ngoài đến để đào tạo những chuyên môn cần thiết.
3.2.7. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển sẽ gặp nhiều khó khăn
nhất khi thực hiện ISO 14000. Thiếu thông tin, thiếu cán bộ có trình độ và thiếu
kinh phí để triển khai và xin công nhận cho EMS là những vấn đề thực sự quan
trọng đối với những doanh nghiệp này.
Thông cảm với những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chuyên
gia của Ủy ban kỹ thuật TC 207 đã tiến hành điều tra về các doanh nghiệp này và
năng lực thực hiện EMS của họ. Kết quả là, không cần có tiêu chuẩn riêng cho các
doanh nghiệp này và ISO thích hợp cho mọi công ty, với mọi qui mô khác nhau. Kết
luận của Ủy ban kỹ thuật TC 207 trái ngược hẳn với yêu cầu có một nguyên tắc
hướng dẫn đặc biệt cho riêng các xí nghiệp loại này do các đại biểu của các nước
đang phát triển đưa ra và được chấp nhận trong cuộc họp toàn thể tổ chức vào tháng
6/1996. Một loạt các dự án đang được triển khai để kiểm tra xem liệu các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thực sự gặp phải những khó khăn khi thực hiện ISO 14001 hay
không, sau đó báo cáo lên Ủy ban kỹ thuật TC 207 để quyết đònh những bước tiếp
theo.
3.3. NHỮNG CHIẾN LƯC ĐỂ TRÁNH HÀNG RÀO THƯƠNG MẠI
Để giảm bớt những khó khăn cho các nước đang phát triển, cần có một phương
thức kép nhằm đạt được sự công nhận của ISO 14001 và cần có các cơ quan cấp
40
CHƯƠNG 3
Hệ thống quản lý môi trường và sản xuất sạch hơn
chứng nhận có uy tín. Sự đóng góp của các nước công nghiệp hóa là rất quan trọng
để tránh những rào cản thương mại mà ISO 14001 có thể tạo ra. Sau đây là một vài
phương pháp được đề xuất:
3.3.1. Áp dụng các tiêu chuẩn một cách có hệ thống
Để thu được những kết quả tích cực từ việc thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia,
các nước cần sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế của ISO 14001 làm cơ sở phát triển và
điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc gia.
Theo dự kiến, cơ quan Công nhận Đánh giá Hệ thống Chất lượng (QSAR)- một
cơ quan đánh giá của ISO hỗ trợ cho các cơ quan đánh giá và cấp chứng chỉ quốc
gia- sẽ được thành lập vì lợi ích của các nước đang phát triển. Ngoài ra, các nguyên
tắc chỉ đạo quốc tế, cung cấp những thông tin để làm rõ thêm những yêu cầu của
ISO 14001 cùng hệ thống những chuyên gia kiểm tra quốc tế đủ điều kiện sẽ là cơ
sở cho những phương thức đánh giá và chứng nhận khách quan hơn, thống nhất hơn.
3.3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Các nước đang phát triển cần có sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để xây dựng
cơ sở hạ tầng trong nước nhằm đạt tiêu chuẩn được cấp chứng nhận EMS. Các cơ
quan cấp chứng nhận trong nước cần được thành lập theo những nguyên tắc chỉ đạo
của quốc tế để đảm bảo uy tín.
Sự hợp tác khu vực của các nước đang phát triển trong việc xây dựng cơ sở hạ
tầng có thể giúp họ vượt qua những khó khăn do tài chính hạn hẹp.
3.3.3. Tăng cường thông tin và sự tham gia tích cực
Sự tham gia tích cực hơn vào quá trình thiết lập các tiêu chuẩn sẽ giúp các nước
đang phát triển có thêm những thông tin cần thiết và nâng cao lợi ích của họ, đồng
thời có thể loại bỏ bất kì rào cản tâm lý nào do sự ngộ nhận rằng các tiêu chuẩn là
do các nước công nghiệp hóa áp đặt. Trong khuôn khổ chương rình hỗ trợ của mình,
ISO cấp kinh phí đi lại cho đại biểu của các nước đang phát triển để họ tham dự 1
hoặc 2 cuộc họp, với hy vọng điều đó sẽ tạo cho họ tham gia rộng khắp hơn.
ISO nên cho phép cả các nước chưa phải là thành viên của ISO được tiếp cận với
những tiêu chuẩn dự thảo nhằm loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực thương mại khi
các nước này phải điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của các tiêu chuẩn đó. ISO
cần đảm bảo rằng, các tiêu chuẩn quốc tế được sử dụng theo hướng có lợi cho các
nước đang phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và việc ban hành các
tiêu chuẩn này phải được phổ biến rộng rãi.
3.3.4. Nâng cao nhận thức và đào tạo
Các biện pháp nhằm năng cao nhận thức về tầm quan trọng và lợi ích của ISO
14001 sẽ góp phần tăng sự nhiệt tình hưởng ứng của cả phía chính quyền lẫn ngành
công nghiệp của các nước đang phát triển. Ở một số nước, vai trò của các cơ quan
tiêu chuẩn nhà nước với chức năng điều tiết nền công nghiệp cần phải thay đổi. Sự
tham gia của thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện các
tiêu chuẩn và cung cấp chương trình đào tạo là rất quan trọng.
41