Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Bài giảng Văn hoá bản địa (Ngành: Hướng dẫn du lịch) - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 46 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG LÀO CAI

TẬP BÀI GIẢNG
MƠN HỌC: VĂN HỐ BẢN ĐỊA
NGÀNH: HƯỚNG DẪN DU LỊCH
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG, TRUNG CẤP HƯỚNG DẪN DU LỊCH

1


2


Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀO CAI
1. Khái quát chung về Lào Cai
1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội LC
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên LC
*Vị trí địa lý
Diện tích: 6.383,9 km²
Phía đơng giáp tỉnh Hà Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên
Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới.
Lào Cai là tỉnh thành có địa hình cao nhất và có khí hậu bị ảnh hưởng rõ nét từ độ cao ở nước
ta. Trong đó, thị trấn Sa Pa từ lâu đã được biết đến như một đô thị du lịch miền núi điển hình,
một điểm du lịch hấp dẫn du khách với nhiều sản phẩm du lịch đặc trưng rất hấp dẫn. Tỉnh
Lào Cai cịn có những vùng quanh năm có sương mù giăng mờ ảo, khí hậu trong lành, mát mẻ
nên rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch nghỉ dưỡng, khám phá. Rất nhiều loại hình du lịch
mạo hiểm của tỉnh đã được hình thành và được du khách đón nhận.
* Địa hình
Tỉnh Lào Cai có địa hình cao và hiểm trở nhất nước ta. Độ cao của tỉnh trên 700m trở lên,
vùng này được hình thành từ những dãy núi khối lớn với 2 dãy núi chính là dãy Hồng Liên


Sơn và dãy Con Voi. Phía hữu ngạn sơng Hồng là dãy Hồng Liên Sơn đồ sộ có nhiều đỉnh
cao: Phan Xi Păng: 3.143m; Tả Giàng Phình: 3.090m; Pú Lng: 2.938m... Ðịa hình vùng núi
cao thuộc khối nâng kiến tạo mạnh có độ chia cắt sâu từ lớn đến rất lớn và chia cắt ngang từ
trung bình đến rất mạnh (Từ cấp 1,5km/ Km2 đến 2,5km/ Km2). Ðộ dốc địa hình khá lớn chủ
yếu từ 150 đến 200. vùng núi cao là nơi cư trú chủ yếu của các dân tộc: H'mơng, Dao; Hà Nhì;
Phù Lá; Kháng La; La Chí...
Vùng thấp chủ yếu là thung lũng dọc ven sơng, ven suối lớn địa hình máng trũng có bề mặt
dạng đổi. Bên cạnh thung lũng dọc sông Hồng và thung lũng Mường Than (Lớn thứ 3 vàng tây
Bắc) là các thung lũng nhỏ hẹp bị bao bọc bởi các sơn nguyên, dãy núi đây là nơi cư trú của
các dân tộc Tày, Thái, Nùng, giãy, Lự, Bố y, Mường...
Sự đa dạng về địa hình đã tạo nên cho tỉnh Lào Cai những thắng cảnh đẹp, quyến rũ du khách
như: Sa Pa, Ý Tý, Bắc Hà, Mường Khương…. Đồng thời, một số sản phẩm du lịch mạo hiểm
cũng đã được nhiều du u thích: Trekking tour, leo núi, vượt sơng…
* Khí hậu
Khí hậu Lào Cai là khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng miền núi, mùa đơng lạnh khơ, ít mưa,
mùa nè nóng mưa nhiều. Lào Cai cũng có nhiều tiểu vùng khác nhau: vùng cao nhiệt độ trung
bình từ 150 C đến 200 C, lượng mưa trung bình từ 1.800mm đến 2.000mm. Vùng thấp nhiệt độ
trung bình từ 230 C đến 250 C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm đến 1.700m. Lào Cai là tỉnh
thành có khí hậu chịu nhiều ảnh hưởng của địa hình núi cao. Do đó, khí hậu tương đối mát mẻ,
có một số huyện như Sa Pa, Bắc Hà…thời tiết dịu mát quanh năm. Đây là một điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng.
3


Tuy nhiên, do khí hậu và địa hình phức tạp nên vùng có nhiều hiện tượng khí hậu bất thường
(lũ quét, sạt lở đất) cũng gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch.
`* Sơng ngịi
Lào cai có 107 sơng suối chạy qua tỉnh, với 3 hệ thống sơng chính là sơng Hồng, (có chiều dài
chạy qua địa phận Lào Cai 120km), sơng Chảy (có chiều dài chạy qua tỉnh là 124 km) sơng
Nậm Thi (có chiều dài chạy qua tỉnh là 122km). Các dịng sơng kết hợp với địa hình tạo nên

những thắng cảnh sơn thủy hữu tình đặc biệt của vùng cao. Đặc biệt, hệ thống sông suối còn
tạo nên một số những thác nước đẹp như Thác Bạc, thác Tình u, thác Tà Lâm… có giá trị
cho hoạt động du lịch.
*Sinh vật
Đặc điểm nổi bật của sinh vật Lào Cai là tính đa dạng sinh học. Tồn tỉnh có hơn 2000 lồi
thực vật, 442 loại chim, thú, bị sát, ếch nhái. Trong đó có 60 loại động vật chỉ tìm thấy ở Lào
Cai, 9 loại thực vật chỉ tìm thấy ở Sa Pa. Lào Cai có kho tàng quỹ gen đặc biệt quý hiếm
(chiếm tới gần 50% số loại thực vật đặc biệt quý hiếm ở nước ta). Đặc biệt do khí hậu mát mẻ,
tỉnh là khu vực trồng nhiều loài hoa (các loại hoa lan, hoa hồng…) và thuốc quý phục vụ nhu
cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Tỉnh có VQG Hồng Liên nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên
Sơn thuộc địa bàn các huyện Than Uyên, Phong Thổ tỉnh Lai Châu và Sa Pa của tỉnh Lào Cai.
Đây là nơi có hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng, đặc biệt là loài đỗ quyên với khoảng
20 loài trong tổng số 27 lồi có mặt tại Việt Nam, trong đó đẹp và nhiều nhất là lồi qun ly,
qun huyền diệu, qun silie. Về động vật, có lồi quen thuộc như sóc bay, mèo rừng, sơn
dương, vượn đen, và những lồi có nguy cơ tuyệt chủng như vượn đen tuyền, hồng
hoàng, cheo cheo, voọc bạc má. Hệ thống động thực vật phong phú là điều kiện để phát triển
du lịch sinh thái.
1.1.2. Đặc điểm xã hội
* Dân số
Dân số: 626.2 nghìn người (2010)
Dân tộc: Việt (Kinh), H’Mmơng, Tày, Dao, Thái...
Tỉnh Lào Cai là địa bàn cư trú của 27 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất
phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử. Trong đó Người Việt chiếm số đơng,
có mặt khá sớm và đặc biệt chiếm tỉ lệ cao trong những năm 1960 bởi phong trào khai
hoang và cán bộ được điều động từ thành phố Hải Phòng các tỉnh Phú Thọ,Thái Bình, Hà
Nam... lên.
Chính sự phong phú về đời sống các dân tộc đã tạo ra một bản sắc riêng của Lào Cai. Nhiều
các làng bản đã được quy hoạch để phục vụ cho việc phát triển du lịch. Đây cũng là một trong
những sản phẩm du lịch đặc sắc hấp dẫn du khách.

*.Đơn vị hành chính
01 Tỉnh lỵ (Thành phố Lào Cai), 01 thị xã Sa Pa; 07 huyện: Mường Khương, Bát Xát, Bắc Hà,
Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn, Si Ma Cai.

4


Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thơng vận tải đa dạng, bao gồm:
đường bộ, đường sắt, đường sông, và trong giai đoạn tiếp theo sẽ triển khai dự án sân bay Lào
Cai. Trong tương lai hệ thống sân bay hoàn thành sẽ là điều kiện phát triển du lịch của tỉnh, kết
nối tỉnh Lào Cai dễ dàng hơn với trung tâm du lịch Hà Nội và với nước bạn Trung Quốc.
Không những thế, Lào Cai có tài nguyên du lịch tự nhiên và tài ngun du lịch văn hóa đa
dạng:
*Di tích văn hóa - lịch sử, và lễ hội
Lào Cai là tỉnh thành khơng tập trung nhiều di tích văn hóa - lịch sử, nhưng mỗi một di tích lại
mang những dấu ấn rất riêng, đậm nét văn hóa truyền thống vùng đất địa đầu tổ quốc này.
Hiện nay, tỉnh có 12 di tích văn hóa - lịch sử được xếp hạng, trong đó có một số di tích rất hấp
dẫn khách thập phương đến tham quan như: Đền Thượng, bãi đá cổ, đền Trung Đô, đền Bảo
Hà, đền Đôi Cô, đền Phúc Khánh…..
Lào Cai là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc đặc trưng của vùng núi phía Tây Bắc nên ngoài các
lễ hội của người Kinh, lễ hội của các dân tộc thiểu số nơi đây như một nét chấm phá tạo nên sự
hấp dẫn về tài nguyên du lịch của tỉnh thành này.
Lào Cai có 27 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa phong phú và
độc đáo, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng, mn màu rực rỡ cho mảnh đất Lào Cai.
Theo kết quả điều tra cơ bản, kho tàng di sản văn hóa các dân tộc Lào Cai bao gồm trên 50 di
tích danh thắng, trong đó 26 di tích đã xếp hạng các cấp (quốc gia và tỉnh); hàng trăm lễ hội,
trò chơi dân gian, hàng ngàn bài dân ca, điệu múa; 9 loại hình nghề thủ cơng truyền thống.
Hàng trăm sản vật và món ăn đặc sản; hàng trăm phong tục tập quán... là những tinh hóa văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Ngồi ra, nhiều sản vật, đặc sản văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc đã xây dựng được

thương hiệu điển hình như: rượu Bản Phố, mận Tam hoa (Bắc Hà), rượu San Lùng (Bát Xát);
tương ớt, gạo Séng cù, thắng cố ngựa (Mường Khương); dược liệu thuốc, dịch vụ tắm lá thuốc
chữa bệnh, su su (Sa Pa)... Nhờ công tác tuyên truyền giới thiệu và quảng bá, các sản vật, đặc
sản đã trở thành sản phẩm hàng hóa góp phần tăng thu nhập kinh tế gia đình, cộng đồng, phát
triển kinh tế địa phương.
*Các tài nguyên du lịch nhân văn khác
Bên cạnh các nguồn tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, tỉnh Lào Cai còn kết hợp với
tỉnh Yên Bái, Phú Thọ để hàng năm tổ chức chương trình “Du lịch về nguồn”. Chương trình
này đã thu hút lượng khách lớn đến tham quan theo các tuyến du lịch mang tính dân tộc.
Song song với các chương trình du lịch tổng qt mang tính liên ngành, tỉnh Lào Cai còn
thường xuyên tổ chức các lễ hội mang đậm tính chất vùng, miền như: lễ hội trên mây, lễ hội
hoa đăng, lễ đua ngựa… Đây là những hoạt động kích thích, thu hút khách du lịch đến trải
nghiệm.
2. Đặc điểm chung về Văn hóa Lào Cai
5


Nhận xét chung về VHLC
Đặc trưng VHLC thể hiện tính đa dạng và phong phú
Tính đa dạng, phong phú của văn hoá Lào Cai thể hiện cả trong lĩnh vực văn hoá vật thể và
văn hoá phi vật thể.
* Về nhà cửa: của đồng bào ở Lào Cai có nhiều loại hình khác nhau. Nếu căn cứ vào sự cấu
tạo của nền nhà, các tộc người Lào Cai có 3 loại hình nhà chính:
Nhà nền đất (tiêu biểu là các tộc Việt, Mông, Hoa...);
Nhà nửa sàn nửa đất như dân tộc Dao (nhóm Dao đỏ...);
Nhà sàn (người Tày, Thái, Kháng, La Ha...).
Trong loại hình nhà nền đất có loại nhà đất của người Việt, nhưng cũng có loại nhà nền đất
tường trình của người Mơng, nhà nền đất tường trình theo kiểu pháo đài của người Hà Nhì...
Trong loại hình nhà sàn có loại nhà sàn bốn mái gần như hình vng của người Tày, nhưng
cũng có kiểu nhà sàn mái trịn của người Thái, hoặc nhà sàn tường trình của người Tày Bắc

Hà...
* Về trang phục: Lào Cai luôn rực rỡ sắc màu, phong phú về kiểu loại. Mỗi tộc người có kiểu
trang phục khác nhau. Nhưng trong cùng tộc người cũng có những ngành có trang phục riêng.
Mỗi ngành Dao trang phục đều khác nhau.
Trang phục của người Mơng hoa, Mơng xanh, Mơng đen, Mơng trắng, cũng có kiểu cách, màu
sắc khác hẳn nhau. Phụ nữ Mông ở các huyện khác mặc váy, nhưng phụ nữ Mông ở Sa Pa lại
mặc quần cộc.
Đặc biệt, cũng là người Tày, nhưng người Tày ở Văn Bàn, Bảo Yên mặc áo ngắn, vắy ngắn,
còn người Tày ở Bắc Hà lại mặc áo dài và quần dài. Mỗi phiên chợ vùng cao Lào Cai đều là
nơi gặp gỡ hội tụ của nhiều kiểu trang phục.
* Về VHNT dân gian: Tính đa dạng, phong phú của văn hoá cũng thể hiện rõ nét ở văn học
nghệ thuật dân gian.
Múa
Mới khảo sát sơ bộ, Lào Cai có hơn 80 điệu múa khác nhau. Có những điệu múa dùng trong
sinh hoạt (như xoè vòng, xoè chiêng), nhưng cũng có các điệu múa chỉ dùng trong nghi lễ tơn
giáo hoặc lễ hội. Chỉ riêng nhóm Dao họ (Dao quần trắng) ở Bảo Thắng, Bảo Yên đã có 7 điệu
múa khác nhau (múa kiếm, múa sạp, múa chuông, múa khăn, múa mặt nạ, múa trống, múa gà).
Nhạc khí
Nghệ thuật âm nhạc cũng rất đa dạng, chỉ tính riêng nhạc khí, Lào Cai đã có đủ 10 họ với 11
chi khác nhau.
Văn học
Trong văn học dân gian, mỗi dân tộc có đầy đủ hệ thống, các loại hình từ thần thoại, truyện cổ
tích, truyện ngụ ngơn đến tục ngữ, câu đố, dân ca (dân ca giao duyên, dân ca nghi lễ phong
6


tục, các bài ca than thân...). Hệ thống truyền thuyết, truyện cổ liên quan đến địa danh làng,
bản, sông, núi khá phong phú.
* Về Tơn giáo tín ngưỡng
Trong tơn giáo, bên cạnh tơn giáo tín ngưỡng bản địa (thờ cúng tổ tiên, thần bản mệnh...)

chiếm địa vị quan trọng, còn xuất hiện một số tơn giáo mới du nhập.
Các tín ngưỡng dân gian đã chịu sự ảnh hưởng của tam giáo, ảnh hưởng này diễn ra khá mạnh
ở vùng người Dao, Tày, Nùng, Giáy... nhưng nổi bật nhất là người Dao.
Trong miếu Vạn Thần của người Dao, bên cạnh Ngọc Hồng cịn có Phật là qn sư. Dưới
trướng của Ngọc Hồng và Phật cịn có Thuỷ Ngun, Linh Bảo, Đạo Đức. Sự đan xen giữa
Tam giáo với tín ngưỡng dân gian đã tạo ra diện mạo mới trong đời sống tinh thần của các dân
tộc Lào Cai.
Như vậy, sắc thái nổi bật trong văn hoá dân gian Lào Cai là tính phong phú của nhiều loại hình
văn hố. Nhờ có điều kiện, vị trí thuận lợi, giao lưu văn hố phát triển đã tạo ra bức tranh đa
dạng trong văn hố Lào Cai./.
CÂU HỎI ƠN TẬP
Câu 1. Hồn thành những từ còn thiếu vào trong dấu … dưới đây: Lào Cai có diện tích:
6.383,9 km², Phía đơng giáp tỉnh ….; phía tây giáp tỉnh ….và ….; phía nam giáp tỉnh …, phía
bắc giáp tỉnh …
A. Hà Giang, Sơn La- Lai Châu, Yên Bái, Vân Nam (Trung Quốc)
B. Hà Giang, Điện Biên- Lai Châu, Yên Bái, Vân Nam (Trung Quốc)
C. Cao Bằng, Lai Châu, Yên Bái, Vân Nam (Trung Quốc)
D. Yên Bái, Sơn La- Lai Châu, Hà Giang, Vân Nam (Trung Quốc)
Câu 2. Lào Cai là tỉnh thành có địa hình cao nhất và có khí hậu bị ảnh hưởng rõ nét từ độ cao
ở nước ta. Phía hữu ngạn sơng Hồng là dãy Hồng Liên Sơn đồ sộ có nhiều đỉnh cao:
A.
B.
C.
D.

Phan Xi Păng: 3.134 m; Tả Giàng Phình: 2.938 m;. Pú Luông: 3.090m
Phan Xi Păng: 3.143 m; Tả Giàng Phình: 3.090 m; Pú Lng: 2.938m...
Phan Xi Păng: 3.143 m; Tả Giàng Phình: 2.938 m;. Pú Lng: 3.090m
Phan Xi Păng: 4.134 m; Tả Giàng Phình: 3.090 m; Pú Lng: 2.938m...


Câu 3. Khí hậu Lào Cai là khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng miền núi, khí hậu tương đối
mát mẻ. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch nghỉ
dưỡng có một số huyện thời tiết dịu mát quanh năm như huyện:
A. Sa Pa, Mường Khương
B. Sa Pa, Bát Xát
C. Sa Pa, Si ma Cai
D. Sa Pa, Bắc Hà
7


Câu 4. Lào cai có 107 sơng suối chạy qua tỉnh, với 3 hệ thống sơng chính là:
A. Sơng Hồng, sông Nậm Thi, sông Chảy
B. Sông Hồng, sông Đà, sông Mã
C. Sông Hồng, sông Đà, sông Lô
D. Sông Hồng, sông Nậm Thi, sông Đà
Câu 5. Đặc điểm nổi bật của sinh vật Lào Cai là tính đa dạng sinh học, Lào Cai có kho tàng
quỹ gen đặc biệt quý hiếm, do khí hậu mát mẻ, tỉnh là khu vực trồng nhiều loài hoa, đặc biệt là
hoa:
A. Hồng
B. Ly
C. Cúc
D. Đỗ quyên
Câu 6. Tỉnh Lào Cai là địa bàn cư trú của 27 dân tộc cùng sinh sống. Chính sự phong phú về
đời sống đã tạo ra một bản sắc riêng của Lào Cai, đó là các dân tộc chủ yếu:
A. H’Mmông, Dao, Tày, Giáy
B. H’Mông, Dao, Mường, Ba Na
C. Dao, Lô lô, Khơ - me, Hán
D. Giáy, La hủ, Khơ mú, Chăm
Câu 7. Tính đến năm 2020, Lào Cai có:
A. 01 thành phố, 01 thị xã; 08 huyện

B. 01 thành phố, 02 thị xã; 06 huyện
C. 01 thành phố, 01 thị xã; 07 huyện
D. 01 Thành phố; 08 huyện
Câu 8. Tính đến năm 2020, kho tàng di sản văn hóa các dân tộc Lào Cai bao gồm trên 50 di
tích danh thắng, trong đó, di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Lào Cai là:
A. 26
B. 25
C. 24
D. 23
…………………………………………………

8


Chương 2.
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG LÀO CAI
1. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC H’MƠNG
1.1.Khái qt chung về người H’Mơng ở Lào Cai
Dân tộc H'Mơng ở Lào Cai có 4 ngành chính, phân bố ở các địa bàn cụ thể:
HMông Đư (HMông Trắng) ở Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa Pa.
HMông Lềnh (HMông Hoa) là ngành có số dân đơng nhất, chiếm 70% số người HMông Lào
Cai, cư trú cả 8 huyện nhưng tập trung chủ yếu ở Bắc Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng,
Bảo Yên.
HMông Đú (Mông Đen) cư trú rải rác tại Sa Pa, Bát Xát;
HMông chúa (Mông xanh) cư trú ở xã Nậm Xé, Huyện Văn Bàn;
(HMơng Sí (Mơng Đỏ), Na meo (Mông Mán) ở các tỉnh khác, H'mông Xúa (H'mơng Lai).)
Nhóm ngơn ngữ: Hmơng - Dao
1.2. Đặc trưng Văn hóa dân tộc H’Mơng
1.2.1. Văn hóa vật chất
*Nhà ở

Khơng những để ở mà còn là sản phẩm chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống. Bàn thờ
tổ tiên của người HMông rất đơn giản, chỉ là một mảnh ván hoặc 3 ống cắm hương làm bằng
tre nứa cắm vào tường. Việc làm nhà, chọn đất, hướng nhà, chọn 2 cây cột cái là cột chủ đạo
trong nhà, thể hiện sự ngay thẳng, cứng cáp, vững vàng… có ý nghĩa rất quan trọng trong đời
sống tâm linh của người HMông, nhất là trong tang ma (Cây cột cái ở giữa phía bếp lị dùng để
treo trống khi có người chết (ma tươi); cây cột cái giữa ở phía bếp sưởi để treo trống khi làm
ma khơ. Cây cái nóc gần trời nhất nên là nơi người trời về nghỉ ngơi, xem xét mọi việc làm
trong nhà. Người trời thường thanh cao nên khi đưa cây địn nóc ở rừng về người ta phải đưa
lên nóc ngay, khơng đựoc đặt xuống đất.
Nhà trình tường:
Do khí hậu lạnh khắc nghiệt nhà trình tường mát dịu vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông,
Thường thống nhất 3 gian, 2 cửa (một cửa chính, một cửa phụ) và phải có hai cửa sổ trở lên.
Trong 3 gian nhà chính: Gian bên trái: đặt bếp lò và chỗ ngủ của vợ chồng chủ nhà. Gian bên
phải: đặt bếp sưởi và giường khách. Gian giữa rộng hơn để đặt bàn thờ tổ tiên và là nơi tiếp
khách, ăn uống của gia đình. Hai gian trái: đặt cối xay ngơ, giã gạo…
Nhà sàn: Sín Chéng SMC của người Mơng Hoa: có 5 gian, 6 vì với kết cấu hai tầng bề thế. Có
4 dãy nhà nối tiếp, vng góc với nhau tạo khoảng khơng ở giữa là giếng trời. Nhà chính đối
9


diện với cổng vào, gồm phòng khách ở giữa và phịng ngủ hai bên. Tầng 2 của ngơi nhà được
dùng làm nhà kho chứa nông sản và các vật dụng trong gia đình.
Nhà nửa sàn nửa đất: Phần sàn để gác lương thực
Những căn nhà nổi tiếng Lào Cai: Nhà cổ Pha Long (Mường Khương); Nhà sàn người Mông
Hoa xã Sín Chéng (Si Ma Cai); Nhà trình tường thơn Say Sán Phìn, xã Mản Thẩn (Si Ma Cai);
bản Cát Cát của người Mông đen Sa Pa;
*Trang phục
Trang phục của người phụ nữ dân tộc Mông luôn rất sặc sỡ, mất rất nhiều thời gian và cơng
sức. Sự tài tình của phụ nữ Mơng chính là họ có thể làm ra những bộ trang phục của dân tộc
mình bằng chính đơi bàn tay khéo léo. Nổi bật trang phục Mông hoa Bắc Hà và Mơng đen Sa

Pa.
Nghệ thuật tạo hình trên các trang phục
Ở Bắc Hà, đồng bào Mơng hoa có dân số đông nhất trong cộng đồng các dân tộc thiểu số,
sống tập trung ở các xã Bản Phố, Lùng Cải, Lùng Phình, Tả Van Chư và Lầu Thí Ngài…
Đây là cộng đồng dân tộc có truyền thống văn hố đậm đà bản sắc, nổi bật là nghệ thuật tạo
hình trên các trang phục thổ cẩm của phụ nữ. Thường, bộ trang phục thổ cẩm của thiếu nữ
Mông đẹp rực rỡ sắc màu, hoa văn tinh xảo, tạo ấn tượng sâu sắc…Trang phục cổ truyền của
phụ nữ Mông hoa gồm khăn, áo xẻ ngực, váy, tấm vải che phía dưới trước váy, thắt lưng, xà
cạp… Khăn của phụ nữ Mông hoa có hai loại, đó là loại hình chữ nhật khổ 65x40cm thêu hoa
văn trùm lên đầu, một loại khăn vành rộng quấn quanh đầu. Áo của phụ nữ Mông hoa
thường xẻ nách, cổ cao, trên vai và ngực có nẹp thêm vải màu thêu, in hoa văn hình xoắn
ốc. Váy chủ yếu là dùng các màu đỏ, xanh đậm… trông nổi bật, rực rỡ. Thắt lưng là
miếng vải rộng khoảng 7 - 8 cm và dài 80 - 120 cm, đoạn giữa thắt lưng được thêu các
hoa văn, màu đẹp, quấn ngang bụng, tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ, đồng thời cũng
làm cho các thiếu nữ Mông có vóc dáng đẹp hơn. Họa tiết hoa văn trên nền trang phục
Mông hoa chủ yếu là các hoa văn hình học và mang tính chất ước lệ. Đó là những đường
ngang, viền đậm dài hoặc gẫy góc, tạo ra các khối hình vng, chữ nhật, hình thoi…
Trên trang phục của người Mơng hoa ở Bắc Hà, màu đỏ đóng vai trò chủ đạo. Màu này
phối hợp màu vàng, trắng nhằm đối chọi với nền chàm tạo nên sắc rực rỡ.
Phụ nữ Mông hoa giỏi may, thêu được cả cộng đồng đề cao, tơn trọng, đây cũng là tiêu chí để
các chàng trai lựa chọn vợ. Trước khi đi làm dâu, người mẹ tặng cho con gái bộ váy, áo coi
như của hồi môn. Khi về nhà chồng, cô gái lại thêu, dệt váy áo để tặng mẹ đẻ, mẹ chồng và
các em của chồng. Không những thế, người phụ nữ khi đã làm mẹ cịn có nghĩa vụ dạy bảo
con gái trồng lanh và làm thổ cẩm. Trẻ em gái dân tộc Mông hoa ngay từ khi 7 - 8 tuổi đã
được mẹ hướng dẫn cách dệt vải, thêu, may các hoa văn truyền thống, để đến khi lấy chồng
sẽ may được 8 - 15 chiếc váy làm của hồi môn.
*Nghệ thuật vẽ sáp ong (Kỹ thuật batick) và Kỹ thuật chắp vải
10



Thể hiện rõ trong trang phục người Mông bản Cát Cát Sa Pa, Mông hoa ở Bắc Hà. Kỹ thuật
này được sử dụng phổ biến trên trang phục ở người H’Mông và Dao Tiền. Người ta vẽ hoa văn
bằng sáp ong bằng cách nhúng bút vẽ vào sáp ong nấu chảy rồi vẽ lên vải mộc các họa tiết hoa
văn. Sáp ong sẽ dính lại trên nền vải, sau đó tấm vải được đem đi nhuộm chàm nhiều lần cho
đến khi có được màu như ý muốn. Những chỗ vẽ sáp ong thì nước chàm sẽ khơng thấm vào.
Sau khi giặt và phơi khô, người ta nấu chảy sáp ong đi cho sáp ong bám trên nền vải tan ra tạo
những họa tiết trắng trên nền vải chàm sẫm. Ngoài ra họ cũng in sáp ong bằng cách dùng
khn có chạm khắc các học tiết trang trí sẵn rồi nhúng vào sáp ong được đun nóng và dập lên
vải mộc.
Kỹ thuật chắp vải
Chắp vải là kỹ thuật tạo hoa văn bằng nhiều miếng vải nhỏ, màu sắc khác nhau khâu lên trên
một tấm vải đơn sắc, đây là một kỹ thuật được sử dụng phổ biến ở dân tộc Lô Lô đen, Lô Lô
hoa, Pu Péo và H’Mông. Trong những khuôn thức bố cục chặt chẽ, các màu nguyên sắc được
bố trí bên nhau làm rõ, làm tăng độ tương phản vốn có khiến hịa sắc trở nên rực rỡ, tươi sáng.
Người H’Mơng có kỹ thuật đáp vải rất tinh xảo gọi là "đáp vải ngược", nghĩa là mảnh vải đáp
được cắt lượn thành các hoạ tiết rồi đáp lên y phục để lộ màu nền bên dưới. Cùng màu sắc và
kỹ thuật thể hiện, các mơ típ hoa văn trở nên vô cùng tinh tế, bố cục chặt chẽ, hịa sắc rực rỡ
và mang tính đặc trưng riêng. Trang phục dân tộc Mông rất rất phong phú, nhiều kỹ thuật và
hình thức thể hiện. Đó chính là nét cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà phụ nữ Mơng đã tạo ra
trong tác phẩm của mình làm cho nó khơng bị nhịa lẫn trong các hoa văn dân tộc khác. Đây là
một điểm nhấn thú vị trong VH người Mông LC.
*Ẩm thực người Mông
Mèn mén: Đặc sản truyền thống của người dân tộc Mông, không thể không nhắc đến món mèn
mén một món ăn thường xuyên góp mặt trong các dịp lễ hội, tết, phiên chợ.Khơng khó để làm
nhưng mèn mén địi hỏi sự cơng phu và tốn nhiều thời gian, mèn mén ngon nhất phải được làm
từ giống ngơ tẻ địa phương. Bắp ngơ được đưa ra bóc vỏ, tẽ hạt rồi dung cối đá xay nhỏ, đặt
lên chảo nước rồi đun. Mèn mén khi đã chín có vị thơm rất đậm đà, một trong những gia vị
không thể thiếu khi ăn kèm đó là tương ớt, đậu xị và rau thơm.
Phở chua Bắc Hà: Khác với những loại phở bình thường, phở chua cần bánh phở, nước chua,
dưa muối chua, tàu xì, lạc rang, tương ớt. Sở dĩ nói đây là 1 món ăn dân dã vì bánh phở được

làm từ loại gạo địa phương, đặc biệt là tàu xì được chế biến rất cơng phu, mất đến 3 tháng để
có 1 hũ tàu xì ngon.
Thắng cố - niềm tự hào của người miền núi. Thắng cố được làm từ thịt lợn, thịt chó, thịt dê…
và các loại xương, ngũ tạng rửa sạch, nêm gia vị rồi ninh lên thành món tổng hợp. Cũng đã có
rất nhiều nhà hàng có loại đặc sản này, nhưng khơng nơi đâu thắng cố có 1 hương vị đặc biệt
như hương vị của miền núi nơi đây.
1.2.2.Văn hóa tinh thần
*Cưới xin
11


Tục cướp vợ người Mông
Nguồn gốc của tục Kéo vợ: Trước đây người Mông rất phổ biến tục “kéo vợ”. Khi chàng trai
Mơng ưng một cơ gái nào đó thì tổ chức đón đường, “kéo” cơ gái về làm vợ mình. Cơ gái bị
“kéo” về được nhà trai “dùng gà trống đánh dấu nhập nhà” buộc phải lấy chàng trai cho dù có
đồng ý hay khơng. Trong xã hội cũ, tục bắt vợ thường diễn ra là do những gia đình nhà trai có
quyền thế ép buộc các cơ gái về làm vợ.
Khi các cuộc cưỡng hôn này tan vỡ thì thường người con gái chỉ biết tìm đến cái chết. Bởi lẽ
sau khi đã “nhập ma” nhà trai, cô gái có tự ý bỏ về thì bố mẹ cơ cũng không thừa nhận nữa.
Hiện nay, ở một số nơi vẫn còn tồn tại phong tục này nhưng đã khác hẳn về tính chất, thường
là có sự thoả thuận từ hai phía cơ gái và chàng trai, để đặt gia đình hai bên vào một “sự đã
rồi”. Hoặc giả, lễ cưới đã được hai bên gia đình chuẩn bị, cịn việc “kéo vợ”. chỉ là làm tăng
thêm phần thi vị cho đôi lứa mà thôi. Suy cho cùng, tục “kéo vợ”. của người Mông khi gạt bỏ
những thủ tục lại khẳng định cho tình yêu mãnh liệt và niềm khát khao hạnh phúc, khao khát
hôn nhân tự do đã bị chế ngự và kìm hãm từ bao đời. Suy cho cùng, tục “kéo vợ”. của người
Mông khi gạt bỏ những thủ tục lại khẳng định cho tình yêu mãnh liệt và niềm khát khao hạnh
phúc, khao khát hôn nhân tự do đã bị chế ngự và kìm hãm từ bao đời.
*Lễ hội Gầu tào
Lễ hội Gầu Tào là lễ hội truyền thống của người Mông và được cộng đồng dân tộc Mông
thuộc các huyện Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai và thị trấn Phong Hải, tỉnh Lào Cai gìn

giữ từ xưa đến nay. Thơng thường, khi một gia đình người Mơng khơng có con, ít con hoặc
sinh con một bề hay có người ốm đau hoặc làm ăn khơng tốt…, họ sẽ lên đồi Gầu Tào khấn
xin thần linh ban cho con cái, cầu xin sức khỏe hay làm ăn thuận lợi. Khi lời cầu khấn trở
thành hiện thực, họ làm lễ Gầu Tào để tạ ơn thần linh.
Lễ hội tổ chức vào tháng Giêng hàng năm, nhưng việc chuẩn bị được tiến hành từ cuối tháng
Chạp, với hai nghi lễ là chặt tre và dựng nêu. Ngày chặt tre để dựng nêu, chủ nhà bày mâm lễ
để chủ lễ và những người giúp việc tiến hành nghi thức cúng. Gia chủ mời chủ lễ uống rượu và
sau hai ly rượu, chủ lễ bắt đầu hát bài “sây giể” (xem bói) về lý do làm lễ Gầu Tào. Sau đó,
chủ lễ xịe ơ, hát bài “sáy dìn sê” (đi tìm cây nêu) và dẫn đồn người đến chỗ cây tre đã chọn,
để chặt tre. Cây tre làm nêu phải thẳng, đều dóng, cao từ 9 - 12m, khơng sâu bệnh, không cụt
ngọn, không ra hoa, ngọn cây hướng về phía mặt trời mọc.
Lễ cúng bên cây nêu được diễn ra ngay buổi sáng hơm đó với lễ vật là gà, rượu và cơm. Chủ lễ
thắp hương, đốt tiền mã, rồi đi ngược chiều kim đồng hồ quanh cây nêu, hát bài “Tịnh chay”
(hẹn ngày) cúng báo thần linh biết việc gia đình dựng nêu tổ chức lễ tạ ơn (như đã hứa), rồi
mọi người hưởng lộc ngay dưới chân cây nêu.
Lễ hội Gầu Tào là lễ hội lớn nhất và có quy mơ cộng đồng duy nhất, gắn với đời sống tâm
linh, tinh thần của cộng đồng người Mông. Tuy nhiên, lễ hội Gầu Tào của người Mơng nói
chung, ở Lào Cai nói riêng, đang dần mai một, vì các nghệ nhân đều đã cao tuổi mà họ chỉ
truyền dạy cho con trai trưởng nên đã hạn chế việc trao truyền cho thế hệ kế tiếp. Hơn nữa, thế
12


hệ trẻ ngày càng không mặn mà với việc tham gia các nghi lễ cũng như các hoạt động trình
diễn truyền thống trong lễ hội. Để khẳng định giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học cũng
như sự cần thiết bảo vệ và phát huy di sản này, Lễ hội Gầu Tào của người Mông ở Lào Cai đã
được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản.
*Nghề Chạm bạc người H’Mông
Nghề Chạm khắc bạc của người Mông ở Sapa, Lào Cai. Chạm khắc bạc là nghề thủ cơng
truyền thống, có vai trị rất quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. bạc như một thứ bùa hộ
mệnh có chức năng bảo vệ sức khoẻ, hạnh phúc của con người, nên bạc còn liên quan đến

nhiều nghi lễ về tâm linh.
Các sản phẩm được tạo ra từ nghề chạm khắc bạc thường mang tính sáng tạo, thẩm mỹ cao,
bao gồm: vòng cổ - "pâux cu đăng"; vòng tay - “pâux tês”. Vịng tay có hai loại: vịng bản dẹt
và loại vịng có tiết diện trịn. Trên mặt vịng khắc hình hoa lá, hình con bướm,… theo lối tả
thực. Vịng vía - "pâux sux" là loại vòng được chế tác riêng, dùng để đeo cho trẻ em và người
lớn khi bị ốm, gồm ba loại: vòng chân, vòng cổ và vòng tay. Vịng vía thường được thiết kế
một chiếc khóa móc ở quãng hở, khi đeo xong, thầy cúng cài khóa lại coi như giữ khơng cho
vía rơi ra ngồi, khơng cho tà ma xâm phạm cơ thể. Vòng tai (khuyên tai) - "vịng che pláx",
xược cài tóc là loại trang sức dành riêng cho phụ nữ. Nhẫn ngón tay "khay": gồm 2 loại: tiết
diện trịn và dẹt. Đeo nhẫn có tiết diện tròn là dấu hiệu của những người còn độc thân (trai
chưa vợ, gái chưa chồng) hoặc đã goá vợ/chồng và đang có ý định tái giá.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc, tiêu biểu, Nghề thủ công truyền thống
Chạm khắc bạc của người Mông ở Sa Pa đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia năm 2013./.
CÂU HỎI ƠN TẬP
Câu 1: Người Mơng ăn tết vào thời gian nào?
A.Tháng 11 ÂL
B.Tháng 12 ÂL
C.Tháng 1 ÂL
Câu 2: Thắng cố là món ăn đặc trưng truyền thống của dân tộc nào?
A. H'Mông
B. Thái
C. Vân Kiều
D. Dao

Câu 3: Tục lệ con trai vỗ mông người con gái của người H'Mơng có ý nghĩa gì?
A. Cầu hơn cơ gái
B. Ra hiệu để mọi người biết cô gái đã là vợ của chàng trai
13



Câu 4: Trong đám cưới của người H'Mông, chú rể bắt cầm một con gà trống, quay nhanh 3
vòng trên đầu cơ dâu để làm gì?
A. Để xua đuổi tà ma nếu có bám trên người cơ dâu
B. Để nhập hồn cô dâu về nhà chồng
C. Để thông báo với thần linh
D. Cầu may

Câu 5: Phụ nữ H'Mông khi mang thai thường buộc một vòng cỏ tranh tươi quanh bụng để làm
gì?
A. Cầu mong sức sống đến với thai nhi
B. Ngăn cách tà quỷ không quấy phá thai nhi
C. Bụng thon gọn
D. Cầu may
Câu 6: Phụ nữ H'Mơng khi khó đẻ sẽ uống nước rửa tay của bố hoặc mẹ chồng. Tập tục này
có ý nghĩa gì?
A. Để truyền sự may mắn trong sinh đẻ của mẹ chồng trước kia
B. Để xin lỗi bố mẹ chồng vì đã khơng hiếu thảo khiến khó đẻ
C. Để mong con khỏe, ngoan
D. Để tạ ơn thần linh

…………………………..................................................................

14


2. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC DAO
2.1.Khái quát chung về người Dao ở Lào Cai
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần
chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hồng, Dụ Cùn), Dao Lơ gang (Dao Thanh phán,
Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao
Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 473.945 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmơng - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt
từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn
vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
2.2. Đặc trưng Văn hóa dân tộc Dao
2.2.1.Văn hóa vật chất
*Nhà ở
Theo quan niệm cổ truyền của người Dao, ngôi nhà lý tưởng phải được xây dựng ở nơi cao
ráo, cho phép quan sát được khoảng không gian rộng, thuận lợi cho việc làm ruộng nương, có
nơi để buộc trâu bị, khơng thiếu nước ăn trong mùa khơ.
Họ thích dựng nhà ở gần rừng, bởi rừng là nguồn tài nguyên quyết định mức sống cũng như
thời gian cư trú của các gia đình trong bản. Rừng cung cấp đất canh tác, cung cấp rau, củ quả,
muông thú, vật liệu để làm nhà… Căn cứ vào mặt bằng mà con người sinh hoạt trong mỗi ngôi
nhà mà nhà ở của người Dao được chia thành ba loại: nhà đất, nhà sàn và nhà nửa sàn - nửa
đất.
Loại hình nhà đất
Nhà đất là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc sống của người Dao, nhà
đất thường có ba hoặc năm gian đứng (khơng có chái). Người ta cho rằng: có ở nhà nền đất thì
mới có chỗ để cúng Bàn vương. Bộ sườn của nhà nền đất được cấu tạo khá đơn giản. Thơng
thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn. Với người Dao,
nhà nền đất ln mang tính chất bền vững, thích hợp với điều kiện sản xuất tương đối ổn định
ở miền núi rừng.
Loại hình nhà sàn

15



Nhà sàn phổ biến ở những người Dao đã làm ruộng nước và sống gần người Tày, Nùng, Việt
hoặc ở những thôn người Dao chuyên làm rẫy như: Dao Thanh y, Dao Áo dài, Dao Slán chỉ.
Nhà sàn được cất lên trên các gò đất thấp, dưới chân núi trong các thung lũng gần ruộng nước.
Tuy nhiên, dù thế nào thì nhà sàn của người Dao vẫn mang những nét tiêu biểu riêng. Nhà sàn
có sự thơng gió trên mái và dưới sàn để tránh ẩm. Mái nhà độc đáo theo phong cách của người
Dao với những tấm xà lớn được trang trí, và lợp bằng lá cọ đảm bảo sự mát mẻ cho mùa hè
nhưng lại ấm áp vào mùa đông. Mái nhà được xử lý một cách tự nhiên bằng khói từ ơ sưởi
vng trong nhà, trong cách dựng nhà của người Dao có thể thấy sinh thái học hình thành từ
xa xưa trước cả trào lưu về sinh thái.
Loại hình nhà nửa sàn - nửa đất
Nhà nửa sàn - nửa đất tập trung tại các làng người Dao sống bằng nương rẫy du canh, cư trú
trên đất dốc,vì thế những ngơi nhà này chỉ là phương tiện cư trú tạm thời. Để làm nhà nửa sàn
- nửa đất, người ta không phải bỏ ra nhiều công sức để san nền. Có thể nói, nhà nửa sàn - nửa
đất không chỉ là một bước phát triển của của loại hình nhà nền đất mà là một biến dạng của
nhà nền đất để thích ứng với điều kiện sản xuất du canh du cư trên nền đất dốc. Mặc dù có ba
loại hình nhà ở khác nhau nhưng vẫn có thể nhận ra những nét chung trong kiến trúc nhà ở
người Dao. Đó là vị trí và cách bố trí bên trong của một "gian đặc biệt" trong ngơi nhà. Gian
này thường có vách chắn theo chiều dọc của nhà và có một đoạn vách ngăn giữa nó với gian
bên,ở góc nhỏ này có bàn thờ,sau đoạn vách ngăn dọc là một buồng nhỉ thường để rượu hay
thịt ướp chua. Cách bố trí của gian nhà này là đặc trưng nhà ở của người Dao.
*Ẩm thực
Rượu thóc Thanh Kim là đặc sản do người Dao Đỏ thuộc xã Thanh Kim, huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai làm ra. Bản của người Dao Đỏ nằm nép mình dưới chân núi Fansipan. Người dân nơi
đây quanh năm chỉ biết đến những thửa ruộng bậc thang và nghề trồng lúa. Trong cái bình dị
của đời sống nông nghiệp, người Dao Đỏ đã sáng tạo ra rượu thóc Thanh Kim – món đặc sản
độc đáo. Để tạo ra một loại sơn tửu trời ban này, họ đem ủ những hạt thóc mộc mạc cùng với
loại men lá bí truyền. Ban đầu, rượu Thanh Kim chỉ được nấu để uống trong gia đình, thết đãi
khách quý hay dâng lên các vị thánh thần trong dịp lễ, tết. Nhưng với hương vị thơm ngon

tuyệt vời, sơn tửu này đã có cơ hội rời non xuống phố, trở thành thứ đặc sản Sa Pa nức tiếng
của người Dao Đỏ.
Rượu thóc Thanh Kim được chế biến rất cơng phu, nguyên liệu phải là thóc trên nương, men
lá truyền thống chứa đủ vị thảo dược của núi rừng Tây Bắc. Q trình chưng cất cũng diễn ra
hồn tồn thủ cơng. Thóc nương được mang về phơi khơ, rửa sạch rồi cho vào nồi nấu chín từ
5 – 6 giờ đồng hồ. Sau đó, người dân địa phương vớt thóc ra, để nguội, rồi trộn với men lá đã
được giã nhỏ. Sau đó, họ đem ủ vào chum khoảng 5 - 7 ngày. Khi thóc đã ngấm men, họ sẽ
được chuyển sang một hệ thống ủ khác, thêm nước vào ủ tiếp 8 – 10 ngày tùy theo thời tiết.
Cuối cùng, thóc đó được đem bỏ vào trõ gỗ hoặc gang rồi chưng cất thành rượu.
Món ăn
16


Đối với các nghi lễ của người Dao như đám cưới, vào nhà mới, đám ma, có một số món ăn
thường được chế biến theo chuẩn mực đã được tập quán cộng đồng quy định. Chẳng hạn,
trong đám cưới thường phải có các món như: xơi, thịt lợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu
với một số món như măng, đậu tương hầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá nhiều
món và được chế biến như trong những ngày Tết Nguyên đán. Trong lễ cấp sắc, họ thường ăn
thịt lợn, thịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt sóc để cúng lễ. Cịn trong đám ma có
thịt lợn luộc, thịt lợn xào, rau cải nấu, nhất thiết phải có món đu đủ nấu hoặc bi chuối rừng nấu
với xương lợn. Về cách sắp xếp số lượng người ngồi ăn trong mâm, vị trí ngồi, ngơi thứ, vị thế
trong dịng họ, chỗ ngồi theo tuổi tác và địa vị của khách… thì tuỳ theo sự quy định của từng
loại nghi lễ.
*Trang phục
Ngay từ khi còn bé, các cô gái Dao đã được mẹ dạy cho từng đường tơ, sợi chỉ, may vá, thêu
thùa. Đến khi biết làm duyên cũng là lúc đường tơ sợi đã thành thục. Họ được dạy từ những
công đoạn giản đơn, đến phức tạp, từ những chi tiết nhỏ đến cách nhuộm lại tấm áo chàm cho
mới khi nó bị bạc màu. Bằng cách truyền nghề, chỉ dẫn thấu đáo của các bà, các mẹ tạo cho
người phụ nữ Dao một nếp nghĩ ăn sâu vào tiềm thức, như một sắc thái độc đáo của văn hóa
Dao. Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức

vàng bạc, khăn vấn đầu... tất cả đều làm nổi bật trang phục phụ nữ Dao giữa đại ngàn núi rừng
Tây Bắc. Trước đây thì người Dao tự dệt vải để may trang phục của mình nhưng ngày nay thì
cịn rất ít người tự dệt lấy mà hầu như là dùng vải mua rồi mang về thêu hoa văn trang trí vào
bộ trang phục. Trang phục phụ nữ Dao thường có áo dài yếm kết hợp với quần. Theo quan
niệm của người Dao, trong bộ y phục của người phụ nữ quan trọng nhất là chiếc áo được thiết
kế dài đến gần đầu gối. Cổ áo được thiết kế theo hình chữ V có thêu hoa văn. Sau lưng áo của
phụ nữ Dao cũng có phần thêu hoa văn. Ở phần thêu này, người Dao cho rằng sẽ làm chiếc áo
thêm đẹp, thêm độc đáo và để dễ phân biệt dân tộc Dao với các dân tộc khác.
Áo người Dao có hai tà và phần cầu kỳ nhất để làm nên sự độc đáo trong chiếc áo của
phụ nữ Dao chính là những nét hoa văn được thêu ở phần đi áo. Người Dao cho rằng, nhìn
áo để biết người phụ nữ khéo hay khơng, nhìn áo để biết người phụ nữ có đảm đang hay khơng
chính là nhìn vào cách thêu hoa văn ở phần đi áo mà người phụ nữ mặc.
Trong khi đó, quần của phụ nữ Dao được thêu ở đoạn cuối ống giống với phần thêu trên áo để
tạo ra một bộ trang phục mang vẻ đẹp thẩm mỹ và rất tinh tế. Kiểu quần thường mặc là quần
chân què, cát hình lá tọa, đũng rộng có thể cử động thoải mái trong mọi tư thế lao động. Đồng
bào thường đeo thắt lưng được dệt bằng vải thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài
đủ quấn quanh thân người hai vòng, buộc lại ở phía sau, để bng dải đi xuống sau lưng.
Khăn đội đầu (Goòng phà) được người Dao đỏ trang trí hình vết hổ, cây vạn hoa, hình cách
đoạn... Hoa văn ở trên khăn từ ngồi vào có 5 lớp, 5 lớp này được bao khuôn ổ vuông ở trung
tâm "điểm" của khăn (ở thầy cúng thì có thêm 8 cánh sao tượng trưng cho đầu ông Tam thanh,
gọi chung là "Phàm sinh goong", được bài trí rất hài hịa và cơng phu. Khi đội lên đầu, các hoa
văn họa tiết của 5 lớp văn sẽ phơ ra ngồi, làm tăng thêm vẻ đẹp của chiếc khăn.
17


Có thể nói, nét đặc sắc tạo nên trang phục của người Dao Đỏ không thể thiếu hoa văn trang trí
trên khắp các bộ phận của trang phục.
Hoa văn trang trí trên dây lưng tập trung ở hai đầu gồm các họa tiết hình dấu chân hổ, hình cây
thơng, hình người mặc váy... Khi thắt dây lưng phải cuốn từ 3-4 vịng và buộc chặt ở phía sau.
Hoa văn trang trí trên quần được thêu thùa tỉ mỉ hơn. Họa tiết ở nửa dưới của hai ống quần là

các họa tiết hình vng, hình chữ nhật màu đỏ-vàng-trắng, hình cây thơng, hình chữ vạn, hình
quả trám... Khi mặc, quần phần trên màu đen khơng có hoa văn, quấn bằng dây, thắt lưng;
phần dưới của hai ống quần với các hoa văn, họa tiết đã tạo nên sự cân đối hài hịa cho tồn bộ
y phục.
Hoa văn trên áo bé tập trung chủ yếu ở phần ngực, cổ và lưng áo. Vì thế khi mặc áo dài chùm
bên ngồi, những họa tiết sẽ không bị che lấp mà ngược lại, chúng được phố ra bên ngoài một
cách tinh tế. Trong khi đó, hoa văn trang trí trên áo dài lại tập trung ở viền nẹp ngực tà áo và
đầu ống tay áo được trang trí các họa tiết hình sơm, hình dấu chân hổ, hình răng cưa, hình quả
trám, hình thập ngoặc... Nẹp ngực mỗi bên đính 7 quả bơng len đỏ và các tua len được đính ở
nơi xẻ tà. Nếu để ý kỹ, những họa tiết trên trang phục người Dao Đỏ rất gần gũi trong thiên
nhiên như cỏ, cây, hoa lá hay các loài động vật… Người Dao Đỏ quan niệm, hoa văn trên y
phục không chỉ biểu hiện cho tính cần cù và nhẫn nại, thể hiện sự khéo léo, trí tưởng tượng
phong phú cùng với con mắt thẩm mỹ mà về nghệ thuật còn rất tinh tế trong việc sử dụng màu
sắc, bố cục cân đối hài hòa, tươi sáng của người dân, tạo nên nét riêng đậm đà bản sắc dân tộc
1.2.2.Văn hóa tinh thần
*Lễ cấp sắc của người Dao Đỏ ở Lào Cai
Còn gọi là lễ lập tỉnh, lễ trưởng thành cho con trai, là một nghi lễ truyền thống không thể thiếu
trong chu kỳ đời người. Lễ cấp sắc được tổ chức rải rác vào các tháng trong năm, nhưng tập
trung chủ yếu vào những tháng nông nhàn, từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch.
Lễ trình diện của những học trị được thụ lễ và nhiều nghi lễ khác được tiến hành theo trình tự
thầy chính đã đặt ra. Đồng thời tn thủ theo quy luật mời nước, mời ăn sau đó mới nhờ các vị
thánh thần trợ giúp cơng việc.
Lễ trình diện tổ tiên: Thầy đọc sách cúng trình báo danh sách các học trò, báo cáo tổ tiên được
biết và phù hộ cho các trò để được làm lễ cấp sắc được tốt. Nghi thức và nội dung tổ chức lễ
cấp sắc của mỗi ngành Dao tuy có những đặc điểm khác nhau nhưng đều mang một ý nghĩa
chung là lễ trưởng thành cho những người đàn ông trong gia đình. Tùy theo dịng họ mà người
Dao có thể tổ chức lễ cấp sắc cho người con trai ở cấp độ 3 đèn, 7 đèn, hay 12 đèn. Số lượng
đèn được cấp tương đương với sự cao thấp của tay nghề người làm thầy sau này.
Ngày tổ chức lễ cấp sắc là ngày tập trung đông đủ thầy (sư phụ) nhất, có thể tùy theo cấp bậc
được cấp mà mời từ 6 đến 18 thầy hành lễ, chia làm hai phái: Đạo giáo (thầy truyền dậy văn,

đạo lý), Sư giáo (Thầy dậy về võ, sức mạnh). Ngoài ý nghĩa thiêng liêng của việc cấp sắc cho
người đàn ông, lễ này cũng trở thành một ngày hội của gia đình, họ hàng và cộng đồng người
18


Dao trong vùng, do vậy mỗi lễ cấp sắc thường có sự tham gia của đơng đảo họ hàng, bà con
dân làng.
Lễ cấp sắc mang ý nghĩa to lớn đối với người đàn ơng trong gia đình cũng như cộng đồng dân
tộc Dao Đỏ. Khi người đàn ông được cấp sắc đồng nghĩa với việc họ có thể làm thầy cúng, lo
toan những việc tâm linh cho bản thân, gia đình và cộng đồng… Người Dao đỏ, chỉ khi người
đàn ơng đã có vợ thì mới được cấp sắc và người vợ cũng được cấp sắc cùng với 60 quân âm
binh. Tuy nhiên âm binh đối với người phụ nữ Dao đỏ chỉ có ý nghĩa bảo vệ mình và con cái
chứ không thể làm thầy để cấp sắc cho người khác và những việc cúng cho cộng đồng.
*Lễ Nhảy lửa (tiếng Dao gọi là Pút tồng)
Thường được tổ chức từ đầu năm âm lịch đến ngày 15 tháng Giêng. Đây là nghi lễ truyền
thống của một số dân tộc miền núi phía Bắc, trong đó có người Dao đỏ ở xã Nậm Đét (Bắc
Hà). Lễ hội này được tổ chức theo quy mơ hộ gia đình khi có người con, cháu vừa làm xong lễ
Cấp sắc. Đây là lễ hội truyền thống lớn, quan trọng hàng đầu trong năm của người Dao đỏ,
mang nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, kỳ lạ.
Lễ nhảy lửa được tổ chức trên một khoảng sân rộng. Trong phần nghi lễ của người Dao đỏ thì
vật phẩm dâng cúng khơng thể thiếu các loại như: Cơm, gạo, rượu, gà luộc, nước suối, vải mộc
màu trắng, hương, tiền làm bằng giấy bản, đèn hoặc nến… Tất cả các sản phẩm được trưng
bày trên một bàn gỗ dài. Ngay giữa sân, một đống củi to đã được thanh niên mang đến, xếp
gọn gàng.
Khi đống củi đã trở thành một đống than hồng rừng rực cháy, thầy cúng bắt đầu làm nghi lễ.
Niên phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may cho một năm mới, một
cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong “mưa thuận, gió hịa”, mn nhà khỏe mạnh. Cầu
mong thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm dân làng, về vui cùng lễ hội.
Quanh đống lửa, hàng trăm đôi mắt các cô gái người Dao dõi theo những chàng trai chưa có
vợ, đang nhảy lửa, để rồi xong hội xuân, họ tìm đến nhau, nhen nhóm tình u, thương trộm,

nhớ thầm để rồi nếu hợp duyên sẽ nên vợ, nên chồng.
Kết thúc buổi lễ nhảy lửa Ông chủ lễ cầm con gà trống cùng rượu và giấy bạc đứng trước bàn
thờ cầu khấn phù hộ cho những người tham gia nhảy lửa được khỏe mạnh, thông minh, học
được nhiều phép, cúng giỏi, đủ đức, đủ tài để giúp đỡ mọi người, chữa bệnh, cưu mang dân
nghèo, làm phúc cho thiên hạ. Phù hộ cho gia đình, dịng họ, đồng bào dân tộc Dao đỏ làm ăn
phát đạt, phát tài, phát lộc, giàu sang, phú quý. Ông chủ lễ tạ ơn các thầy tiền bối (sư phụ)
bằng hương, giấy bạc, rượu, hóa vàng để đưa sư phụ về nơi thiên đường.
Lễ hội nhảy lửa là một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Dao Đỏ ở Nậm Đét và là
minh chứng cho sức mạnh, lòng dũng cảm của các chàng trai người Dao Đỏ mà cịn là hoạt
động văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc rất hoang sơ, huyền bí cần được nghiên cứu và bảo
tồn.
* Lễ cưới người Dao
19


Đám cưới là một trong những sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Dao trong đó chứa
đựng những giá trị về văn hoá, về lịch sử, giá trị về giáo dục...
Người Dao thường tổ chức cưới chủ yếu là bên nhà trai. Bên nhà gái báo cho bên nhà trai số
khách đến dự cưới là bao nhiêu (thường là 100 - 120 người) để nhà trai chuẩn bị cỗ và thịt
ruợu cho thông gia nhà gái. Số thịt rượu hồi cho khách sui gia mỗi người 1 kg thịt lợn, 1 chai
rượu. Ngày cưới, đoàn nhà gái đưa dâu sang nhà trai gọi chung là đoàn (săn cha), từ trẻ đến già
ăn mặc chỉnh tề theo trang phục truyền thống của dân tộc mình. Sau khi ăn uống, đồn đưa dâu
đứng trước bàn thờ tổ tiên, hai ông quan lang hai bên thưa với tổ tiên việc cưới xin của gia
đình và xin phép được đưa đón dâu sang nhà trai. Cô dâu mặc trang phục ngày cưới, cổ và tay
đeo vòng bạc... Trên đầu trùm chiếc khăn đỏ to che kín mặt. Trong khi làm lễ cơ dâu quay mặt
ra phía cửa. Cơ phù dâu bên cạnh có nhiệm vụ che ô cho cô dâu đi đường và phụ giúp cơ dâu
trong q trình hành lễ từ nhà gái sang nhà trai. Trong đồn săn cha có một người thổi Phằn tỵ
(kèn). Trên đường đi qua các bản, người thổi kèn thổi các bài ca chào bản chào mường, mừng
cưới theo điệu vui vẻ. Đến nhà trai, đoàn săn cha dừng chân cách nhà trai một quãng. Nhà trai
đưa bàn ghế ra, thuốc, trà, rượu ra mời đoàn săn cha đang dừng chân (đợi giờ vào nhà). Đội

nhạc lễ nhà trai gồm: trống, thanh la, kèn, hai chũm chọe gồm một to và một nhỏ. Trước khi ra
cửa đón dâu, đội nhạc lễ thổi những bài ca mừng cưới vịng ba lần trong nhà rồi ra ngồi đón
đồn săn cha nhà gái. Người thổi kèn đôi bên thổi bài chào đón khách và đưa cơ dâu cùng
đồn săn cha vào nhà.
*Thuốc tắm người Dao đỏ
Bí ẩn cây thuốc tắm thường ngày của người Dao để làm giảm bớt những cơn đau mỏi khi đi
lao động sản xuất về, đặc biệt là lá thuốc tắm cho sản phụ của người Dao khi mới sinh nở
không thể thiếu khi nhắc đến tri thức dân gian của người Dao.
Người Dao lên rừng tìm kiếm, thu hái những loại lá cây thuốc hỗn hợp mang về đun nước tắm
giúp phục hồi sức khỏe, lưu thơng khí huyết, dễ ăn, dễ ngủ, phịng và chống bệnh hậu sản,
đồng thời, làm sạch nhanh các sản dịch và giải độc cho sản phụ, một nồi thuốc tắm đẻ của
người Dao phải có đến hàng chục loại cây thảo dược. Đây là thuốc tắm gia truyền kì diệu từ
nhiều loại thảo mộc của người Dao từ xa xưa truyền lại, người Dao nào cũng biết lấy về sử
dụng...
Một nồi thuốc tắm cho sản phụ phải có đến hàng chục loại cây như: Quề đài mhjây, tằng hạp,
bùng mun mhjây, cù tạy mhjây, kièn muông lau, dào mía, puồng lầu, càm chậu, tồng lầu, nàng
chìa mhjây, sình pầu... "Đây là bài thuốc gia truyền lâu năm từ khi tơi cịn ở nhà, bố mẹ đẻ
truyền lại, rất hiệu quả cho phụ nữ sau sinh, mổ và nạo hút thai. Công dụng giúp phục hồi sức
khỏe, lưu thông khí huyết, dễ ăn, dễ ngủ, phịng và chống bệnh hậu sản, đồng thời, làm sạch
nhanh các sản dịch và giải độc cho sản phụ”.
*Lễ cúng rừng người Dao
Không chỉ có người Nùng, người Thái có lễ cúng rừng độc đáo, bà con người Pa Dí, người
Dao đỏ, người Hà Nhì… sống ở tỉnh Lào Cai hàng năm cũng đều tổ chức lễ cúng rừng. Với
20


người Dao rừng đã trở thành một phần máu thịt trên cơ thể. Rừng được người Dao ví như mái
tóc trên đầu để che chở, bảo vệ, giúp đỡ cuộc sống bình yên của cộng đồng. Theo tiếng Dao,
rừng là “kìm” (cây), nhiều vùng gọi là “kềm” hoặc là “san” theo tiếng Quan hỏa. Dựa trên
những đặc trưng, vai trò của rừng người Dao phân làm nhiều loại khác nhau như: “kìm cổ”

(kìm – rừng, cổ - già), “kìm lủn” (kìm – rừng, lủn – non) rừng non, “kìm guồn nhuần” rừng
đầu nguồn, “suồng khá kìm” rừng cuối nguồn, “kìm nhề” rừng cá nhân, “tùm choản kìm”
rừng cộng đồng. Rừng cấm, rừng thiêng theo quan niệm của người Dao là những khu rừng có
những kiêng kỵ, cấm kỵ nhất định như: không được chặt cây, khai thác lâm sản, trăn thả gia
súc, gia cầm; kiêng không đi vệ sinh bừa bãi trong rừng...
Trước hết, rừng cấm, rừng thiêng là những khu rừng chung của cộng đồng, do cộng đồng
quản lý. Rừng cấm đơi khi cịn được ngườ Dao sử dụng để chỉ những khu rừng thiêng, tuy
nhiều khu rừng cấm khơng phải là rừng thiêng. Cịn rừng thiêng là những khu rừng gắn liền
với yếu tố tâm linh, là nơi thờ tự và tổ chức các hoạt động thờ cúng của cộng đồng. Các khu
rừng thiêng có những đặc trưng riêng về vị trí địa lý, diện tích, các loại cây trong rừng và
những kiêng kỵ, qui định của cộng đồng đối với các khu rừng. Các khu rừng thiêng của người
Dao thường nằm ở những nơi có địa hình thoáng đãng, gần nguồn nước, con suối, các khu
trung tâm của làng với ý nghĩa để các vị thần linh, tổ tiên có thể bao quát, bảo vệ được tất cả
các hộ gia đình trong làng. Các khu rừng thiêng được các thầy cúng, chủ làng, chủ các dòng họ
lập lên từ khi lập làng làm nơi thờ cúng các vị thần linh, tổ tiên các dòng họ trong làng để cầu
mong các vị thần linh giúp đỡ phát triển kinh tế, cuộc sống của các thành viên trong cộng
đồng.
CÂU HỎI ƠN TẬP
Câu 1. Dân tộc nào có tục nhảy vào lửa đầu năm mới?
A. Dân tộc Cống
B. Dân tộc Giáy
C. Dân tộc Dao
D.Dân tộc H’Mơng

Câu 2. Người Dao có tục thờ cúng chó với ý nghĩa gì?
A. Là tổ tiên của người Dao
B. Là lồi vật gắn bó thân thiết với người Dao

Câu 3. Trang phục nào dưới đây là của người dân tộc Dao?


21


A

B

C

D

Câu 4. Đàn ông dân tộc Dao chỉ được công nhận sự trưởng thành khi nào?
A. Đã trải qua lễ cấp sắc
B. Đã trải qua lễ nhảy lửa
Câu 5. Trong đám cưới, cô dâu người Dao trước khi vào nhà chồng phải bước qua một sải
dây chăng ngoài cửa với ý nghĩa gì?
A. Đã bước sang ngưỡng mới của cuộc đời
B. Ngăn chặn điều xấu theo cô dâu vào nhà
…………………………………………………………………………………………………

22


3. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC TÀY
3.1.Khái quát chung về người Tày ở Lào Cai
Tên gọi khác: Thổ.
Dân số: 1.190.342 người.
Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.
Ngơn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).
Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất

trước Công nguyên.
3.2. Đặc trưng Văn hóa dân tộc Tày
3.2.1.Văn hóa vật chất
*Nhà sàn
Nhà sàn không chỉ thể hiện nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc, cịn là nơi diễn ra các sinh
hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Tày (Lào Cai).
Không giống với phương cách sống du canh du cư của nhiều dân tộc thiểu số khác, người Tày
sinh sống vùng đất Lào Cai ln có tư tưởng ổn định về nơi ở, từ quan niệm đó đã hình thành
nên nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc nhà sàn. Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi cư ngụ truyền
đời của gia đình, dịng họ người Tày mà cịn là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Nét độc đáo trong kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày trước hết thể hiện ở những kiểu nhà. Kiến
trúc nhà sàn dân tộc Tày nơi đây tồn tại bốn kiểu khác nhau gồm:
Nhà Lều: là loại nhà có kết cấu đơn giản và sơ khai nhất của người Tày; Nhà Quan ma: là
loại nhà sàn thường có 4 gian với đặc điểm cột được chôn sâu xuống đât, được biến thể từ kiểu
nhà lều nhằm bảo vệ con người và vật nuôi khỏi thú dữ; Nhà Cai tư: là kiểu nhà biến thể tiếp
của nhà Quan ma với đặc điểm thường có 5 gian (3 gian chính và 2 gian trái), cột nhà được kê
bằng đá tảng; Nhà Con thong là loại nhà phổ biến nhất hiện nay.
Việc dựng ngôi nhà sàn cần rất nhiều công phu. Để chuần bị đủ nguyên liệu: cột, ván, sàn,
cọ,… người ta phải vào tận rừng sâu, núi cao để kiếm tìm loại gỗ tốt lâu năm, thời gian lo
nguyên liệu có thể vài ba tháng nhưng cũng khi tới cả vài năm.
Nhà sàn có diện tích sử dụng rất lớn, chia thành các gian và mỗi gian đều có chức năng riêng:
gian giữa dùng làm bàn thờ, để cầu nguyện ông bà tổ tiên phù hộ cho gia đình an lành, ấm no
và hạnh phúc. Còn các gian phụ được dùng để sinh hoạt, để đồ đạc…
Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của
người phụ nữ Tày. Gầm sàn là nơi để dụng cụ sản xuất như cuốc xẻng, cày, bừa, nhốt gia súc,
gia cầm. Trong ngôi nhà sàn, từ cách bố trí khơng gian thờ cúng tổ tiên, nơi tiếp khách, bếp
núc cho tới buồng ngủ của mỗi thành viên trong gia đình đều thể hiện rõ phong tục, tập quán,
nền nếp của đồng bào Tày.
23



Trong ngôi nhà Sàn phải kể đến nghệ thuật bài trí. Người Tày thường đặt 3 bếp:
Bếp 1: đặt ở gian chính giữa ngơi nhà, đây là bếp chính dùng để tiếp khách và là nơi giữ lửa
cho tất cả các bếp khác cũng như sưởi ấm cho cả gia đình; Bếp 2: được đặt cạnh giường của
người già với mục đích giữ ấm trong mùa đơng; Bếp 3: cuối cùng dùng để chế biến thức ăn,
bếp này thường được dựng ở một gian riêng.
Một nét độc đáo nữa trong cấu trúc ngôi nhà sàn người Tày nơi đây là phong tục dựng nhà
theo thỏi (tức dòng dõi, nguồn gốc xuất xứ). Họ đặt ra một quy định là nhà ở chỉ có một cửa ra
vào ở đầu cầu thang lên xuống. Đi lên hết cầu thang bước vào cửa nhà, đi sâu vào trong nhà để
ở. Từ đấy tất cả vật liệu để làm nhà bằng tre, nứa, gỗ… đều lấy đầu ngọn quay về cửa ra vào
(vào ngọn, ở gốc). Đặc điểm này làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hóa dựng nhà
của người Tày nơi đây với các dân tộc khác. Từ thế hệ này truyền sang thế hệ khác, những
ngôi nhà sàn giản dị, mộc mạc đã trở thành nét đặc trưng cho đời sống vật chất và tinh thần
của cộng đồng dân tộc Tày (Lào Cai).
*Trang phục
Trang phục dân tộc Tày có thể được coi là một trong những bộ trang phục đơn giản nhất của
54 dân tộc anh em. Bộ trang phục tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa với họ. Người Tày thường
mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang phục của họ màu chủ đạo là màu chàm, phụ nữ
thường chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vịng cổ, tay, chân bằng
bạc.Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng
nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như khơng có hoa văn trang trí. Không ai rõ nghề dệt thổ
cẩm của người dân tộc Tày có từ bao giờ, mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm do chính họ dệt
ra từ lâu đã nổi tiếng với những hoa văn đẹp mắt, sặc sỡ, mang đậm sắc thái dân tộc.
Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. Tuy nhiên,
do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm dùng len có chi phí thấp hơn để thay thế.
Quy trình dệt thổ cẩm hồn tồn thủ cơng và chính đơi tay khéo léo và sự nhẫn nại của người
phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình nên dạng vơ cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm
tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những
bộ trang phục đặc sắc của dân tộc. Trang phục nam giới người Tày có quần chân què, đũng
rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn

kéo dài vạt xuống quá đầu gối. Ngoài ra, họ cịn có thêm áo 4 thân, đây là loại áo xẻ ngực, cổ
trịn cao, khơng cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía trước.
Vào những ngày hội hè người ta mặc áo cánh trắng ở trong có lẽ vì vậy mà người Tày còn
được gọi là người áo trắng (cần slửa khao) để phân biệt với người Nùng thường chỉ mặc áo
chàm. Ngoài ra, đàn ơng Tày cịn mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay
cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bơng nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần
đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng khơng luồn rút, khi mặc
có dây buộc ngồi. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
Về trang phục nữ giới, đó là mặc áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu,
hài vải. Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng những tấm vải chàm hay đũi dài khoảng hai sải tay làm
24


tăng thêm vẻ duyên dáng nhất là với thanh nữ. Trong những ngày lễ tết, họ mặc thêm chiếc áo
trắng ở bên trong. Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; đó là loại
quần về ngun tắc cắt may giống nam giới kích thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày
cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ của người Kinh.
Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bàng và rộng. Trang
sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ bản như vịng cổ, vịng tay, vịng chân,

tích...

nơi
cịn
đeo
túi
vải.
Nói tới trang phục của người Tày, ta khơng thể khơng nói tới hoa văn trên trang phục của họ.
Cái độc đáo nhất là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng
như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngồi màu chàm. Cái lưu ý khơng phải là lối tạo dáng mà

là phong cách mỹ thuật như đã nói trên. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia
cơng trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng
trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm. Riêng nhóm Pa dí (Lào Cai) có phong cách tạo
dáng và trang
trí khá độc đáo
ở lối
đội
khăn và
y phục.
Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo
phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác.
Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có
liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nơng nghiệp ở phía Bắc
nước ta, trong đó có người Tày. Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền
trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng
đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt
thủ cơng, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.
* Ẩm thực
Món ăn của người dân nơi đây chủ yếu là những sản vật thiên nhiên do núi rừng ban tặng: rau
rừng, măng rừng, hoa chuối, cá suối, lá chua… kết hợp với bàn tay khéo léo của người dân nơi
đây đã chế biến ra những món ăn độc đáo như cơm lam, xôi bảy màu, bánh trưng, măng chua
nấu vịt, thịt gà, cá suối nướng...
Bánh trưng đen người Tày Bắc Hà
Nếu như bánh chưng vuông xanh là nét đẹp ẩm thực ngày Tết của người Kinh với nhiều ý
nghĩa tầng lớp thể hiện triết lý âm dương, sinh sôi nảy nở của vũ trụ thì bánh chưng đen của
đồng bào Tày ở Lào Cai lại độc đáo về nguyên liệu chế biến, giá trị về y học và hình thức gói
bánh. hương vị bánh chưng đen của đồng bào Tày nơi đây.
Nhìn bề ngồi, bánh chưng đen cũng gói bằng lá dong xanh nhưng khơng có hình vng như
bánh chưng xanh mà có hình dạng trịn, dài, gần giống với bánh gù của dân tộc Giáy. Nguyên
liệu làm bánh cũng có nhiều thứ khá đặc biệt mang hương vị vùng cao: Lúa nếp nương, thảo

quả, thịt lợn đen, đỗ xanh và đặc biệt là màu đen của bánh được tạo ra từ than gỗ của cây núc
nác trên rừng.

25


×