Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong người đẹp ngủ say (y kawabata) và hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (g marquez)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.21 KB, 82 trang )

Trờng Đại học Vinh
Khoa ngữ văn
====*****====

Hồ thị bình

NGHệ THUậT TRầN THUậT
TRONG NGƯời đẹp say ngủ (y. Kawabata) và
hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (g. marquez)

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học nớc ngoài

Vinh 2010


Lời cảm ơn

Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực, phấn đấu học hỏi của bản
thân, tôi còn nhận đợc sự ủng hộ, giúp đỡ từ phía các thầy cô giáo, gia đình, bạn
bè mà đặc biệt là thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Văn Hạnh - ngời trực tiếp hớng
dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành,
sâu sắc tới thầy giáo Nguyễn Văn Hạnh và cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý
thầy cô giáo, gia đình, bạn bè đà quan tâm, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận
lợi nhất để tôi hoàn thành khóa luận.
Trong khả năng còn hạn chế, bản thân còn chập chững trên con đờng
nghiên cứu khoa học nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Kính mong những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2010
Sinh viên



Hồ Thị Bình


Mục lục
Trang
Mở đầu ...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................3
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................8
3.1. Đối tợng ......................................................................................................8
3.2. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................9
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................9
5. Phơng pháp nghiên cứu ..................................................................................9
6. Cấu trúc khóa luận..........................................................................................9
Chng 1. Nhân vật trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ
và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi .................................10
1.1. Nhân vật trần thuật ......................................................................................10
1.1.1. Nhân vật trần thuật và vai trò của nhân vật trần thuậ trong tác phẩm tự sự ......10
1.1.2. Nhân vật trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ (Y.Kawabata) ...........14
1.1.3. Nhân vật trần thuật trong
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (G. Marquez) ..............22
1.2. Điểm nhìn trần thuật ..................................................................................27
1.2.1. Điểm nhìn và vai trò của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự ..........27
1.2.2. Điểm nhìn bên trong ..........................................................................30
1.2.3. Sự vận động điểm nhìn .................................................................. 38
Chơng 2. Giọng điệu trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ
và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi ...............................44
2.1. Giọng điệu trần thuật và vai trò của giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự . .44
2.1.1. Khái niệm giọng điệu trần thuật ........................................................44

2.1.2. Vai trò của giọng điệu trần thuật .......................................................47

3


2.2 Giäng ®iƯu trong Ngêi ®Đp say ngđ (Y.Kawabata) .....................................48
2.2.1 Giäng tiÕc mi hoµi niƯm .................................................................49
2.2.2. Giäng hoµi nghi do dự ......................................................................52
2.2.3 Giọng trầm t triết lý ............................................................................54
2.3 Giọng điệu trong Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (G. Marquez) ........56
2.3.1. Giọng hoài niệm tiếc nuối .................................................................57
2.3.2. Giọng điệu trầm t triết lý ..................................................................60
2.3.3. Giọng điệu hồn nhiên sôi nổi ............................................................63
Chơng 3. Một số thủ pháp nghệ thuật cơ bản trong Ngời đẹp say ngủ
và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi..............................................68
3.1 Một số thủ pháp nghệ thuật cơ bản trong Ngời đẹp say ngủ ......................68
3.1.1 Thủ pháp dòng ý thức ........................................................................68
3.1.2 Thủ pháp phân mảnh ..........................................................................72
3.1.3 Thủ pháp đồng hiện ............................................................................76
3.2. Một số thủ pháp ngh thut cơ bản trong
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi. (Marquez) ...................................80
3.2.1 Thủ pháp Dòng ý thức.....................................................................80
3.2.2. Thủ pháp đồng hiện ...........................................................................85
3.2.3 Thủ pháp nhân quả .............................................................................87
Kết luận ......................................................................................................89
Tài liệu tham khảo ..............................................................................92

4



Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giao lu là xu thế của thời đại là động lực cho sự ph¸t triĨn. R.Tagore
từng cho rằng: “søc sèng cđa mét nỊn văn hoá là biết thừa kế tinh hoa từ hai
nguồn truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, dung hợp cái muôn đời
vào cái khoảnh khắc. Nghĩa là giữ lại cái tinh tuý nguồn cội, bản sắc, đồng
thời giao lu tiếp thu tinh hoa nhân loại. T tởng này của Tagore không chỉ đúng
với văn hoá ấn Độ thời kỳ Phục hng mà còn đúng với xu thế hội nhập, giao lu
quốc tế hoá của thế giới ngày này. Và tất nhiên văn học cùng nằm trong xu thế
đó bởi không có nền văn học nào không nảy sinh từ một nền văn hoá nhất
định. Khi văn học nằm trong xu thế này thì sẽ có các mối quan hệ ảnh hởng và
tiếp nhận văn học trên bình diƯn qc tÕ. Cã con m¾t qc tÕ mét hiƯn tợng văn
học của một nền văn học sẽ đợc định vị, đánh giá một cách có căn cứ và tăng độ
nhạy cảm của việc phát hiện ra những cái riêng. Từ đó khẳng định đợc cái độc
đáo có ý nghĩa đặc trng của hiện tợng văn học. Vì vậy, nhìn nhận nghệ thuật
trần thuật của hai tác phẩm văn học Ngời đẹp say ngủ (Yasunari Kawabata) và
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (G. Marquez) trong mối quan hệ
giao lu quốc tế dới cái nhìn đối sánh là con đờng mà chúng tôi lạ chọn ở đây.
1.2. Nghệ thuật trần thuật là một vấn đề cốt yếu trong xây dựng tác phẩm
văn xuôi tự sự
Mỗi loại hình văn học đều có một phơng thức biểu hiện đặc trng riêng.
Nếu kịch phn ánh đời sống thông qua hệ thống những mâu thuẩn, xung đột đợc diễn đạt chủ yếu bằng ngôn ngữ thì thơ lại nói bằng thứ ngôn ngữ biểu cảm
và nghệ thuật trùng điệp. Trong văn xuôi tự sự cách thức tổ chức, phn ỏnh đợc
thể hiện thông qua nghệ thuật trần thuật. Nghệ thuật trần thuật hay cách kể
chuyện chính là đặc trng của văn xuôi nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà

1


Lai Nguyên Ân từng chỉ ra: Trần thuật (Narition) phơng thức nghệ thuật đặc

trng trong các tác phẩm thuộc loại hình văn học tự sự [1; 146].
Với loại hình văn xuôi tự sự, nghệ thuật trần thuật là một trong những yếu
tố quan trng trong phơng thức biểu hiện, nó còn là yếu tố cơ bản thể hiện cá
tính sáng tạo của nhà văn. Chính vì thế tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật là viềc
làm cần thiết trong cái

nhìn ®èi s¸nh hai t¸c phÈm Ngêi ®Đp say ngđ,

(Yasunari Kawabata) và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi
(G.Marquez) nhận ra phong cách, ti nng, cỏ tớnh sáng tạo của nhà văn.
1.3. Yasunari Kawabata lµ mét bËc thầy, một trong những nh tiu thuyt
xuất sắc nhất thế giới với bộ ba tác phẩm đoạt giải Nôbel văn học: Xứ tuyết, Cố
đô, Ngàn cánh hạc. Đồng thời, ông cũng là một trong những phong cách đại
diện cho nên văn hoá phơng Đông, duy mỹ, duy cảm, duy tình. Ngời đẹp say
ngủ là tiểu thuyết cuối đời của ông khi bút lực và phong cách đạt đến điểm chín
của nó. Đó là cuốn tiểu thuuyết dòng ý thức đỉnh cao của ông, nó không chỉ
mang tính hoài cổ mà còn khá hiện đại, phảng phất màu sắc huyền ảo. Marquez
là nhà văn Côlômbia, đại diện cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, đạt giải Noben
văn học năm 1982. Trong tác phẩm của ông, ta bắt gặp ảo mộng ngập tràn. Thế
nhng Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi ra đời sau khi Marquez đọc
Ngời đẹp say ngủ làm ông chú ý đến văn học Nhật bản lại giàu hiện thực, ít
mộng ảo hơn. Cùng một đề tài nhng s cách chiếm lĩnh và thể hiện khác nhau.
Qua cái nhìn đối sánh, nó góp phần cho ta hiểu c những đóng góp của
những nhà văn lớn cho nền văn học thế giới, thấy đợc sự giao thoa của các nền
văn hoá, văn học dù khác xa nhau.

2. Lịch sử vấn đề

2



2.1. Kawabata là một hiện tợng văn học đặc biệt ở thế kỷ XX. ông đợc
xếp vào vị trí quan trọng trong văn học thế giới và đợc bạn đọc khắp thế giới
đón đọc, nghiên cứu về ông.
Năm 1971, Nxb Mátxcơva đà cho xuất bản tuyển tập tác phẩm của
Kawabata với nhan đề Kawabata sinh ra bởi vẻ đẹp nớc Nhật. Đến năm 1975,
Nxb này lại một lần nữa cho in cuốn Y. Kawabata sự tồn tại và khám phá cái
đẹp, từng có cả tình yêu và lòng căm thù. Việc dịch tác phẩm của Y. Kawabata
ra tiếng Nga sớm tạo điều kiện cho bạn đọc ở Nga và cho cả bạn đọc trên toàn
thế giới trong đó có Việt Nam đợc tiếp xúc với hiện tợng văn học độc đáo này.
ở Việt Nam, tác phẩm của Y. Kawabata đợc biết đến lần đầu tiên vào
năm 1969 với bản dịch tiểu tuyết, Xứ tuyết của Chu Việt. Cùng năm này, Tạp
chí văn (Sài Gòn) đà cho ra số đặc biệt về Y. Kawabata. Trong đó có hàng loạt
truyện ngắn cùng các bài nghiên cứu về cuộc đời cũng nh sự nghiệp của ông.
Tuy nhiên từ sự nhạy cảm đầu tiên này đối với hiện tợng văn học, Y.
Kawabata, chúng ta mới có đợc biết tác phẩm thứ hai của ông thông qua bản
dịch, Tiếng rền của núi của Ngô Quý Giang. Kể từ đó, tác phẩm của Y.
Kawabata liên tục đợc giới thiệu rộng rÃi vào Việt Nam. Năm 1990, Giang Hà
Vị dịch Ngàn cánh hạc, Vũ Đình Phòng dịch Ngời đẹp say ngủ. Đến 2001 Nxb
Hội nhà văn cho xt b¶n Tun tËp Y. Kawabata gåm 4 tiĨu thut: Xứ Tuyết,
Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, Ngời đẹp say ngủ. Gần đây nhất, trung tâm
văn hoá ngôn ngữ Đông Tây đà cho ra đời tuyển tập Y. Kawabata gồm khá đầy
đủ các tác phẩm của ông trên tất cả các thể loại: 6 truyện ngắn, 46 Tuyện trong
lòng bàn tay, 6 tiểu thuyết cùng một số bài nghiên cứu về Y. Kawabata trong và
ngoài nớc. Đây là cuốn sách tổng hợp, tạo điều kiện tiếp xúc một cách khá đầy
đủ và có hệ thống về các sáng tác cđa Y. Kawabata.
Trong hƯ thèng c¸c s¸ng t¸c cđa Y. Kawabata đợc dịch vào Việt Nam,
Ngời đẹp say ngủ đợc dịch và giới thiệu muộn hơn (1990). Ngời đọc chủ yếu
biết đến bộ ba tác phẩm nổi tiếng của ông là: Xứ Tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô.


3


Khi t duy văn chơng đợc cởi mở hơn, Ngời đẹp say ngủ, cũng đợc nhỡn nhận và
thu hút bạn đọc Việt Nam khám phá. Đặc biệt khi cuốn hồi ức đợc thể hiện dới
dạng truyện ngắn là Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi đợc dịch vào
Việt Nam thì Ngời đẹp say ngủ càng trở nên hấp dẫn, cuốn hút bạn đọc bởi sự
tơng đồng nhất định ở hai tác phẩm. Cho đến nay, bạn đọc Việt Nam đà quen và
yêu thích Ngời đẹp say ngủ, đặc biệt là những ngời hâm mộ Kawabata.
Năm 1968, Kawabata nhận đợc giải thởng Nobel văn học, Viện Hàn lâm
Thuỵ Điển đà có bài giới thiệu giải Nobel văn chơng đà bao hàm sự nghiên cứu
sơ giản về Kawabata. Đồng thời đây cũng chính là công trình đầu tiên trực tiếp
bàn đến nghệ thuật kể chuyện của Kawabata. Bài giới thiệu đà ngợi ca nghệ
thuật bậc thầy của Kawabata qua hai tác phẩm Xứ tuyết và Ngàn Cánh hạc. Từ
đó đi đến khẳng định mang tính bao quát về nghệ tht kĨ chun cđa
Kawabata “lµm lu mê kü tht kĨ chuyện của châu Âu. Đây là cơ sở gợi ý để
chúng tôi tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật tài tình của Kawabata ở tác phẩm
Ngời đẹp say ngủ trờn c s đối sánh với nghệ thuật trần thuật của G. Marquer
trong tác phẩm Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi.
Cùng nhận định về nghệ thuật trong tác phẩm của Kawabata, Donald kene
đà chỉ ra rằng, ngời ta cần đọc Kawabata một cách cẩn thận [.] văn phong
ông có thể khó nắm bắt lại dựa vào khả năng độc đáo để tạo sự mơ hồ, dù cho
lối truyền đạt biểu cảm đợc cung cấp đầy đủ bởi chính ngôn nữ Nhật Bản
[15;1058] . Sự khó nắm bắt, mơ hồ trong tác phẩm của ông một phần là do sự
đảo lộn thời gian, cốt truyện dòng ý thức của ông.
ở Việt Nam những công trình nghiên cứu khái quát về cuộc đời và sự
nghiệp của Kawabata cũng đà có những nhận định khái quát chung về phong
cách nổi bật của Kawabata. Tiêu biểu là chuyên luận Kawabata, cuộc đời và
tác phẩm (1997) của Lu Đức Trung. Trong chuyên luận của mình Lu Đức
Trung đà kết luận, Phong cách nổi bật của Kawabata mà ngời đọc dễ dàng cảm


4


nhận đợc là chất trữ tính sâu lắng, nổi buồn êm dịu. Đây là một sự khái quát
phong cách đồng thời có thể phân biệt đợc với phong cách Marquez.
Bàn về những vấn đề liên quan đến phong cách của Kawabata trong 100
nhà lý luận phê bình văn học thế kỷ XX, mục từ Yasunari Kawabata của Đỗ
Thu Hà có nhắc đến nghệ thuật viết văn của Kawabata: Cấu trúc tác phẩm là
dòng ý thức đợc kỹ thuật chắp cánh. Đây là điểm tựa cho chúng tôi nghiên cứu
về thủ pháp dòng ý thức trong Ngời đẹp say ngủ
Còn Chu Sỹ Hạnh trong Yasunarri Kawabata dới nhÃn quan phơng
Đông (1969) đà có những cảm nhận sắc sảo về bút pháp của nhà văn này nh âm
hởng chung về cái cô đơn, những suy ngẫm nội tâm trong tác phẩm của
Kawabata.
Công trình bàn về nghệ thuật kể chuyện của Kawabata mang tính công
phu nhất đó là Văn hoá Nhật Bản và Yasunari Kawabata của Đào Thị Thu
Hằng xuất bản năm 2007. Trong công trình này tác giả đà đi sâu vào nghƯ tht
kĨ chun, mét híng tiÕp cËn tõ gãc ®é tự sự học. Từ đó đà có nhiều lý giải sau
sắc về sáng tạo nghệ thuật cũng nh khái quát phong cách Kawabata thông qua
nghệ thuật trần thuật. Những khái quát v ngời kể chuyện, điểm nhìn trần thuật,
giọng điệu trần thuật là những cơ sở vô cùng quan trọng để chúng tôi tiến hành
tìm hiểu về những vấn đề ®ã trong nghƯ tht trÇn tht cđa Ngêi ®Đp say ngủ.
Điều đặc biệt là chúng tôi tìm thấy ở công trình này bài nghiên cứu so sánh Yếu
tố huyền ảo trong tác phẩm của Yasunari Kawabata và Garcia Marauez. Đây
là bài nghiên cứu đầu tiên về hai tác giải Marquer và Yasunari Kawabata trong
cái nhìn đối sánh. Nó gợi ý cho chúng tôi trong thực hiện đề tài đối sánh nghệ
thuật trần thuật trong hai tác phẩm cụ thể của hai nhà văn này. Nhất là khi trong
bài viết đó có sự đối sánh về giọng điệu hai tác giả tuy đang ở mức sơ lợc khái
quát.

Ngoài ra còn có một số luận văn, luận án tuy không đi sâu vào nghệ thuật
trần thuật nhng ở đó cũng có một số ý kiến nghiên cứu về vấn đề này. Chẳng

5


hạn trong Tiểu thuyết Ngời đẹp say ngủ của Yasunari Kawabata (tõ gãc nh×n
lý thut hiƯn sinh), của Nuyễn Khánh Ly ó cp đến kết cấu và điểm nhìn
trần thuật, thủ pháp phân mảnh, thủ pháp dòng ý thức. Hay trong ThÕ giíi biĨu
tỵng trong tiĨu thut cđa Y. Kawabata (qua khảo sát bộ ba tác phẩm: Xứ
tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô), Lê Thanh Huyền cũng đà đề cập đến sự lựa chọn
ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Yasunari Kawabata Còn
trong luận văn thạc sỹ Nghệ thuật trữ tình trong tiểu thuyết Yasunari
Kawabata (qua khảo sát tuyển tập Yasunari Kawabata) có đề cập đến giọng
điệu cùng sự linh hoạt điểm nhìn và thủ pháp trong tiểu thuyết Y. Kawabata.
2.2. Là một nhà văn đại diện cho một khuynh hớng văn học chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo, Marquez từ lâu đà đợc bạn đọc trên thế giới biết đến. Tuy
nhiên đến giải Nobel văn chơng (1982) mới là sự tôn vinh của cả thế giới giành
cho Marquez ở tầm cao tài năng nhân loại. Vị trí của Marquez trên bầu trời văn
học MỹLatinh và văn học thế kỷ XX đợc xác lập rõ ràng hơn, và cũng từ đây
tên tuổi của ông đợc đọc và nghiên cứu trên khp thế giới, đặc biệt là ở phơng
Tây.
Tại Việt Nam, những tác phẩm của Marquez ngày càng đợc độc giả biết
đến nhiều hơn qua các bản dịch của các dịch giả: Nguyễn Trung Đức, Phạm
Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng, Phan Quang Minh, Lê Xuân Quỳnh, Nguyễn
Mạnh Tứ, Đoàn Định Ca mà công đầu tiên thuộc về cố dịch giả Nguyễn
Trung Đức. Những tác phẩm của ông đựơc dịch và giới thiệu vào Việt Nam từ
cuối thập niên 60 thế kỷ XX. ến nay số lợng tác phẩm của ông đợc giới thiệu
vào Việt Nam khá nhiều. Về tiểu thuyết có: Giờ xấu (1963), Trăm năm cô đơn
(1967), Tình yêu thời thổ tả (1985), Tớng quân giữa mê hồn trận (1989), Tình

yêu và những con quỷ khác (1994). Về truyện ngắn: BÃo lá (1955), Ngài đại tá
chờ th (1961), Đám tang của mẹ vĩ đại (1962), Chuyện buồn không thể tin đợc
của Erendiran ngây thơ và ngời bà bất lơng (1972), Mời hai truyện phiêu dạt
(1992), Hồi ức về những cô gái điém buồn của tôi (2004) Về ký sù, phãng

6


sự: Chuyện kể của ngời bị chìm tàu (1970), Chi lê đảo chính và bọn Mỹ
(1974), Tin tức về một cuộc bắt cóc (1997), Sống để kể lại (2002). Tuy nhiên,
trên thực tế mọi sự chú ý của các dịch giả và các nhà nghiên cứu về Marquez
cha toàn diện, hầu nh chỉ tập trung ở một số tác phẩm, nhiều tác phẩm cha đợc
chú ý đến, đặc biệt là kịch và kịch bản phim cha đợc giới dịch thuật quan tâm.
Do đó, Marquez vẫn là một hiện tợng, môt ẩn số cha đợc giải đáp đối với độc
giả Việt Nam.
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi đợc xuất bản năm 2004. Tin
cuốn sách sắp xuất bản lập tức thu hút hàng triệu ngời hâm mộ Marquez trên
thế giới, mọi ngời đà mong chờ sự kiện này rất lâu. Chỉ sau tuần lễ phát hành,
cuốn sách đà đợc bán với số lợng lớn và hiện đà đợc dịch ra nhiều nớc trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay dù tác phẩm đà đợc nhiều
bạn đọc Việt Nam biết đến nhng độc giả vẫn cha có sự định hớng khi tiếp cận
tác phẩm.
Marquez đà đợc bạn đọc Việt nam biết đến từ cuối những năm 60 của thế
kỷ XX. Vậy nhng, cho đến nay vẫn cha có một công trình nghiên cứu nào về
những tác phẩm của ông một các quy mô, công phu. Trong số tác phẩm của ông
dờng nh chỉ có Trăm năm cô đơn là đợc chú ý nhiều. Bạn ®äc ViƯt Nam míi
biÕt vỊ Marquez qua cc ®êi, sù nghiệp và những tác phẩm của ông dới dạng
đơn thuần văn bản. Trong Cái kỳ ảo trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.
Marquez, khoá luận tốt nghiệp 2008, Trần Thị Thanh Tâm đà giới thiệu về tiểu
sử, sự nghiệp, về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Trong đó, Trần Thị Thanh Tâm

có đề cập đến những đột phá trong nghệ thuật biểu hiện của Marquez,nh:
phản ánh nghệ thuật truyền thống, tiêu biểu là chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX
nh: Sự miêu tả cuộc sống y nh thật bằng hình thức tơng ứng với bản thân cuôc
sống [] đồng thời ông cũng đà sáng tạo ra những phản ánh mới phù hợp với
việc biểu hiện tâm trạng bất an, lạc loài nổi lo âu và tình trạng lu đày của con
ngời trớc hiện tại.

7


2.3. Điểm lại quá trình dịch, giới thiệu, nghiên cứu về hai tác giả và hai
tác phẩm trong phạm vi tài liệu bao quát đợc chúng tôi nhận thấy:
- Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về Kawabata nhìn chung đà đạt
đợc những thành tu nhất định, tuy nhiên còn khiêm tốn. Các công trình đÃ
bc u đề cập ®Õn một số ph¬ng diƯn nghƯ tht cđa Kawabata nhng cha có
tính hệ thống. Cho đến nay cha có công trình nào bn v ngh thut trn thut
trong Ngời đẹp say ngủ.
- Từ cuối những năm 60 độc giả Việt Nam biết đến Marquez qua các tác
phẩm dịch nhng đến nay những tác phẩm dịch cha bao quát đợc hết các mảng
tác phẩm của ông. Đặc biệt cha có đợc những công trình chuyên sâu nghiên cứu
về tác phẩm của «ng b»ng tiÕng ViƯt. Bëi vËy, cho ®Õn nay Marquez vẫn là hiện
tợng văn học lạ đối với bạn đọc Việt Nam. Công trình nghiên cứu về tác phẩm
Marquez còn khiêm tốn, chỉ tập trung vào Trăm năm cô đơn. Còn lại các tác
phẩm của ông hầu nh chỉ dừng lại ở dạng giới thiệu. Hồi ức về những cô gái
điếm buồn của tôi cũng nằm trong số đó.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng
Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết Ngời đẹp say ngủ
(Kawabata) và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (Marquez) trong cái
nhìn so sánh.


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phm vi khảo sát của khóa luận là tiĨu thut Ngêi đẹp say ngủ (1991),
NXb văn học và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (2007), Nxb tổng
hợp TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, chúng tôi còn liên hệ những tác phẩm có liên
quan.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiªn cøu

8


4.1. Mục đích của đề tài đợc thể hiện ngay ở tên đề tài đó là nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ (Kawabata) và Hồi ức về những
cô gái điếm buồn của tôi (Marquez) trong cái nhìn đối sánh.
4.2. Vi mc ớch ú, ti t ra nhim v:
Thứ nhất: Chỉ ra đợc nhân vật trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong cái
nhìn so sánh hai tác phẩm.
Thứ hai: Chỉ ra đợc giọng điệu trần thuật trong cái nhìn so sánh hai tác
phẩm.
Thứ ba: Chỉ ra đợc một số thủ pháp cơ bản trong cái nhìn so sách hai tác
phẩm.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Khoá luận vận dụng lý luận văn học so sánh trên cơ sở sử dụng các phơng
pháp, nh:
- Phơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại.
- Phơng pháp phân tích, so sánh.
- Phơng pháp tổng hợp.
6. Cu trỳc ca khúa lun
Ngoi phn Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khóa luận gồm ba chương.

Chương 1 : Nhân vật trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong Ngêi
®Đp say ngủ và Hồi ức về những cô gái điếm buồn cđa t«i
Chương 2 : Giọng điệu trần thuật trong Ngêi đẹp say ngủ và Hồi ức
về những cô gái điếm bn cđa t«i
Chương 3 : Một số thủ pháp nghệ thut c bn trong Ngời đẹp say
ngủ và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi
Chng 1
Nhân vật trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong
Ngời đẹp say ngủ và Hồi ức về những cô gái điếm buồn
của t«i

9


1.1. Nhân vật trần thuật
1.1.1. Nhân vật trần thuật và vai trò của nhân vật trần thuật trong tác
phẩm tự sự
1.1.1.1. Khái niệm nhân vật trần thuật.
Ngời trần thuật là một khái niệm tơng đối phức tạp, có sự không thống
nhất giữa các ý kiến của các nhà nghiên cứu. Theo Andrew Hplaks, Vấn đề
ngời trần thuật là vấn đề trung tâm, còn giọng điệu trận thuật là vấn đề trung
tâm của trung tâm. Các nhà nghiên cứu Pháp mà đại diện l G. Gennette thì
hiểu ngời trần thuật có chức năng tác giả vừa kể chuyện vừa chỉ huy cách kể,
vừa truyền đạt thông tin, vừa thuyết phục ngời đọc Các nhà nghiên cứu Anh,
Mỹ, thì lại thiên về hiểu ngời trần thuật là một vai trò thụ động do tác giả điều
khiển, tác giả cần nó vì cần giọng điệu, cần một điểm nhìn, cách nhìn. Nhà lý
luận Mỹ Johnathan Culler cho rằng, Bất cứ trần thuật nào đều phải có ngời trần
thuật, bất kể ngời trần thuật ấy có đợc xác định rõ ràng hay không. Bởi vì vấn
đề trung tâm của chủ đề mỗi câu chuyện đều là vấn đề mối quan hệ giữa ngời
trần thuật hàm ẩn (phạm vi tri thức, quan niệm giá trị) với câu chuyện mà nó kể

ra, Do đó muốn giải thích một đoạn tự sự bắt buộc phải xác nhận ngời kể
chuyện hàm ẩn trong đó, xác nhận các bộ phận thuộc về cái nhìn của nó, phân
biệt bản thân hành động và sự quan sát của ngời trần thuật với hành động đó.
Vì sự không thống nhất trên của các ý kiến nên chúng tôi giới thuyết khái
niệm ngời trần thuật để làm điểm tựa cho sự nghiên cứu, phân tích, khảo sát
về ngời trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ (Ykawabata) và Hồi ức về những cô
gái điếm buồn của tôi (G. Marquer). Theo Lê Bá hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học: Ngời trần thuật là một nhân vật h
cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành
[8;221]. Trong trần thuật viết có tính chất văn học thì ngời trần thuật trở thành
một nhân vật trong tác phẩm, tuy là nhân vật đặc thù nhng cũng là nhân vật trên
giấy do nhà văn tạo ra thực hiện chức năng tự sự. Ngời trần thuật trong tác

10


phẩm là một ngời trần thuật đợc trần thuật ra. Nh vậy, ngời trần thuật là kết quả
sáng tạo của nhà văn, từ nhà văn mà ra thay mặt tác giả đứng ra kể chuyện,
quan sát, miêu tả.
Tác giả không bao giờ trực tiếp đứng ra kể lại câu chuyện, mà thờng sáng
tạo ra nhân vật khác (nhân vật trần thuật) thay mình đứng ra tự sự với ngời đời.
Chính vì thế nhân vật trần thuật vừa là ngời thay mặt tác giả kể chuyện vừa là
nhân vật trong tác phẩm.
Tuy nhiên mức độ hoá thân thành vai trò ngời trần thuật khác nhau và tạo
ra những hình thức biểu hiện khác nhau. Có thể chia ra ngời trần thuật lộ diện
và ngời trần thuật ẩn tàng. Ngời trần thuật lộ diện là ngời trần thuật theo ngôi
thứ nhất, còn ngời trần thuật ẩn tàng là ngời trần thuật theo ngôi thứ ba
[8;222]. Ngời trần Thuật theo ngôi thứ nhất là ngời trần thuật xuất hiện trực
tiếp, thờng xng tôi hoặc chúng tôitrong tác phẩm, trần thuật lại câu chuyên.
Về ngời trần thuật theo ngôi thứ ba trong Về khái niệm truyện kể ở ngôi thứ

ba và ngời kể chuyện ở ngôi thứ ba, Nguyễn Thị Thuy thuỷ đà phân biệt
truyện kể ở ngôi thứ ba (hàm ẩn) kể theo điểm nhìn của mình. Truyện kể ở
ngôi thứ ba kể theo điểm nhìn của nhân vật là trờng hợp nhân vật và truyện kể
có ngời kể chuyện ngôi thứ ba kể theo điểm nhìn hợp truyện kể có ngời kể
chuyện khác ngời tiêu điểm hoá (ngời thể hiện quan điểm đánh giá về thế giới
nhân vật sự kiên trong tác phẩm, ngời mà thông qua những hành động, cảm
nhận suy nghĩ làm điểm tựa cho ngời kể chuyện thực hiện hành vi kể hay còn
gọi là ngời phản ánh), tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể chuyện và anh ta đÃ
hoà vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt đợc giọng kể của anh ta với giọng
kể của nhân vật. Và thờng chỉ thấy giọng nhân vật, giọng nhânvật nổi trội hơn
[24;140]. Nhờ nấp sau cái giọng nhân vật mà ngời trần thuật dễ dàng thâm nhập
vào nội tâm của nhân vật, dễ dàng hoà quyện vào câu chuyện, đặt các sự kiện
nhân vật trớc độc giả mà không cần một lời giới thiệu nào cả. Nhng có lúc ngời
kể chuyện không nấp đợc sau cái giọng của nhân vật, ấy là ở chỗ mà giọng
nhân vật không phù hợp với sự kiện đợc kể.

11


Còn truyện kể ở ngôi thứ ba kể theo điểm nhìn của mình là trờng hợp ngời
kể chuyện đồng thời là ngời tiêu điểm hoá, không xuất hiện trực tiếp trong tác
phẩm. Ngời kể chuyện có vị trí quan sát ở bên ngoài thế giới nhân vật, ngời kể
chuyện không kể theo điểm nhìn của một nhân vật nào cả mà kể theo điểm nhìn
của chính mình [24;143]. ở đây ngời kể chuyện hàm ẩn đứng ngoài thế giới
hiện thực trong truyện và kể lại những gì mà mình quan sát và cảm nhận đợc.
Chính vì vậy trờng hợp này lµ trun kĨ cã ngêi kĨ hµm Èn kĨ theo điểm nhìn
của chính mình.
Nh vậy ngời trần thuật ngôi thứ ba hàm ẩn có hai kiểu ngời trần thuật hàm
ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật và ngời trần thuật hàm ẩn kể theo điểm nhìn của
chính mình.

Ngoài ra, ngời trần thuật còn có thể phân chia thành ngời trần thuật tham
gia vào truyện và ngời trần thuật bàng quan đứng ngoài.
Từ những dẫn giải trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm ngời trần thuật nh
sau: Ngời trần thuật (ngời kể chuyện) là khái niệm để chỉ ngời thay mặt tác giả,
đại diện cho tác giả thuật lại câu chuyện trong tác phẩm là ngời dẫn dắt, định hớng và khơi gợi khả năng đối thoại, tranh luận cho ngời đọc và là ngời làm điểm
tựa để tác giả bộc lộ quan điểm của mình. Đồng thời ngời trần thuật cũng là
nhân vật trong tác phẩm, tham gia vào tác phẩm. Và dựa vào mức độ hoá thân
và tham dự vào tác phẩm mà ta nhn ra đợc ngời trần thuật trong tác phẩm.
1.1.1.2. Vai trò của ngời trần thuật
Văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của ntgời trần thuật tạo thành. Do
đó, ngời trần thuật có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dự tác phẩm tự
sự. Có thể nói hành vi ngôn ngữ của ngời trần thuật là một yếu tố hàng đầu
không thể thiếu trong văn bản tự sự mà đặc biệt là nghệ thuật trần thuật trong
văn bản đó. Cha có ngời trần thuật thì cha có văn bản tự sự. Tác phẩm nào cũng
có ngời trần thuật. Ngời trần thuật có khi tham dự vào câu chuyện có khi bµng

12


quan, đứng ngoài. Khi ngời trần thuật trong tác phẩm tự sự kể lại các sự kiện,
con ngời nh những gì xảy ra bên ngoài mình, không phụ thuộc vào tình cảm, ý
muốn của anh ta chính là lúc ngời trần thuật đà tạo nên tính khách quan cho tác
phẩm tự sự. Mà ngời trần thuật là sản phẩm của nhà văn, do đó tính khách quan
của tự sự là ảo giác nghệ thuật về tính khách quan của văn học là cái khách
quan thứ hai, so với tính khách quan văn học mang tính thứ nhất. Tuy nhiên, ngời trần thuật bên cạnh sự khách quan vẫn tạo cho tác phẩm có sự chủ quan, cái
nhìn bên cạnh sự khách quan vẫn tạo cho tác phẩm có sự chủ quan, cái nhìn chủ
thể của tác giả bởi xét đến cùng thì tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo, là
tiếng nói của tác giả. Ngời trần thuật là trung gian giữa tác giả và thực tại đợc
miêu tả nên tác giả có thể hiện hình trong tác phẩm thông qua ngời trần thuật
mà vẫn đảm bảo đợc tính khách quan nhờ đảm bảo khoảng cách với thế giới đợc miêu tả và vừa giản cách, vừa hớng đạo đợc cho ngời đọc. Thông qua nhân

vật trần thuật, tác giả hiện hình để phân tích, nghiên cứu, khêu gợi, bình luận
làm sáng tỏ mọi qua hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh Gocrki nói: Trong tiểu
thuyết trong truyền những con ngời đợc tác giả thể hiện đều hành động với sự
giứp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, tác giả mách cho ngời đọc
hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn sau những hành động của các
nhân vật đợc miêu tả tô đậm thêm cho những tâm trạng của họ bằng những
đoạn mô tả thiên nhiên trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn luôn giật dây
cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều
khi rất khéo léo nhng lại rất võ đoán. Mặc dù ngời đọc không nhận thấy những
hành động những lời lẽ, những việc làm nhng mối tơng quan của họ, luôn luôn
tìm mọi cách để làm cho nhân vật trong truyện đợc rõ nét và có sức thuyết phục
đến mức tối đa về phơng diện nghệ thuật. Nh vậy Gorki đà cho thấy cụ thể
nhiều mặt vai trò của ngời trần thuật. Trong Từ điển thuật ngữ văn học có nói
đến năm chức năng khác nhau của ngời trần thuật: Chức năng truyền đạt đóng
vai một yếu tố của tổ chức tự sự, chức năng chỉ dẫn, thuộc phơng pháp trần
thuật, chức năng bình luận; chức năng nhân vËt ho¸” [22,307]. Khi thùc hiƯn

13


những chức năng nhiều mặt đó, rõ ràng ngời trần thuật đà thực hiện vai trò của
mình.
Ngời kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan điểm, sáng
tác của nhà văn trong tác phẩm. Quan điểm chỉ có thể thể hiện qua điểm nhìn,
tầm nhận thức của ngời trần thuật nh một hiện tợng ít nhiều mang tính tồn tại
độc lập. Ngời kể chuyện có thể tỏ thái độ với thế giới câu chuyện đợc kể lại.
Phần nào đây là một hình tợng thái độ. Thái độ của ngời kể chuyện phần nào
trùng khít với quan điểm tác giả, nhng không bao giờ trùng khít hoàn toàn. Ngời trần thuật do vậy, vừa là hình thức thể hiện quan niệm của tác giả, vừa là ngời
tồn tại độc lập nhất định có quan điểm riêng theo lôgíc hiện thực nhất định. Do
đó ngời trần thuật phần nào tạo nên sự đối thoại với độc giả của tác phẩm tù sù.

Nh vËy, chóng ta cã thĨ thÊy ngêi kĨ chuyện có vai trò quan trọng trong
tác phẩm tự sự, là yếu tố đầu tiên trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm. Hiểu
đợc ngời trần thuật và nắm đợc vai trò của ngời trần thuật là cơ sở để chúng tôi
tìm hiểu về ngời trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ và Hồi ức về những cô gái
điếm buồn của tôi, góp phần làm nổi bật nghệ thuật trần thuật trong hai tác
phẩm.
1.1.2. Nhân vật trần thuật trong Ngời ®Đp say ngđ (Y.Kawabata)
Nh chóng t«i ®· nãi tõ tríc, căn cứ vào mức độ hoá thân, ngời trần thuật
thờng đợc phân biệt: ngời trần thuật lộ diện (ngôi thứ nhất) ngời trần thuật ẩn
trong (ngôi thứ ba). Tuy nhiên, ngời trần thuật ngoài hai kiểu thông thờng đó,
các nhà nghiên cứu ngày nay còn bàn đến ngời trần thuật ở ngôi thứ hai với t
cách là ngời đối thoại với độc giả. Khi bàn về giọng J.A. Cuddton trong Từ điển
Penguin về thuật ngữ và lý luận văn học có nhắc đến Plato và Aristole với sự
phân biệt ba kiểu ngời kể chuyện cơ bản sau: (a) ngời kể hoặc nhà thơ (hoặc
bất kỳ kiểu nhà văn nào) sử dụng giọng của chính mình; (b) ngời giả vờ giọng
ngời khác hoặc giọng những ngời khác, và nói bằng giọng không phải giọng
của mình; (c) ngời sử dụng sự trộn lẫn giọng của chính mình và giọng của
những ngời khác [dẫn theo Đào Thị Thu Hằng]. Nh vậy theo Plato vµ Aristole

14


thì giọng cũng thể hiện đợc vị trí kể chuyện. Giọng (a) chính là giọng cảu ngời kể chuyện xng tôi, ngôi thứ nhất, giọng (b) là ngời kể chuyện giấu mặt
ngôi thứ ba, còn giọng (c) là giọng của ngời kể chuyện nữa trực tiếp, hay cũng
có thể là một vị trí còn gây nhiều tranh cÃi. Kể từ ngôi thứ hai nhng ngôi thứ
hai ít đợc nói đến và ở đề tài này chúng tôi chỉ quan tâm đến ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba.
Ngời trần thuật trong tác phẩm của Y. Kawabata thờng ở ngôi kể thứ nhất
và ngôi thứ ba. Trong đó theo sự thống kê của Đào Thị Thu Hằng thì toàn bộ
tiểu thuyết của Kawabata đợc kể bằng ngôi thứ ba chiếm 2/3 số lợng tác phẩm.

Sự lựa chọn ngôi kể ngời trần thuật này đà thể hiện phong cách và tài năng của
tác giả bởi theo G.N Pospelop thì những tác phẩm hay nhất là những tác phẩm
trong đó tác giả cố gắng che đậy quan niệm riêng của mình nhng đồng thời lại
tỏ ra luôn luôn trung thành với vô số tất cả những nơi mà ngời ta thấy tác giả lộ
ra [22;94]. Đó chính là trờng hợp của Kawabata.
Ngời kể chuyện dấu mặt hay còn gọi là ngời kể chuyện ngôi thứ ba đợc
coi là một thợng đế toàn thông trong tiĨu thut trun thèng. Anh ta biÕt hÕt
mäi thø cÇn biết về nhân vật, sự kiện, hoàn toàn có thể di chuyển theo thời gian
và không gian theo ý muốn của chính mình, có thể xâm nhâp vào suy nghĩ,
động cơ tình cảm bên trong cũng nh hành động công khai của nhân vật. Do đó
ngời kể toàn thôngđà cho mình toàn quyền và định hớng cảm thụ cho độc giả,
khiến độc giả bị áp đặt sự yêu ghét, buồn vui, đồng tình hay phản đối của anh
ta.
Ngày nay, để khách quan hoá tự sự và khẳng định vai trò của độc giả
trong tiếp nhận văn họ, tiểu thuyết hiện đại có xu hớng di chuyển điểm nhìn vào
nhân vật, ngời kể chuyện xng tôi hoặc cũng là ngời kể chuyện dấu mặt nhng
đà dời chỗ vào nhân vật (Flaulert), nhìn bằng cách nhìn của nhân vật.
Y.Kawabata với tài năng của mình đà tiếp thu mặt tích cực và loại bỏ hạn
chế của truyền thống và tiếp thu hiện đại hợp thành tạo nên ngời trần thuật độc
đáo trong tác phẩm của mình. Là một tác phẩm gần nh cuối ®êi khi mµ bót lùc

15


và tinh hoa đạt đến đỉnh cao của tài năng Ngời đẹp say ngủ là một tác phẩm
điển hình của sự kết hợp đó.
Ngời đẹp say ngủ là một sự trÇn tht phi cèt trun (hiĨu theo cèt trun
trun thèng trình bày, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm và kết thúc). Câu chuyện
không có gì nhiều đáng nói, thiên về cốt truyện tâm lý tình cảm, đợc triển khai
theo dòng ý thức của nhân vật. Chính vì vậy mà việc lựa chọn nhân vật trần

thuật là vô cùng quan trọng để làm sao có thể vừa đi sâu vào dòng ý thức nhân
vật mà trần thuật lại vừa đảm bảo tính khách quan cho hiện thực đợc miêu tả
tạo nên sự cuốn hút kì lạ, lôi cuốn hấp dẫn ngời đọc, làm cho họ đọc đi đọc lại
mà không chán. Một việc thật là khó khăn nh vậy đặt ra trong sáng tạo nghệ
thuật lại đợc Y.Kawabata giải quyết hết sức khéo léo tài tình bằng việc xây
dựng ngời trần thuật ba ngôi thứ ba hàm ẩn di chuyển điểm nhìn vào nhân vật
chính, nhìn bằng thế giới đợc miêu tả bằng con mắt của nhân vật chính ông già
Eguchi.
Ngời trần thuật trong Ngời đẹp say ngủ đà ẩn, tựa vào điểm nhìn của
nhân vật chính là Êguchi để kể. Vì vậy từ những trang đầu tiên, độc giả đà bị
cuốn vào câu chuyện đầy hấp dẫn không phải bằng cảnh tình tiết éo le, xung đột
gay cấn, sự kiện nóng bỏng mà bằng lối dẫn dắt của nghệ thuật kể chuyện tài
tình của một tâm hồn Nhật Bản. Ngời trần thuật đà ẩn đi, di chuyển điểm nhìn
vào nhân vật Êguchi nên dờng nh ngời trần thuật đà hoà vào nhân vật Êguchi
đến mức ta khó mà phân biệt đợc đâu là giọng của ngời trần thuật hàm ẩn, đâu
là giọng của Êguchi. Và ta thờng chỉ thấy giọng của Êguchi trong tác phẩm.
Y.Kawabata đà chuyển dịch phần lớn u thế giành điểm nhìn cho ngời trần thuật
hàm ẩn ở những tác phẩm trớc (Xứ tuyến, Ngàn cánh hạc) sang điểm nhìn
của nhân vật ở Ngời đẹp say ngủ. Nhờ sự chuyển dịch này ta thấy giọng của
nhân vật Êguchi trội hơn, mạch chính của tác phẩm đợc tạo bởi cách nhìn nhận,
đánh giá cuộc đời của nhân vật chính Êguchi, chứ ngời trần thuật vẫn giấu mặt.
Chính vì dời chỗ vào nhân vật Êguchi để trần thuật câu chuyện nên ngời trần
thuật có thể đi sâu sát vào câu chuyện tạo cho độc giả sự tin cậy, niềm tin v÷ng
16


vàng vào câu chuyện ông ta kể bởi cái nhìn trong cuộc. Ngời trần thuật vì thế có
thể thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật Êguichi bởi không ai thấu
hiểu đời sống nội tâm Êguchi hơn chính bản thân ông ta. Êguchi đà kể lại cuộc
đời mình nh là sự trải nghiệm, độc giả hồi hộp, sống cùng tâm trạng, sự trải

nghiệm của ông. Đồng thời, ngời trần thuật hàm ẩn thông qua Êguchi cũng dễ
dàng hoà nhập vào câu chuyện, các sự kiện, nhân vật trong không gian của
kiểu nhà chứa hiện đại ra trớc độc giả mà không cần một lời giới thiệu nào cả.
Sự chuyển dịch chủ yếu vai trò trần thuật sang ông già Êguchi của ngời
trần thuật, trao điểm nhìn cho nhân vật đà tạo nên điểm xuất phát trần thuật của
truyền là khoảng thời gian xế chiều mà Êguchi ở tuổi sáu mơi bảy. Từ điểm
xuất phát đó, dới con mắt của chính mình Êguchi đà cho chúng ta một cái nhìn
toàn vẹn về cuộc đời của ông: hiện tại là những lần đến bên ngời đẹp say ngủ
với những xúc cảm tâm trạng, kết hợp với tâm tởng ý thức đa ta về với quá
khứ một thời trai trẻ, tiến đến tơng lai nhuốm màu xám xịt của một xuất phát
hiện tại đầy cô đơn, u sầu. Nhờ cái nhìn của ngời trong cuộc, tự trần thuật về
cuộc đời bản thân của Êguchi đà cho ta thấy một cuộc đời sống động, phức tạp
bày ra trớc mắt đáng tin cậy, đặc biệt là những dòng hồi tởng, cuộc đời trong kí
ức của Êguchi bởi kí ức nhân vật thì không ai có thể biết đợc trừ chính bản thân
ngời mang kÝ øc. Qu¸ khø hiƯn vỊ râ mån mét với những cuộc tình ghi dấu ấn
không thể phai mờ. Đó là sự hồn nhiên và thân hình đẹp vô song của cô gái ở
mối tình đầu; đó là sự ghen tuông của cô gái do mùi sữa khi ông đà có vợ, đó là
sự thoải mái không cảm thấy tội lỗi của cô gái đà có chồng ở Kôbê mang lại; đó
là bà vợ ông giám đốc, đó còn là những kỉ niệm về con cái Quá khứ đó và
hiện tại, tơng lai cứ đan xen vào nhau nhờ ngời kể chuyện hàm ẩn luôn dẫn dắt
để nhân vật luôn ở t thế chủ động trong câu chuyện, đặt nhân vật vào những tình
huống mở để ông ta có thể trần thuật câu chuyện theo liên tởng, tởng tợng cuả
mình. Sự liên tởng, tởng tợng ấy không chỉ cho Êguchi nhìn lại quá khứ của
mình mà cũng là điểm tựa để cho ông có thể tự bộc lộ bản thân. Vì thế sự
chuyển dịch điểm nhìn trần thuật sang Êguchi phần lớn của ngời trần thuật hàm

17


ẩn đà tạo điều kiện đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật trong tác phẩm.

Đằng sau những câu chuyện về ngời đẹp say ngủ là những suy nghĩ, cảm giác
thể hiện tâm lý nhân vật. Đó là tâm lý tò mò của Êguchi qua lời giới thiệu của
ông bạn đà đa ông đến với những ngời đẹp say ngủ. Sau đó qua sự trải nghiệm
của chính bản thân và sự chất vấn về những suy nghĩ cảm giác của những ông
già, khi đến ngôi nhà bí mật, cuối cùng Êguchi đà cho ta một cái nhìn về lý
do các ông già đến đây. Đến để đợc nghỉ ngơi hoàn toàn, để tìm thấy thời trai
trẻ của mình, đến vì không bị một hậu quả phiền phức nào về sau, đến vì biết
đâu còn tìm đợc sự dâng hiến của một cô gái còn thanh xuân ở buổi xế chiều
Qua những lý do này, chúng ta cảm nhận đợc một sự nuối tiếc thời trai trẻ và
muốn kéo dài tuổi xuân của ông già Êguchi và những ông già khác. Nó còn cho
thấy tâm lý cô đơn, sợ tuổi già bởi cô đơn nêu muốn tìm đến các cô gái còn
trinh nguyên an ủi mình lúc không còn sinh lực nữa, mong tìm thấy thời trai
trẻ dĩ vàng của mình bởi về già con ngời ta thờng hoài niệm. Nhng trong khi
đến với các cô giá thanh xuân thì Êguchi lại vẫn thấy cô đơn bởi những thân
hình đẹp đẽ kia đang bị say ngủ vì thuốc không thể đáp trả lại ông. Ông cảm
thấy cô đơn, sợ tuổi già và sợ mình sẽ vô nghĩa với cuộc đời và nó làm cho ông
không chịu nổi cứ để cô ấy ngủ, cứ để cô ấy không nói năng gì, cứ để cô ấy
không thấy mình, không nghe thấy giọng nói mình, nói tóm lại cứ để cô ấy
trong trạng thái say ngủ nh thế này, hoàn toàn thản nhiên với con ngời tên là
Êguchi đang trớc mặt cô. ý nghĩ ấy bỗng lại làm ông không chịu nổi, số phận
ông, con ngời ông hoàn toàn vô nghĩa đối với cô gái này [14;21]. Sợ tuổi già,
nổi cô đơn nên Êguchi đà đến đây và vì thế sợ số phận mình sẽ vô nghĩa. Muốn
nó có ý nghĩa, Êguchi đà đánh thức cô gái hai lần, thậm chí muốn làm quen nhng không đợc do vấp phải những quy định không thành văn của nhà trọ. Và từ
cái cô đơn của tuổi già ấy, ta nhận thấy Êguchi dần có sự trắc ẩn đối với các
cô gái. Êguchi bỗng có cảm giác cô đơn và u sầu. Có lẽ đúng hơn là cảm giác
u sầu lạnh lẽo của tuổi già, rồi cảm giác ấy nhờng chỗ cho lòng thơng xót trìu
mến đối với cô gái mà mùi da thịt đang toát lên bầu nhiệt huyết của tuổi thanh

18



xuân. Phải chăng do một cảm giác tội lỗi bùng lên trong lòng ông già Êguchi
mà ông thấy nh một điệu nhạc vang lên từ thân thể cô gái? Tiếng nhạc chứa đầy
tình ái, Êguchi muốn chạy trốn khỏi đây [.] nó đà nhốt cô giá đang ngủ say
vào chung với một ông già! [14;21]. Những cảm giác này chỉ có thể có đợc dới
cái nhìn tự bạch của Êguchi. Nã cho ta thÊy sù d· man cđa nhµ chøa hiện đại
dùng phụ nữ nh những búp bê sống cho những ông già liệt dơng, bất lực không
còn mơ ớc gì hơn là đợc chết bên cô gái đẹp loà lồ.
Bằng cách để cho Êguchi tự bộc lộ bản thân mình, đời sống nội tâm sâu
sắc đợc soi chiếu góp phần thể hiện quan điểm của

×