Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Vùng kinh tế tổng hợp tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.34 KB, 36 trang )

Vùng kinh tế tổng hợp Tây Nguyên
A. Các nguồn lực của vùng
I. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.Điều kiện tự nhiên (Khải)
1. Vị trí địa lý
Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phịng đối với cả
nước và khu vực Đông Dương. Ở độ cao từ 250 đến 2500m, là đầu nguồn của 4 hệ thống sơng lớn
và có hệ thống giao thông 14, 19, 20, 24, 25, 27... Tây Nguyên có quan hệ bền chặt về kinh tế - xã
hội và môi trường sinh thái với các tỉnh duyên hải Dun hải Nam Trung Bộ, về phía Tây có quan
hệ trực tiếp với các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Campuchia. Do vậy, Tây Nguyên có điều kiện
thuận lợi để mở rộng giao lưu với nhiều vùng trong nước và quốc tế.
2. Địa hình
Đặc thù quan trọng nhất về địa hình Tây Nguyên là một sơn nguyên, bao gồm các dãy núi
cao trên 2000m, tiếp đến là các dãy núi thấp dưới 2000m và các cao nguyên với độ cao từ 300800m thoải dần về phía Tây, Tây Nam và Nam. Vùng cao nguyên khoảng 2.637,7 nghìn ha (chiếm
47%), vùng núi có độ cao từ 800m tới 2598m có diện tích khoảng 1536,14 nghìn ha (chiếm
34,5%), thung lũng giữa núi khoảng 1037,8 nghìn ha (chiếm 17,5%).Địa hình phân hố tạo ra
những mặt bằng tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội nhất là phát triển
nơng lâm nghiệp. Do đặc điểm của địa hình đa dạng, cho nên cũng gây nhiều khó khăn trong việc
xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, bưu điện, thuỷ lợi.
3. Khí hậu
Kết hợp với các yếu tố địa hình, đất đai đã phân chia lãnh thổ Tây Nguyên thành những
vùng, tiểu vùng có điều kiện sinh thái rất khác nhau, thích hợp cho nhiều loại động, thực vật sinh
trưởng và phát triển.

1


2.Tài nguyên thiên nhiên
a.Tài nguyên đất
Tây Nguyên có tài nguyên đất phong phú, giàu chất dinh dưỡng, đây là đặc điểm nổi bật so
với các vùng lãnh thổ khác của cả nước. Đất đai vùng Tây Nguyên gồm 8 loại đất chính.


Biểu 1. Các loại đất chính vùng Tây Nguyên
Đơn vị: nghìn ha
Loại đất

Diện tích Tỷ lệ (%)

Tổng số

5612

100

Đất phù sa

156

2,78

Đất xám bạc màu

559

9,96

Đất đen

153

2,5


Đất đỏ vàng

3743

66,7

Trong đó đất bazan

1358

Đất mùn trên núi cao

667

11,88

Đất dốc tụ và thung lũng

82

1,5

Các loại đất khác (đất lầy, đất trơ sỏi đá, đất sông suối, ao hồ)
262
4,76
Hiện tại vùng chỉ có 548,1 nghìn ha sử dụng vào mục đích nơng nghiệp trong đó diện tích
cây ngắn ngày là 305,9 nghìn ha, cây lâu năm là 203,8 nghìn ha, đồng cỏ chăn ni 21,2 nghìn ha,
đất có mặt nước dùng vào nơng nghiệp 6,21 nghìn ha.Hiện còn gần 1,4 triệu ha đất trống đồi núi
trọc đang bị thối hố nghiêm trọng trong đó đất đồng bằng cịn 38,9 nghìn ha, đất đồi núi cịn
1353,8 nghìn ha. Phần lớn các loại đất đang bị thoái hoá ở các mức độ khác nhau: đất bazan bị

thoái hoá 71,7%, trong đó thối hố nặng chiếm 21%, thối hố nhẹ và trung bình 50,7%, đất
bazan chưa thối hố là 28,3%.Đây là vấn đề cần phải có phương thức giải quyết kết hợp các biện
pháp sinh học, kỹ thuật, đầu tư đồng bộ để cải tạo, phục hồi độ phì nhiêu cho đất.
b.Tài nguyên nước
●Tài nguyên nước mặt: vùng có 4 hệ thống sơng chính:
- Thượng Sesan: diện tích lưu vực 11.450 km2, có 2 nhánh chính Poko, DacBla.
- Thượng Srepok: diện tích lưu vực 11.721 km2, có 3 nhánh chính: Krơng Ana, KrơngKnơ,
EaH'leo.
- Thượng sơng Ba: diện tích lưu vực 11.410 km2
- Hệ thống sơng Đồng Nai diện tích lưu vực 22.600 km2
Tổng lưu lượng của vùng Tây Nguyên hàng năm trung bình khoảng 50 tỷ m3, hiện nay
mẫu số chung được khoảng 5-7%. Tài nguyên nước mặt lớn, nhưng do phân bố khơng đều có một
mùa mưa kéo dài dễ gây úng lụt và một mùa khô khắc nghiệt, thiếu nước nghiêm trọng, cơng tác
thuỷ lợi có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế xã hội như thuỷ điện, sản xuất và đời
sống.
2


●Tài nguyên nước ngầm: về trữ lượng, trên cơ sở các tài liệu hiện có đã xác định được dự
trữ lượng công nghiệp cấp C2 (trữ lượng khai thác tiềm năng) của các cao nguyên bazan là:
- Plâycu (Gia Lai):

1.422.035 m3/ngày

- Buôn Mê Thuật (Đắc lắc):

2.028.997 m3/ngày

- Bảo Lộc Di Linh (Lâm Đồng): 293.000 m3/ngày
- Đức Trọng (Lâm Đồng):


475.000 m3/ngày

Do nguồn nước mưa cung cấp hàng năm tương đối lớn, cùng với khả năng thấm và giữ
nước của một số thành tạo địa chất nên đã làm cho nguồn nước ngầm ở Tây Ngun có vị trí quan
trọng trong cán cân nước nói chung.Nước ngầm trong cấu thành tạo bazan đóng vai trị chủ yếu
nhất.
Tài ngun nước của vùng Tây Nguyên mất cân đối nghiêm trọng, về mùa khô các hồ tự
nhiên, nhân tạo, các khu chứa nước rộng lớn tạo ra sự bốc hơi mặt nước. Lượng nước sử dụng
(chủ yếu cho nơng nghiệp) khơng được hồn lại và bị mất một khối lượng lớn ước tính trên 20%
lượng nước dùng trong mùa khô, ở những nơi mất rừng các con suối khô cạn, mức nước ngầm tụt
sâu, các giếng đào, giếng khoan đều phải đào và khoan sâu thêm mới có nước.
c.Tài nguyên rừng
Theo kết quả kiểm kê rừng tự nhiên, vùng Tây Ngun hiện cịn 3140 nghìn ha rừng các
loại.Trữ lượng các loại rừng là 238,9 triệu m3. Cho đến nay Tây Nguyên vẫn là vùng có nhiều rừng
nhất nước ta, chiếm tới 31,9% diện tích và 36,3% trữ lượng rừng tồn quốc trong đó rừng giàu
chiếm 41,2%; rừng trung bình chiếm 51,2% so với tổng trữ lượng rừng của cùng loại của cả nước.
Biểu 2. Hiện trạng phân bố tài nguyên rừng tự nhiên của vùng năm 1995
Đơn vị: 1000 ha
Hạng mục

Toàn vùng

Gia Lai Kon Tum Đăklăk Lâm Đồng

Diện tích đất tự nhiên

5612

1612,2


993,44

1980,3 1017,1

Diện tích có rừng

3140

742,1

611,2

1223

564,2

Trong đó: - Rừng tự nhiên

3100,9

735

607

1208

552,9

37,1


7,1

4,1

15,4

11,3

289,71

81,65

59,13

98,5

50,43

- Rừng trồng
3

Trữ lượng gỗ (triệu m )

Trữ lượng tre nứa (triệu cây)
1988,9
11,5
919,2
712,8 345,4
Việc khai thác rừng khơng hợp lí đã làm cho diện tích rừng tự nhiên giảm, mà quan trọng

hơn là làm giảm về chất lượng rừng.Theo những tài liệu thu thập được trên các ô tiêu chuẩn đều đã
chứng tỏ rằng: tổ thành loại cây thay đổi mạnh, những lồi gỗ q, giá trị thương mại cao trở nên
rất hiếm, chỉ còn ở những vùng xa xơi hiểm trở, đó là Cẩm Lai, Dáng Hương, Kiền Kiền, Sao,
Chổi, Gụ... Phần lớn những loài cây ở tầng ưu thế là những cây gỗ q, có giá trị đều đã bị khai
thác trong nhiều năm qua, tầng kế tiếp phần cịn lại tạp...Đường kính gỗ khai thác bình quân càng
giảm từ 50-60 cm, nay chỉ còn 30-40 cm.
3


Chất lượng rừng của vùng bị suy giảm nhanh.Rừng giàu chỉ cịn 192 nghìn ha (6,0%), rừng
trung bình cịn khoảng 600 ha chiếm 18,7% còn lại 75,3% là rừng nghèo, rừng non, rừng cằn, rừng
hỗn giao và tre nứa.
d.Tài nguyên khống sản
Tài ngun khống sản ở Tây Ngun có: bơxit, quặng vàng, vật liệu xây dựng, đá quí,
than bùn và than nâu. Ngồi ra ở vùng Tây Ngun cịn phát hiện có kim loại màu nặng: Sn, W,
Pb, Zn, Sb, Pirit.
- Bơxit: có trữ lượng quặng ngun 3,05 tỷ tấn, quặng tinh 1,5 tỷ tấn phân bố chủ yếu ở
Đắc Nông tỉnh Đắc Lắc (với trữ lượng quặng nguyên 2,68 tỷ tấn, quặng tinh 1,34 tỷ tấn) và ở khu
Konplon - An Khê thuộc tỉnh Gia Lai, Kon Tum với trữ lượng quặng nguyên 368 triệu tấn, quặng
tinh 162 triệu tấn.
- Vàng: Theo kết quả nghiên cứu của viện Mỏ - Luyện kim, vùng Tây Nguyên có 21 điểm
có vàng với trữ lượng khoảng 8,82 tấn vàng gốc và 46,5 tấn vàng Ag (quặng vàng) phân bố ở tỉnh
Kon Tum: có 4 điểm trữ lượng 2,4 tấn vàng gốc và 350kg vàng Ag; tỉnh Gia Lai: 14 điểm trữ
lượng 2,42 tấn vàng Au và 37,3 tấn vàng Ag; tỉnh Đắc Lắc: có 3 điểm với hàm lượng vàng gốc từ
8 - 10g/tấn.
- Đá quí: đã phát hiện ở Đắc Min, Chư Sê, Plâycu, Đăl Me, Đăkhia với các loại đá ngọc,
silic xanh lục, xanh nhạt opan xanh, đen, opan đa màu, nâu, trắng đục, vàng, phớt nâu.Đá ngọc và
opan xám đen về trữ lượng và khả năng khai thác chưa có tài ngun chi tiết.
- Các khống sản phi kim loại gồm đá sản xuất xi măng, đá xây dựng, sét, cát, sỏi, than
bùn...

e.Nhiên liệu, năng lượng


Tiềm năng thủy điện
Tây Ngun là nơi có sơng Sê san, một trong 3 con sơng có tiềm năng thủy điện lớn nhất
Việt Nam là: sơng Đà (chiếm 44,7% tổng tiềm năng tồn quốc), sơng Đồng Nai (16,4% tổng tiềm
năng tồn quốc) và sơng Sê san (11,3% tổng tiềm năng toàn quốc). Nếu kể thêm sơng Ba (2,9%
tổng tiềm năng tồn quốc) và sơng Srepok (3,72% tiềm năng tồn quốc) thì tổng tiềm năng thủy
điện (lớn) Tây Nguyên chiếm gần 18% tổng tiềm năng thủy điện toàn quốc.
- Tây Nguyên là trung tâm đứng thứ hai về tiềm năng thủy điện của toàn quốc xét về các mặt: tỷ
trọng, công suất và mật độ
- Tiềm năng thủy điện hiện đang được khai thác với thủy điện Yali với công suất 720 MW cũng
đứng thứ hai sau Hịa Bình 1920 MW và sẽ phát huy tác dụng tổ máy đầu tiên vào năm 1998.
- Vị trí khai thác của thủy điện Yali có vai trị trong việc đảm bảo ổn định toàn hệ thống điện (đặc
biệt là đường dây 500KV) vì nó nằm trên đoạn cuối đường dây trên địa bàn tiếp giáp Nam Trung
Bộ và Đông Nam Bộ
4


B.Ngành sản xuất kinh doanh của vùng
I. Cơ cấu ngành
1. Các ngành chun mơn hố
a. Trồng cây cơng nghiệp
Tây Ngun có 2 triệu hecta đất bazan màu mỡ, chiếm đến 60% đất bazan cả nước. Đất bazan
ỏ Tây Nguyên có tầng phong hóa sâu, giàu chất dinh dưỡng, lại phân bố tập trung với những mặt
bằng rộng, thuận lợi cho việc thành lập các nông trường và vùng chuyên canh quy mơ lớn. Tây
Ngun có điều kiện tự nhiên như vậy nên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca
cao, hồ tiêu, dâu tằm, trà.
Diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm sau khi chuyển giao cho hộ nông trường, xã viên và
hộ nông dân đảm nhận đã tăng nhanh: từ 618 nghìn ha năm 2000 lên 633 nghìn ha năm 2004 và

640 nghìn ha năm 2005. Trong đó diện tích trồng cà phê tăng từ 450 nghìn ha lên 452 nghìn ha;
diện tích cao su từ 85 nghìn ha lên 88 nghìn ha. Đặc biệt, toàn vùng đã sản xuất và xuất khẩu trên
90% sản lượng cà phê cả nước, ngồi ra một số nơng sản xuất khẩu tập trung khác như cao su, hạt
tiêu, điều, bời lời... được đẩy mạnh. Chỉ tính trong 5 năm từ 2001 đến 2005, Tây Nguyên đã hình
thành những mơ hình sản xuất nơng nghiệp hàng hố tập trung quy mơ lớn, gắn với thị trường
trong và ngồi nước với 6035 trang trại, trong đó có 5293 trang trại trồng cây lâu năm, 416 trang
trại trồng cây hàng năm, 84 trang trại chăn ni, lấy sản xuất hàng hố làm mục tiêu phát triển.
Cà phê: là cây công nghiệp quan trọng số một của Tây Nguyên. Tuy cây cà phê khơng phải là
cây ngun sản, có xuất xứ ở Đắc Lắc nhưng do đã được du nhập vào trồng tại đây từ rất sớm và
mảnh đất này đặc biệt phù hợp với việc canh tác cà phê. Cà phê Buôn Ma Thuột và Đắc Lắc luôn
được đánh giá là có chất lượng cao, có hương vị đặc trưng; do đó thương hiệu Cà phê Bn Ma
Thuột đã được thế giới biết đến. Diện tích cà phê ở Tây Nguyên hiện nay là hơn 290 nghìn ha,
chiếm 4/5 diện tích cà phê cả nước. Đắc Lắc là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất (170 nghìn ha). Cà
phê chè được trồng trên các cao nguyên tương đối cao, có khí hậu mát hơn (ở Gia Lai, Kon Tum
và Lâm Đồng), còn cà phê vối được trồng ở những vùng nóng hơn (chủ yếu ở Đắc Lắc).
Chè được trồng chủ yếu trên các cao nguyên cao hơn (như ở Lâm Đồng) và một phần ở Gia
Lai. Chè búp thu hoạch được đem chế biến tại các nhà máy chè Biển Hồ (Gia Lai) và B’lao (Lâm
Đồng).

5


Tây Nguyên là vùng trồng cao su lớn thứ hai trong nước (sau Đông Nam Bộ). Cao su được
trồng chủ yếu ở tỉnh Gia Lai và tỉnh Đắc Lắc, tại những vùng tránh được gió mạnh.
Dâu tằm: Tây Ngun cịn là vùng trồng dâu, nuôi tằm tập trung lớn nhất nước ta. Trong
số 54 địa phương cả nước thì khơng nơi nào trồng nhiều dâu tằm như Lâm Đồng. Khí hậu Lâm
Đồng, đặc biệt là vùng Bảo Lộc thích hợp cho việc nuôi tằm lưỡng hệ quanh năm. sản lượng tơ
các loại đạt 2 ngàn tấn, sản xuất 600-650 ngàn hộp trứng giống (2000) và sau năm 2000 đạt 42-50
ngàn ha, sản lượng tơ đạt 4,2 - 5 ngàn tấn. Địa bàn phân bố chủ yếu vẫn ở Lâm Đồng chiếm 70%
diện tích tồn vùng, Đắk Lắk chiếm 24-25%.

Điều: Diện tích điều tồn vùng hiện có khoảng 20 nghìn ha tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng
và Đắc Lắc. Năm 2005, diện tích cây điều ở Lâm Đồng đạt 11.000 ha, sản lượng hạt 4.833
tấn.Diện tích trồng cây điều tại Đắc Lắc là 9 nghìn ha với sản lượng hạt 4.700 tấn.
Hồ tiêu: Sản lượng hồ tiêu những năm vừa qua đã đạt trên 7 nghìn tấn mỗi năm, chiếm
gần 18% sản lượng hồ tiêu của cả nước, trong đó xuất khẩu được gần 200 tấn. Cây tiêu được trồng
chủ yếu trong đất thổ canh thổ cư, diện tích tiêu phát triển tương đối khá. Hồ tiêu Tây Nguyên
được trồng nhiều ở Đắc Lắc, hiện nay Đắc Lắc là tỉnh có diện tích và sản lượng hồ tiêu đứng thứ
hai trong số 54 địa phương của cả nước.
b. Khai thác và chế biến lâm sản
GTây Nguyên là vùng có diện tích rừng và đất rừng lớn nhất trong cả nước. Trong đó diện
tích rừng ở Đắc Lắc- Đắc Nơng lớn nhất, theo sau là Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng. Tỷ trọng
rừng của mỗi địa phương trong tổng diện tích rừng của cả nước lần lượt là : 13,15%; 8,2%; 6,97%
và 5,85%. Giá trị rừng tự nhiên của Tây Nguyên đạt tới trên 2791,36 tỷ đồng chiếm gần 26,9%
tổng giá trị rừng tự nhiên của cả nước. Trong đó, Gia Lai là 721,35 tỷ đồng chiếm 7,6%; Kon Tum
556,05 tỷ đồng chiếm 6,2%; Đắc Lắc- Đắc Nông 912,6 tỷ đồng chiếm 10% cuối cùng là Lâm
Đồng 426,9 tỷ đồng chiếm 4,4%. Trữ lượng gỗ rừng Tây Nguyên là 289319,6 nghìn m³, chiếm
trên 44% trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của cả nước. Trong đó, Đắc Lắc-Đắc Nơng 98046,7 nghìn
m³; Gia Lai 81653,9 nghìn m³; Kon Tum 59192,6 nghìn m³. Tuy nhiên, do sự suy giảm tài nguyên
rừng nên sản lượng khai thác không ngừng giảm, từ 600 – 700 nghìn m³ vào cuối thập kỉ 80 - đầu
thập kỉ 90, nay chỉ cịn khoảng 200 - 300 nghìn m³/năm
Tây Nguyên có hàng chục lâm trường và các liên hiệp lâm–nông–công nghiệp lớn nhất
nước ta: Liên hiệp lâm–nông–công nghiệp Kon Hà Nừng (tỉnh Gia Lai), Liên hiệp lâm–nông–công
nghiệp Ea súp (tỉnh Đắc Lắc) và Liên hiệp lâm–nông–công nghiệp Gia Nghĩa (tỉnh Đắc Nông).
Các liên hiệp lâm – nông – công nghiệp không chỉ tiến hành khai thác rừng mà cả khoanh nuôi,
trồng

rừng,

chế


biến
6

gỗ

xẻ…


Do sự suy giảm tài nguyên rừng nên sản lượng khai thác khơng ngừng giảm, từ 600 – 700 nghìn
m3 vào cuối thập kỉ 80-đầu thập kỉ 90, nay chỉ cịn khoảng 200 – 300 nghìn m3/năm.
Trong những năm gần đây nạn phá rừng gia tăng, làm giảm sút nhanh lớp phủ rừng và trữ
lượng các loại gỗ quý, môi trường sống của các loài chim thú quý bị đe doạ, mực nước ngầm về
mùa khô tiếp tục hạ thấp. Phần lớn gỗ khai thác, được đem xuất ra ngoài vùng dưới dạng gỗ tròn
chưa qua chế biến. Một phần đáng kể gỗ cành, ngọn chưa được tận thu. Do vậy, vấn đề đặt ra là
phải ngăn chặn nạn phá rừng, khai thác rừng hợp lí đi đơi với khoanh nuôi, trồng rừng mới. Công
tác giao đất, giao rừng cần được đẩy mạnh. Đồng thời cũng cần đẩy mạnh hơn nữa việc chế biến
gỗ tại địa phương và hạn chế xuất gỗ tròn.
c. Thủy điện
Ngành thủy điện ở khu vực Tây Nguyên đã được khai thác từ rất sớm những năm 60, nhà máy
thủy điện Đa Nhim (160000 kW) tại thuợng nguồn sông Đông Nai được xây dựng từ năm 1965,
nhà máy thủy điện Đrây Hơlinh (12000 kW), Yaly đã đi vào hoạt động. Các cơng trình thủy điện
được xây dựng tập trung ở thượng nguồn các con sông XêXan, Scrê-poc, sông Đông Nai, sông
Ba…Thượng nguồn sông XêXan chỗ chảy qua khu vực Tây Ngun đã có 6 cơng trình thủy điện
lớn Yaly(700000kW), XêXan 3, Plei Krông, XeXan 3A, XêXan 4, thượng Kon Tum và nhiều
cơng trình thủy điện vừa và nhỏ với tổng công suất là 8,5 tỉ KWH.Sông Đồng Nai tiềm năng thủy
điện sau sông Đà xây dựng 16 nhà máy thủy điện với tổng công suất lắp máy gần 3000MW. Bên
cạnh đó để đẩy mạnh khai thác hệ thống sơng ngịi và đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng điện trong
khu vực có ngày càng nhiều nhà máy thủy điện vừa và nhỏ được xây dựng tại các tỉnh. Với việc
xuất hiện các cơng trình thuỷ điện, cơng nghiệp của vùng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để phát
triển, trong đó có việc khai thác và chế biến bột nhôm từ nguồn bôxit rất lớn của Tây Ngun.

d.Dịch vụ
Trong nhóm ngành dịch vụ thì du lịch là một tiềm năng lớn của Tây Nguyên.Du lịch ở Tây
Ngun mang tính chun mơn hóa theo lãnh thổ cao mỗi khu vực có những hình thức thu hút
khách du lịch riêng của mình dựa chủ yếu vào những lợi thế sẵn có của mỗi địa phương đó là
những tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.Ở Tây Ngun có rất nhiều thắng cảng đẹp kết
hợp với khí hậu mát mẻ rất thuận lợi để khách tham quan. Ngồi ra trên địa bàn Tây Ngun có rất
nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những phong tục tập quán riêng như hội đâm trâu,
cồng chiêng, các loại đàn đá, đàn tơ rưng, nhà rông…đang thu hút ngày càng nhiều khách du lịch
trong nước cũng như khách quốc tế
2.Các ngành tổng hợp hóa
a.Các ngành bổ trợ
Ngành cơng nghiệp chế biến nông, lâm sản được xác định là có lợi thế cạnh tranh hàng đầu
trong các ngành cơng nghiệp của nước ta.Ở Tây Nguyên, với nguồn nguyên liệu dồi dào tạo điều
7


kiện để phát triển các ngành chế biến. Hằng năm, ngành cơng nghiệp chế biến nơng lâm sản đóng
góp vào tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế, đã tăng hàng năm từ 16,5%, dịch vụ tăng 10%,
giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 15%...Từ chỗ là một thị trường bó hẹp mang tính tự cung tự cấp,
đến nay, sản phẩm hàng hóa Tây Nguyên đã có mặt trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1,5- 1,7 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm từ 6,5-7%.
●Ngành công nghiệp chế biến cà phê
Với tiềm năng và vị thế của vùng, đã hình thành các cơ sở chế biến cà phê với 3 phương pháp
chủ yếu là chế biến khô, chế biến ướt, chế biến bán ướt.Tây Nguyên hiện nay đã có hơn 12 nhà
máy chế biến cà phê với tổng công suât trên 350.000 tấn/năm và nhà máy chế biến cà phê của
Trung Nguyên đang là nhà máy lớn nhất Đông Nam Á hoạt động hết công suất.
Sản lượng cà phê ngày càng gia tăng: sản lượng bình quân mỗi năm của Tây Nguyên là gần 1
triệu tấn. Sản phẩm chủ yếu là cà phê nhân xuất khẩu, cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Cà phê
xuất khẩu chiếm tới 90% cà phê của cả nước.
Công nghiệp chế biến cà phê góp phần đưa cà phê trở thành mặt hàng thiết yếu xuất khẩu ra

ngồi vùng khơng những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngồi đem ngoại
tệ về cho vùng. Đồng thời góp phần đưa Việt Nam đứng hàng thứ hai trên thế giới về sản lượng cà
phê nhân ra thị trường thế giới. Năm 2007, nước ta xuất khẩu khoảng 900.000 tấn cà phê với kim
ngạch đạt gần 1,5 tỷ USD trong đó cà phê của Đác Lắc chiếm hơn 50% sản lượng. Niên vụ 20062007 vừa qua, sản lượng cà phê Đắc Lắc đã thu hoạch được 435.000 tấn cà phê nhân. 9 tháng đầu
năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Đắc Lắc đạt giá trị kim ngạch 479 triệu USD
Tuy vậy, chất lượng cà phê cịn kém dẫn đến tình trạng chất lượng cà phê không đồng đều
khiến cho giá xuất khẩu cà phê của nước ta thấp hơn 10% so với giá các sản phẩm cùng loại trên
thế giới như: Brazil, Indonesia…Nguyên nhân là do có đến 95% việc thu hái cà phê xanh ( tỉ lệ
quả xanh thu hái là 50-70%). Theo kết quả nghiên cứu của viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm
Nghiệp Tây Nguyên cho thấy, nếu hái xanh sản lượng sẽ mất là 24,4% và nó sẽ ảnh hưởng đến
phương pháp chế biến ướt là phương pháp tối ưu hiện nay.
●Ngành công nghiệp chế biến mủ cao su
Hiện nay, ở Tây nguyên có 7 nhà máy chế biến mủ cao su với công suất là 10.000 tấn sản
phẩm/năm. Năm 2006, sản lượng cao su của Tây Nguyên là 81.000 tấn chiếm 17,1 % sản lượng
của cả nước.
-Gia Lai: Hiện nay toàn tỉnh đã xây dựng được 8 nhà máy chế biến mủ cao su với công suất
40.000 tấn mủ cốm/năm.
-Đắc Lắc: Nhiều nhà máy chế biến mủ cao su được xây dựng ở vùng nguyên liệu rộng lớn như
Đắc Hà, Đắc Tô và thị xã Kon Tum, đảm bảo chế biến mủ cho gần 10.000 ha cao su đang trong

8


thời kỳ khai thác. Tổng công suất chế biến của các cơ sở này khoảng 10.000 tấn mủ (mủ tờ và mủ
cốm)/năm.
●Ngành chế biến gỗ xuất khẩu
Ở Tây nguyên, có 14 xí nghiệp chế biến quốc doanh với tổng cơng suất 64.640m3 sản
phẩm/năm; có gần 500 cơ sở, nhà máy chế biến với năng lực mỗi năm khoảng 73000 m 3 gỗ xẻ,
700 m3 ván ép, 3500 m3 tinh chế, 900 tấn đũa tre trong đó có nhà máy ván ép MDF Gia Lai lớn
nhất Đông Nam Á.

●Ngành chế biến chè
Chè được trồng chủ yếu trên các cao nguyên cao hơn (như ở Lâm Đồng) và một phần ở Gia
Lai. Hiện Tây Nguyên có 5 nhà máy chế biến chè quốc doanh với tổng công suất gần 80 ngàn tấn.
Sản lượng chè của Tây Nguyên ngày càng gia tăng. Năng suất chè ở Lâm Đồng cao hơn hẳn năng
suất trung của toàn quốc sản lượng búp tươi là 157.165 tấn trong đó qua chế biến cơng nghiệp
135.000 tấn và đạt sản lượng 30.000 tấn chè khô. Các sản phẩm chè chủ yếu hiện nay là chè xanh,
chè đen, chè ôlong. Các doanh nghiệp chế biến chè đã dần dần thay thế các dây chuyền công nghệ
cũ bằng các trang thiết bị công nghệ hiện đại của Liên Xô, Đài Loan và tự sản xuất trong nước.
Hầu hết các hệ thống thiết bị đảm bảo tính đồng bộ để sản xuất ra sản phẩm mong muốn. Các
doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi hoặc liên doanh với nước ngồi có cơng nghệ thuộc loại trung
bình tiên tiến, thiết bị mới, tỷ lệ thành phẩm xuất khẩu đạt tới khoảng 95%.Chè của Lâm Đồng đã
đến với nhiều quốc gia trên thế giới, chủ yếu tại các khu vực: Trung Đông, Đông Âu và Châu ÁThái Bình Dương.
●Ngành cơng nghiệp chế biến tơ tằm
Tây nguyên hiện có các nhà máy ươm tơ dệt lụa với công suất 795 tấn tơ và 2 triệu mét lụa.
Năm 2000, sản lượng tơ của cả vùng Tây Nguyên là 300 tấn tơ và dệt 240 ngàn mét lụa. Bảo Lộc
là thủ phủ của ngành dâu tằm tơ, có các nhà máy chế biến tơ tằm, ươm tơ dệt lụa nổi tiếng như nhà
máy se tơ dệt lụa tơ tằm Á châu. Có 4 nhà máy ươm tơ với cơng suất 920 tấn tơ/năm; 3 xí nghiệp
dệt lụa với tổng cơng suất 3 triệu m/năm (trong đó có 2 xí nghiệp liên doanh với nước ngồi); 1 xí
nghiệp may mặc từ sản phẩm lụa tơ tằm với công suất: 200.000 sản phẩm/năm; 2 cơ sở xe tơ với
công suất bình quân 20 tấn tơ xe/1 nhà máy. Năng lực ươm tơ, dệt lụa trên địa bàn Bảo Lộc chiếm
90% tổng năng lực chế biến chung của tỉnh Lâm Đồng.
Ngoài ra, ở Tây ngun cịn có các ngành cơng nghiệp chế biến khác như: 5 nhà máy đường,
tổng công suất 10.000 tấn sản phẩm/năm. 5 nhà máy chế biến tinh bột sắn, 2 nhà máy chế biến
bông vải…
●Nhận xét
-Hầu hết các nhà máy chế biến nơng sản đã có mặt ở mọi vùng của Tây Nguyên và xây dựng
được vùng nguyên liệu, tạo đà phát triển nông nghiệp chất lượng cao cho các tỉnh trong vùng.
9



-Công tác quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến nơng lâm sản cịn kém
-Tỷ trọng cơng nghiệp chế biến một số nơng lâm sản cịn thấp hơn so với nguyên liệu
-Việc đa dạng hóa và tận dụng nguyên liệu chế biến cịn ở trình độ thấp, sản phẩm chủ yếu là
sơ chế.
-Sử dụng nhiều thiết bị cũ , trình độ công nghiệp thấp so với khu vực và các nước khác trên thế
giới , nguồn nguyên liệu nhiều nhưng khơng đạt hiệu quả cao dẫn đến năng suất cịn thấp.
b. Các ngành phục vụ
●Ngành chăn nuôi, thuỷ sản
Ngành chăn ni: Phát huy thế mạnh của khu vực có lợi thế về điều kiện tự nhiên, đồng cỏ,
nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc phong phú, trong vài năm trở lại đây, nhất là từ năm
2001 đến nay, ngành chăn ni của các tỉnh Tây Ngun đã có những bước phát triển mới, nâng
dần tỷ trọng trong sản xuất nông nghiệp (tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp đã chiếm
10,7%, còn thấp nhiều so với cả nước). Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên đã có tổng đàn bò trên
747.900 con, tăng 21,21% so cùng kỳ này năm ngối và cao hơn so với tăng trưởng chung tồn
quốc là 17,5%, đàn trâu 79.025 con, tăng gần 10%, tổng đàn dê, cừu 116.100 con, tăng 81,8% so
cùng kỳ năm ngối. Các tỉnh Tây Ngun hiện cũng có tổng đàn lợn gần 1,4 triệu con, 7,8 triệu
con gia cầm và 272.194 đàn ong (chiếm 40,08% tổng đàn, và 64,5% sản lượng mật của cả nước) .
Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Chăn nuôi, chăn nuôi các tỉnh Tây Nguyên vẫn cịn nhiều
tồn tại như chăn ni nhỏ lẻ, phân tán, quảng canh chiếm tỷ lệ cao, năng suất chăn ni cịn thấp.
Các tỉnh Tây Ngun có sự chuyển biến tích cực về tổ chức sản xuất trong chăn ni (từ tự cung
tự cấp sang qui mô tập trung) và cơ cấu giống (chuyển đổi từ những giống địa phương, giống
truyền thống sang chăn nuôi bằng các giống mới ngoại nhập, giống lai cho năng suất, chất lượng
thịt cao.
Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển hàng ngàn trang trại chăn ni bị, trâu, lợn, dê
với qui mơ mỗi trang trại từ 100 con trở lên, trong đó, riêng bị có 919 trang trại. Tỉnh Đắc Lắc có
300 trang trại chăn ni bị và hàng ngàn gia trại chăn nuôi lợn, gà, vịt...Các tỉnh Tây Nguyên
trước đây hàng năm phải nhập lợn thịt, lợn giống...thế nhưng, trong vài năm trở lại đây không
những đảm bảo nhu cầu tiêu dùng cho người dân tại địa phương, mà mỗi năm, ngành chăn ni
các tỉnh trong khu vực cịn cung ứng cho thị trường các tỉnh duyên hải miền Trung, thành phố Hồ
Chí Minh hàng chục ngàn tấn thịt hơi. Riêng tỉnh Đắc Lắc, mỗi năm xuất bán cho các doanh

nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh từ 30.000 tấn thịt lợn, bị, trâu…
Ngành thuỷ sản: Diện tích ni trồng thủy sản ở vùng Tây Nguyên biến động thất thường
nhưng sản lượng cá ni tăng nhanh, đạt tốc độ bình qn 23% năm. Sản lượng nuôi cá ao chiếm
trên 70% sản lượng cá ni của vùng, năng suất bình qn ni cá ở ao 4,5 tấn/ha, cao hơn nhiều

10


vùng khác trong nước. Nghề nuôi cá ở hồ chua và hồ tự nhiên gặp nhiều khó khăn trong khâu quản
lý, bảo vệ cá nuôi và tiền vốn đầu tư cá giống.
●Ngành cơng nghiệp cơ khí
Ngành cơng nghiệp cơ khí đã chế tạo ra nhiều loại máy móc chuyên dùng ,phục vụ sản xuất
nông nghiệp từ khâu làm đất, tưới tiêu nước đến khâu thu hoạch và chế biến nông lâm phẩm Tây
nguyên là vùng có tỉ lệ sử dụng máy nông nghiệp cao nhất so với cả nước.
Các loại máy móc và cơng cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: máy kéo MTZ, các loại
chảo cày, lưỡi xới đất, máy phay đất, dàn cày từ 3 đến 7 chảo liên hợp với máy kéo 50 HP , máy
cày lắp động cơ diezen 12 sức ngựa, bơm nước ly tâm, cày lên luống, cày chăm sóc, bừa 37 chảo
cho các vùng chuyên canh cây công nghiệp, máy gặt đập liên hợp… Các loại máy và cơng cụ này
thích hợp với đồng đất và tập quán canh tác của Tây Nguyên.
Có nhiều loại máy phục vụ thu hoạch và sơ chế cà phê xuất khẩu như: máy phân loại cà phê
theo khối lượng riêng các loại hạt rời khác nhau (3 cỡ hạt), tổng phân loại cà phê theo 7 cỡ hạt,
máy xát vỏ cà phê tươi, máy xát khơ quả cà phê có cơng suất 1,4 tấn quả khơ/giờ, máy sấy quay
hạt cà phê, máy lau bóng hạt cà phê nhân cơng suất 1,2 tấn/giờ... Nhờ có thêm các loại máy này,
những người trồng và kinh doanh cà phê đã thu hoạch nhanh và sơ chế cà phê đảm bảo chất lượng
đạt chỉ tiêu xuất khẩu cao, tăng hiệu quả kinh tế.
Trong việc trồng và chế biến bông có các loại máy làm sạch bơng hạt bằng cách tách tạp chất,
làm tơi sơ bộ bơng cịn hạt, máy cán bông bằng đĩa răng cưa công suất 1,6 tấn bơng hạt ca, máy
cán kiểu trục da có cơng suất 0,4 tấn/ca, máy phân loại hạt bơng bằng khí động, máy ép dầu hạt
bơng.
Tây Ngun có cơng ty cơ khí A74 thuộc Tổng Công ty Máy và Thiết bị công nghiệp đã liên

tục duy trì và phát triển mạnh các sản phẩm cơ khí phục vụ nơng nghiệp, nơng thơn và xuất
khẩu.Đây là cơng ty cơ khí chiếm được thị phần lớn trong vùng Tây Ngun.
Ngồi ra ,cơng nghiệp cơ khí sản xuất phụ tùng thay thế và các mặt hàng kim khí tiêu dùng cho
nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng xa, vùng cao.
Các ngành phục vụ đã mang lại những kết quả nhất định góp phần thúc đẩy nền kinh tế của
các tỉnh Tây Nguyên, các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho người
lao động, tăng thu nhập cho xã hội, tăng tích luỹ ngân sách, giúp cho một bộ phận đồng bào các
dân tộc xố đói giảm nghèo.
II. Cơ cấu lãnh thổ:
1.

Sự phân bố của các ngành chun mơn hố ( Lan)
*Ngành trồng cây cơng nghiệp:
-Cây công nghiệp lâu năm:

11


+Cây cà phê: Cà phê được trồng tập trung chủ yếu ở cao nguyên Đắc Lắc chiếm 170 nghìn ha
trên tổng số 290 nghìn ha của cả vùng với mức sản lượng 264 nghìn tấn chiếm 72,5% sản lượng
của cả vùng năm 1999. Sở dĩ cà phê được trồng tập trung chủ yếu ở Đắc Lắc do đây là một cao
ngun bazan rộng lớn có nhiệt độ trung bình từ 20-300C.Ngồi ra ở đây cịn có hai mùa mưa và
mùa khô rõ rệt đây vốn là những điều kiện rất tốt để cho sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Vùng chuyên canh cây cà phê lớn thư hai của Tây Nguyên là Gia Lai-Kon Tum năm 1994 có 6218
ha.
+Cây cao su: Với đặc tính chỉ thích hợp ở những nơi có nhiệt độ từ 25-30 oC cần nhiều ánh
sáng, khả năng chịu gió mạnh kém, cao su được trồng chủ yếu ở phía tây nam tỉnh Gia Lai.Ngồi
ra Đắc Lắc cũng là một vùng chuyên canh cao su lớn. Hiện nay diện tích trồng cao su đã đạt 40000
ha và có xu hướng ngày càng tăng.
+Cây chè: Chè là cây có nguồn gốc ơn đới.Chè được trồng tập trung trên những cao nguyên

Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 1999, diện tích trồng chè ở Tây Nguyên đã đạt khoảng
8000 ha thì Lâm Đồng là 45000 chiếm 56,25%.Ngồi ra chè cũng được tập trung trồng ở cao
nguyên Gia Lai, Kon Tum.
- Cây công nghiệp hàng năm:
+Cây dâu tằm: Lâm Đồng là vùng chuyên canh cây dâu tằm lớn nhất cả nước.Diện tích trồng
dâu tằm ở đây chiếm tới 94% diện tích tồn khu vực với mức sản lượng chiếm 84%.
+Cây bông : hiện nay được trồng nhiều ở Đắc Lắc. Theo số liệu thống kê năm 2002, diện
tích trồng bông của tỉnh Đắc Lắc là 16600 ha chiếm 48% diện tích của cả nước.
+ Cây mía: Mía đang được đẩy mạnh trồng khắp Tây Nguyên nhưng nhiều nhất vẫn là ở Kon
Tum, Gia Lai. Đến năm 1999, diện tích trồng mía của cả vùng đạt 15000 ha và vẫn có xu hướng
tăng lên trong thời gian sắp tới.
*Khai thác và chế biến lâm sản:
Hiện nay ở Tây Nguyên có hàng chục lâm trường và có liên hiệp lớn nhất cả nước đó là liên
hiệp Kon-Hà-Nừng thuộc Gia Lai, liên hiệp Easup ở Đắc Lắc, Gia Nghĩa ở huyện Đăc Nông và tại
các thị xã.Các liên hiệp này không chỉ tiến hành khai thác mà còn trồng rừng và khoanh rừng.
*Khai thác thủy năng:
Tỉnh Lâm Đồng đã xây dựng được 45 nhà máy thủy điện cỡ vừa và nhỏ so với tổng số 239 nhà
máy thủy điện trên toàn quốc với tổng công suất là 288,2 MW chiếm 18,95%tổng cơng suất tồn
quốc. Tỉnh Đắc Lắc, theo đánh giá của cơ quan chun mơn tại đây có tới 101 vị trí có thể cho
phép xây dựng trạm thủy diện vừa và nhỏ. Đến cuối năm 2006 tại đây đã đưa và khai thác 20 trạm
thủy điện với tổng công suất là 15000 KW bằng 17% tổng công suất thủy điện nhỏ toàn quốc .
*Dịch vụ:

12


Đà Lạt là một điểm du lịch lớn với những phong cảnh đẹp thu hút nhiều khách đến thăm, hay
nhà máy thủy diện Yaly nơi có nhưng thác nước hùng vĩ cũng là nơi được rất nhiều khách thăm
quan.
2.Sự phân bố của ngành tổng hợp hoá ( Thảo)

a. Sự phân bố của các ngành bổ trợ
●Chế biến cây công nghiệp
Công nghiệp chế biến cây cà phê
Buôn Ma Thuột được coi là "thủ phủ cà phê" của Việt Nam do ở đây cây cà phê chiếm giữ
một vị trí độc tơn và cà phê đã góp phần đưa Bn Ma Thuột từ vị trí một thị xã tỉnh lẻ cao nguyên
trở thành một thành phố sầm uất.
Đắc Lắc cũng là tỉnh chế biến cà phê nổi tiếng. Năm 2007, cả nước xuất khẩu khoảng
900.000 tấn cà phê với kim ngạch đạt gần 1,5 tỷ USD, trong đó cà phê của Đắc Lắc chiếm hơn
50% sản lượng. Niên vụ 2006- 2007 vừa qua, sản lượng cà phê Đắc Lắc đã thu hoạch được
435.000 tấn cà phê nhân. 9 tháng đầu năm 2007, Đắc Lắc đã xuất khẩu đạt được giá trị kim ngạch
479 triệu USD. Ở Đắc Lắc, đã có 141 doanh nghiệp hoạt động trong ngành cà phê, trong đó cịn có
cả các đơn vị chế biến các loại cà phê rang xay, cà phê bột.Mặc dù, thiên nhiên ưu đãi về thổ
nhưỡng nhưng thực tế hoạt động sản xuất cà phê còn phụ thuộc vào các yếu tố thiên nhiên khác.
Vì vậy, Đắc Lắc đã quy họach tổng thể ngành cà phê của địa phương theo hướng không mở rộng
diện tích trồng trọt chỉ tập trung vào nâng cao năng suất, tăng sản lượng, đẩy mạnh hoạt động xúc
tiến thương mại. Đến nay, tồn tỉnh đã có 133 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký đầu tư
là 17.700 tỷ đồng, trong đó 51 dự án có vốn đầu tư FDI và vốn đầu tư ngoài tỉnh.
Đắc Nông dự kiến sản lượng thu hoạch trong niên vụ 2007-2008 này đạt khoảng 120.000
tấn cà phê nhân hiện toàn tỉnh chỉ mới có 7 doanh nghiệp chế biến cà phê, gồm 3 doanh nghiệp
chế biến theo công nghệ khô, chủ yếu mua cà phê xô về tái chế để xuất khẩu; 4 doanh nghiệp chế
biến theo công nghệ ướt với công suất nhỏ từ 2 -14 tấn quả tươi/giờ.
Gia Lai dành 15 nghìn ha đất bazan để trồng cà phê tập trung và xây dựng dự án gọi vốn
đầu tư trồng mới 10 nghìn ha cà phê ở 2 huyện Chưpanh và Chưsê, đồng thời xây dựng cơ sở chế
biến cà phê 5000 tấn/năm.
Lâm Đồng hiện là tỉnh có diện tích cà phê đứng thứ hai trong cả nước (sau Đắc Lắc) nhưng
là tỉnh đứng thứ nhất về sản lượng cà phê nhân.Bên cạnh đó, đối với Lâm Đồng thì cà phê lại là
cây cơng nghiệp được xếp vào vị trí thứ hai sau cây chè. Bởi vậy, việc đưa ra một chiến lược đúng
cho cây cà phê theo hướng phát triển bền vững đối với tỉnh Lâm Đồng là một việc làm cần kíp
trong tình hình hiện nay và cả những năm tiếp theo. Cùng với việc cải tạo giống thì tỉnh cũng đã
và đang đổi mới phương pháp chế biến khô sang chế biến ướt để nâng cao chất lượng sản phẩm,

tăng năng lực và đổi mới công nghệ chế biến, tăng sản phẩm cà phê chế biến lưu thông trên thị
13


trường… Lâm Đồng nằm trong vùng cà phê trọng điểm Tây Nguyên với sản lượng 275.000 tấn cà
phê nhân/năm trong đó sản lượng được chế biến theo cơng nghệ ướt đạt hơn 50% và chế biến
thành cà phê bột được gần 600 tấn.Các nhà máy, cơ sở xát ướt, sấy khơ, tách hạt, đánh bóng hạt cà
phê... đang hướng đến việc xây dựng thương hiệu cho vùng chuyên canh cây cà phê ở huyện Đắc
Hà.
Công nghiệp chế biến cao su
Gia Lai có dự án gọi vốn trồng mới 50 nghìn ha tại huyện Chưpanh, huyện Chưprông và
huyện Mangyang, đồng thời xây dựng cơ sở chế biến cơng suất 14 nghìn tấn/năm. Kon Tum có dự
án trồng mới 37 nghìn ha và xây dựng cơ sở chế biến công suất 10 nghìn tấn/năm.Đắc Lắc trồng
mới 27 nghìn ha và Đắc Nơng trồng mới 22 nghìn ha.
Trong các địa phương thì Đắc Lắc là tỉnh có diện tích trồng mới tương đối lớn và hiện nay
là tỉnh đứng đầu của Tây Nguyên về tổng diện tích cây cao su.Những năm vừa qua, Đắc Lắc đã có
phong trào mở rộng diện tích trồng cây cao su do đó cao su Đắc Lắc là sản phẩm xuất khẩu đứng
thứ hai chỉ sau cà phê. Năm 2006 tỉnh có 32 nghìn ha cao su tăng 24,5% so với năm 2000 (25,703
nghìn ha) và sản lượng khoảng 26 nghìn tấn tăng 30% so với năm 2005.
Cơng nghiệp chế biến chè
Qua hơn 70 năm phát triển, chè Lâm Đồng đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá và xuất
khẩu quan trọng.Lâm Đồng có 3 dự án trồng mới 4-6 nghìn ha và xây dựng ba nhà máy chế biến
có tổng cơng suất 80 tấn chè búp tươi/ngày tại hai huyện Bảo Lộc và Lâm Hà. Lâm Đồng chiếm
21% diện tích trồng chè cả nước, chiếm 27% về sản lượng và có năng suất cao hơn hẳn so với
năng suất trung bình tồn quốc.Hiện nay diện tích chè cả tỉnh lâm đồng có 25.455 ha, sản lượng
chè búp tươi 157.165 tấn trong đó qua chế biến cơng nghiệp 135.000 tấn và đạt sản lượng 30.000
tấn chè khô.Các sản phẩm chè chủ yếu hiện nay là chè xanh, chè đen, chè Ơlong. Lâm Đồng thích
hợp với nhiều giống chè quý, chất lượng cao của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…Chè của Lâm
Đồng đã đến với nhiều quốc gia trên thế giới, chủ yếu tại các khu vực: Trung Đông, Đơng Âu và
Châu Á-Thái Bình Dương. Hiện Lâm Đồng có trên 2.000ha chè chất lượng cao do các doanh

nghiệp trong và ngoài nước (chủ yếu là Đài Loan) đầu tư sản xuất bằng các giống chè của Trung
Quốc đại lục, Đài Loan để chế biến xuất khẩu đạt giá trị sản xuất 200-250 triệu đồng/ha/năm, tăng
gần 10 lần so với các giống chè truyền thống. Tuy nhiên, do công nghiệp chế biến chưa phát triển
và thị trường xuất khẩu chưa mở rộng nên hàng năm chỉ mới có khoảng 17% sản lượng chè Tây
Nguyên được xuất khẩu.
Công nghiệp chế biến dâu tằm
Công nghiệp sản xuất các sản phẩm tơ lụa lâu nay đã được chú ý đầu tư nhưng khả năng
cịn hạn chế.Do đó, để khai thác thế mạnh về trồng dâu ở Tây Nguyên, Nhà nước đã thành lập

14


Liên hiệp xí nghiệp dâu tằm tơ Việt Nam có trụ sở tại Bảo Lộc (Lâm Đồng) nhằm phát triển cây
dâu và xây dựng các cơ sở ươm tơ hiện đại.
Cơng nghiệp chế biến điều
Lâm Đồng có nhà máy chế biến điều với cơng suất đạt 6.000 tấn/năm. Cịn tại Đắc Lắc có
2 cơ sở chế biến nhân hạt điều với công suất 4.000 tấn/năm, các nhà máy đáp ứng được nhu cầu
tiêu thụ và chế biến hạt điều cho nông dân. Tổng sản lượng hạt nhân điều xuất khẩu khoảng 953,3
tấn (chỉ xấp xỉ 10% sản lượng điều hiện có).
●Cơng nghiệp chế biến lâm sản
Giá trị rừng tự nhiên của Tây Nguyên đạt tới trên 2791,36 tỷ đồng chiếm gần 26,9% tổng
giá trị rừng tự nhiên của cả nước trong đó, Gia Lai là 721,35 tỷ đồng chiếm 7,6%; Kon Tum
556,05 tỷ đồng chiếm 6,2%; Đắc Lắc- Đắc Nông 912,6 tỷ đồng chiếm 10% cuối cùng là Lâm
Đồng 426,9 tỷ đồng chiếm 4,4%. Trữ lượng gỗ rừng Tây Nguyên là 289319,6 nghìn m³, chiếm
trên 44% trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của cả nước trong đó, Đắc Lắc-Đắc Nơng 98046,7 nghìn m³;
Gia Lai 81653,9 nghìn m³; Kon Tum 59192,6 nghìn m³. Tuy nhiên, do sự suy giảm tài nguyên
rừng nên sản lượng khai thác không ngừng giảm, từ 600 – 700 nghìn m³ vào cuối thập kỉ 80-đầu
thập kỉ 90, nay chỉ cịn khoảng 200 - 300 nghìn m³/năm
●Cơ khí, hố chất, năng lượng, thuỷ lợi.
Các thiết bị dùng trong ngành chế biến hầu hết đều được nhập từ nước ngồi về.Các cơ sở

cơ khí sửa chữa phương tiện vận tải trước đây có ở cả 4 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm
Đồng và trong đó cơ sở ở Pleycu tương đối hồn chỉnh với cơng suất sửa chữa 300 xe tiêu
chuẩn/năm, các cơ sở khác công suất từ 100-150 xe/năm. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các
doanh nghiệp vận tải thực hiện cơ chế khoán phương tiện cho lái xe, việc sửa chữa tập trung, kéo
dài thời gian xe nằm theo kiểu cũ không được thị trường chấp nhận.Các cơ sở sửa chữa quốc
doanh ở khu vực này cũng như các địa phương khác bị suy sụp và có nguy cơ bị giải thể. Trong
điều kiện ấy các doanh nghiệp đã phải bươn chải đa dạng hóa sản phẩm phục vụ kinh tế địa
phương, nên tính chất của doanh nghiệp cũng thay đổi chuyển từ sửa chữa sang các hoạt động dịch
vụ tổng hợp.
Về hoá chất dùng trong trồng cây công nghiệp, bà con chủ yếu dùng các loại phân hoá học,
các loại phân này được nhập từ các vùng lân cận về.Chỉ có duy nhất nhà máy chế biến cà phê Thái
Hoà- Lâm Đồng có sản xuất phân vi sinh từ vỏ quả cà phê.
Về năng lượng và thuỷ lợi phục vụ cho tưới tiêu: Tây Nguyên có tiềm năng thuỷ điện rất
lớn cho nên việc cung cấp nước cũng như năng lượng điện cần cho ngành trồng trọt chế biến là
khá dồi dào. Đây cũng là một trong những tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển công
nghiệp chế biến nói riêng và phát triển kinh tế nói chung ở Tây Nguyên.
b. Sự phân bố của các ngành phục vụ
15


●Chế biến lương thực
Diện tích đất lúa tập trung ở tỉnh Gia Lai với 64,4 nghìn ha với 23,4 nghìn ha lúa nương.
Tiếp đến là Đắc Lắc- Đắc Nông 37,8 nghìn ha với 12,7 nghìn ha lúa nương. Lâm Đồng 29,6 nghìn
ha trong đó 4,8 nghìn ha lúa nương và Kon Tum 23,3 nghìn ha trong đó 9,6 nghìn ha lúa
nương.Sản xuất lương thực ở Tây Nguyên những năm vừa qua đã có bước phát triển tiến bộ phần
phần trực tiếp ổn định đời sống đồng bào các dân tộc. Trong 5 năm 1991-1995 sản lượng lương
thực đạt bình quân 638 ngàn tấn, tăng 56 ngàn tấn so với 1990. Riêng năm 1995 sản lượng lương
thực đạt 667 ngàn tấn, gấp 2 lần năm 1976, trong tình hình dân số tăng rất nhanh từ gần 1,23 triệu
người (1976) lên 3,1 triệu người (1995), tăng gấp 2,5 lần so với năm 1976, mặc dù vậy vấn đề
lương thực đã được giải quyết ngày càng chứng tỏ khả năng tự sản xuất đủ lương thực để cung

ứng cho nhu cầu tại chỗ, nhất là các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum...Tiếp tục đầu tư vùng lúa
cao sản có triển vùng: Lăk, Ea Soup, buôn Trấp (Đắk Lắk), Ayun hạ, Eamơ (Gia Lai), Đức Trọng,
Đa Tẻ (Lâm Đồng) để vùng có thể đạt sản lượng thóc 60-62 vạn tấn (năm 2000) và đặt mục tiêu
trên 80 vạn tấn (năm 2010).
Ngoài việc phát triển cây lương thực Tây Nguyên cũng đang ngày càng chú trọng tới việc
phát triển cây hoa màu.Có thể kể đến Đắc Lắc với chương trình phát triển cây ngơ lai đúng hướng
vì thế đã gieo trồng được 102.000 ha, đưa sản lượng lương thực cả tỉnh lên trên 800.000 tấn.Gia
Lai cũng có những bước tiến đáng kể với sản lượng ngơ lai là 55 nghìn ha.
Nói chung, ngành chế biến lương thực ở Tây Nguyên vẫn còn ở dạng tiềm năng chưa phát huy
được thế mạnh do đó việc xây dựng các cơ sở chế biến màu lương thực ở đây là vô cùng quan
trọng.
●Ngành chăn nuôi, thuỷ sản.
Ngành chăn ni: Tỉnh Đắc Lắc có nhiều thế mạnh về phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn
nuôi đại gia súc.
Số lượng gia súc qua các năm

Năm
1990
1995
1996
1997
1998
1999
2000

Đầu con (1000 con)

105,3
113,2
115.6

116,0
116,0
117,4
119,5

Heo
227,4
315,2
344,9
357,8
382,0
442,4
464,0
16


2001

87,7

507,7

Đắc Lắc đã chuyển dịch mạnh vào ngành chăn nuôi, đưa đàn bò lên tới 145.000 con, đàn trâu
trên 20.000 con. Trung bình mỗi năm tỉnh xuất bán cho các doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
30.000 tấn thịt lợn, bò, trâu, dê hơi. Trong 9 tháng đầu năm 2006 đã xuất bán ra khỏi tỉnh trên
154.000 con heo với trọng lượng bình quân gần 90kg/con
Hướng phát triển đàn gia súc và sản phẩm thịt

Gia súc
- Trâu

- Bị
Trong đó lai
- Heo
Trong đó lai
- Thịt hơi
Thịt heo

Đơn vị
1000 con
1000 con
1000 con
1000 con
1000 con
1000 tấn
1000 tấn

2005
25,2
130,0
33,5
600,0
401,0
39,5
31,7

2010
27.0
150,0
52,5
700,0

510,0
45,5
35,5

TBQ (%)
2001 - 2005

2006 - 2010

1.70

2.90

5.28

6.96

Với lợi thế về khí hậu, Lâm Đồng có tiềm năng để phát triển chăn ni bị sữa. Phấn đấu
đến cuối năm 2010 tồn tỉnh có 6.000 bị sữa, với sản lượng sữa tươi khoảng 12.420 tấn, tạo vùng
nguyên liệu sữa hàng hoá cho các nhà máy chế biến.
Ngành thuỷ sản: Nghề ni cá lồng ở sơng và hồ có xu hướng phát triển nhanh, các cơ sở
sản xuất cá giống phân bố không đều phần lớn tập trung ở tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt nghề nuôi cá
lồng đang được chú trọng. Hướng chính là phát triển số lượng lồng trên sơng Ba và hồ Ayun hạ ở
tỉnh Gia Lai và trên sông Sê san và hồ Yaly ở tỉnh Kontum. ở Đắk Lắk sẽ phát triển lồng ở một số
hồ chứa lớn sẽ xây dựng, dự kiến số lượng lồng năm 2000 là 6500 lồng và đến năm 2005 dự kiến
đạt 9000 lồng và giữ mức ổn định đến năm 2010.
●Ngành chế biến khống sản và vật liệu xây dựng.
Bơxit: Đi đầu trong lĩnh vực khai thác, chế biến bơ-xít phải nói đến Đắc Nơng.Toàn tỉnh
Đắc Nơng có 7 mỏ bơ-xít lớn được phân bổ trên diện tích gần 2.000 km2, chiếm gần 1/3 diện tích
của Đắc Nơng, với trữ lượng hơn 5,4 tỷ tấn lớn thứ 4 trên thế giới. Đắc Nơng dự kiến hình thành

bốn tổ hợp cơng nghiệp bô-xít/nhôm với tổng công suất lên tới 44 - 68 triệu tấn bô-xít thô/năm.
Như vậy, trong những năm tới, Đắc Nông sẽ trở thành một “đại công trường” của ngành cơng
nghiệp bơ-xít với diện tích khai thác quặng lên đến hàng trăm km2 dải khắp địa bàn 5/8 huyện. Trữ
lượng tài nguyên, khoáng sản là một tiềm năng nổi trội của mảnh đất này, đặc biệt là quặng bơxít
được đánh giá là có trữ lượng lớn nhất Đơng Nam Á.Một lợi thế khác là vị trí địa lý rất thuận lợi.
Đắc Nông nằm tiếp giáp với các trung tâm kinh tế lớn, có 3 tuyến quốc lộ đi qua, nối liền với
17


thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía tây của
Đắc Nơng tiếp giáp với Campuchia, do đó càng tạo điều kiện cho việc vận chuyển tới các vùng
trong nước cũng như quốc tế.
Ngành vật liệu xây dựng phát triển chủ yếu là ở Lâm Đồng.Theo số liệu điều tra, cao lanh
ở Lâm Đồng có trữ lượng khoảng 520 triệu tấn, chất lượng tốt. Loại cao lanh này có khả năng sử
dụng làm sứ điện tử, sứ bền nhiệt cơ, sứ dân dụng cao cấp, gạch samot chịu lửa, sản xuất sunfat
alumin,…sét bentonite có trữ lượng trên 4 triệu tấn, chất lượng tốt, sau khi được hoạt hoá với soda
để chuyển sang bentonit kiềm có thể sử dụng trong kỹ nghệ làm khuôn đúc, chất tẩy rửa trong
công nghiệp dầu mỡ, công nghiệp thực phẩm, chất phụ gia trong sản xuất phân bón tổng hợp, sản
xuất dung dịch bùn khoan dầu khí và khoan cọc nhồi theo tiêu chuẩn của Mỹ và châu Âu. Than
nâu và diamite được phát hiện tại nhiều điểm, nhưng mỏ Đại Lào (Bảo Lộc) là có khả năng khai
thác công nghiệp với trữ lượng 8,5 triệu m3, có thể sử dụng làm chất đốt, chất cách nhiệt, phụ gia
trong sản xuất phân bón hoặc phụ gia sản xuất xi măng. Tính đến cuối năm 2005 đã có trên 35 dự
án được đầu tư, đầu tư mở rộng qui mơ trung bình trở lên của các doanh nghiệp được đưa vào hoạt
động. Nhiều cơ sở chế biến khống sản mới, đầu tư cơng nghệ kỹ thuật đồng bộ được hình thành
trong giai đoạn vừa qua như: Nhà máy chế biến Cao lanh Hiệp Tiến; Nhà máy chế biến Cao lanh
Trại Mát; Xưởng xây dựng ống sứ chịu nhiệt xuất khẩu tại Đức Trọng, nhà máy chế biến
Bentonite Hiệp Phú, nhà máy chế biến Diatomite,... Ngành sản xuất vật liệu xây dựng đã phát triển
thêm các nhà máy sản xuất gạch Tuynen ở Thạnh Mỹ, nhà máy gạch ngói Lâm Viên và nhiều dây
chuyền máy móc thiết bị sản xuất đá xây dựng. Ngành vật liệu xây dựng có khả năng sẽ ứng dụng
cơng nghệ gạch tuy-nen lị đứng cho các vùng sâu, vùng xa để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và vốn đầu

tư không lớn.
●Một số ngành khác.
Ngành may mặc phát triển nhanh nhất ở Lâm Đồng do ở đây có diện tích trồng dâu ni
tằm, trồng bông khá lớn. Đến cuối năm 2005 vốn đầu tư trong lĩnh vực dệt may đã đạt hơn 231 tỷ
đồng.
Mía đường: Cơng nghiệp chế biến đường nhanh chóng tập trung đầu tư hoàn thành các
nhà máy đường hiện đang xây dựng ở Đắk Lắk: 2 nhà máy (Ia lop 500 tấn mía cây/ngày, Bn Ma
Thuột 1000 tấn mía cây ngày), Gia Lai: 1 nhà máy Ayunpa 1000 tấn mía cây/ngày, Kon Tum: 1
nhà máy 1000 tấn mía cây/ngày hiện được nâng lên 1.500 tấn/ngày để phục vụ cho vùng nguyên
liệu 4.500-5.000 ha theo quy hoạch. Cùng với việc hoàn thiện các nhà máy này cần tìm đối tác liên
doanh đầu tư xây dựng các vùng mía tập trung thâm canh, có năng suất cao, xây dựng nhà máy có
quy mô lớn, hiện đại với công suất lớn: 8000 tấn mía cây/ngày có khả năng mở rộng 16.000 tấn
mía cây/ngày và cao hơn nữa trong tương lai, kết hợp sản xuất đường mía, sản xuất thức ăn gia
súc, phân vi sinh, sản xuất cồn, nước giải khát, rượu, bánh kẹo và phát điện để nâng cao hiệu quả
18


sản xuất của ngành mía đường, đảm bảo cạnh tranh được với các nước cùng sản xuất đường trong
khu vực và thế giới.
Ngành trồng và chế biến thuốc lá: Gia Lai với 3-5 nghìn ha và xây dựng nhà máy chế
biến công suất 40 triệu bao/năm. Lâm Đồng với 3 nghìn ha và xây dựng nhà máy 15-20 triệu
bao/năm. Ngành trồng và chế biến sắn xuất khẩu: Gia Lai với 6 nghìn ha sắn tại huyện An Khê và
xây dựng nhà máy chế biến công suất 12.500 tấn/năm. Đắc Lắc với dự án trồng 3 nghìn ha sắn và
xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn 15 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó là các dự án trồng và chế
biến bạch đàn ở huyện An Khê-Gia Lai; xây dựng vùng nguyên liệu giấy ở Kon Tum 10 nghìn ha,
Lâm Đồng 15 nghìn ha. Trồng quế, mía ở Kon Tum; trồng cacao ở Đắc Lắc Đặc biệt, bước đầu
xuất hiện thêm một cơ sở chế biến sản phẩm mới là bột dong riềng ở huyện Tu Mơ Rơng- Kom
Tum.
3.Nhận xét.
Nhìn chung, nền kinh tế Tây Nguyên đã và đang có những bước tiến triển từng ngày.

Trong năm 2006 vùng có những bước tăng trưởng đáng kể đi đầu là Lâm Đồng với 2.970 tỷ đồng,
tăng 26% so với năm 2005, Gia Lai, Đắc Lắc đều đạt trên 1.700 tỷ đồng, tăng hơn 25% so với
năm 2005 và của Đắc Nông là 15,32%. Nhờ phát triển cây công nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa, năm 2007 các tỉnh Tây Nguyên xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD, thu ngân sách tăng
nhanh. Các tỉnh Đắk Lăk, Lâm Đồng và Gia Lai đã thu ngân sách vượt ngưỡng 1.000 tỉ đồng. Một
trong những lí do chính để Tây Ngun có đựoc những bước nhảy vọt như thế là nhờ có sự tiến bộ
trong việc phân bố các ngành nghề. Các ngành chuyên mơn hố được bố trí dựa vào lợi thế tuyệt
đối và tương đối của vùng còn những ngành bổ trợ thì được phân bố gần với các ngành chun
mơn hố để phục vụ cho ngành chun mơn hố tạo điều kiện cho việc sản xuất cũng như vận
chuyển sản phẩm ví dụ như ngành cà phê, chè... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế do một số
ngành cần thiết vẫn chưa được phát triển đúng mức. Đó là ngành lương thực hay ngành cơ khí,
hố chất....Hầu như sản phẩm của hai ngành này đều phải nhập khẩu, điều này dẫn đến sự phụ
thuộc của vùng với thị trường bên ngoài. Do đó khi có biến động sẽ bị tác động nhiều hơn.Ngồi
ra, vùng vẫn cịn tồn tại nhiều khó khăn trong công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch vùng cây
nguyên liệu chưa được triển khai kịp thời, còn chắp vá. Một số loại cây cơng nghiệp cịn phụ thuộc
q nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhất là khi gặp hạn hán nghiêm trọng, kéo dài, gây tổn thất lớn
cho người trồng cây cơng nghiệp. Kéo theo đó cơ sở công nghiệp chế biến cũng thiếu nguyên liệu
cho sản xuất. Đáng chú ý là, giá một số loại nông sản chủ yếu chịu sự tác động của giá thế giới,
gây biến động lớn, nhất là cà phê, cao su... làm thiệt hại cho người sản xuất.
C.
I.

Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng kinh tế ( Thuỷ)
1.Hệ thống giao thông vận tải
19


Giao thông vận tải được coi là huyết mạch trong sự phát triển kinh tế, xã hội và đặc biệt quan
trọng đối với phát triển kinh tế. Đặc trưng của Tây Ngun là địa hình núi cao, có tầng phong hố

trên dãy địa hình lượn sóng nhẹ tạo thành các cao ngun nên việc xây dựng các cơng trình giao
thơng ở đây cịn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Tây Ngun lại là vùng nằm trong mạng lưới giao
thông chung của cả nước, thậm chí nằm trong lưới giao thơng với Lào và Campuchia. Hệ thống
giao thông chủ yếu là đường bộ và đường hàng không.
a.Hệ thống giao thông đường bộ
Các tuyến đường bộ qua Tây Nguyên sang Lào và Campuchia chủ yếu sử dụng cho việc vận
chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân. Chiều dài đường quốc lộ qua Tây Ngun ước tính
khoảng 1519.7 km. Tuy nhiên tình trạng mặt đường vẫn chưa đạt chất lượng thực sự tốt. Các đoạn
đường láng nhựa chỉ chiếm có 55,8% (vào khoảng 848 km), đường đá dăm chiếm khoảng 1,26%
(khoảng 19,2 km), đường cấp phối chiếm 22,45% (khoảng 341,2 km) và các đoạn đường đấy với
chiều dài 311,6 km chiếm khoảng 20,49%. Có thể thấy các đoạn đường đấy cịn chiếm khá nhiều
do đó có thể gây nhiều khó khăn cho giao thơng vào mùa mưa. Liên quan đến việc thốt nước cho
mùa mưa là hệ thống giao thông đường ống tại Tây Nguyên mà ở đây là hệ thống đường ống.
Cống trên các tuyến quốc lộ ở Tây Nguyên có 1.185 chiếc với chiều dài 18.045 m, trong đó ống
vĩnh cửu 907 chiếc, dài 14.372m, còn lại là cống tạm khoảng 305 chiếc với chiều dài 3.674m.
Ngoài ra vùng Tây Ngun cịn có khoảng 20 đoạn cống ngầm và tràn trên quốc lộ với tổng chiều
dài khoảng 121m.
Trong nội vùng Tây Nguyên, chiều dài tỉnh lộ của vùng là 1.782,35km, trong đó Kon Tum có
3 đường với chiều dài 176km, Gia Lai có 12 đường với chiều dài 583km, Đắk Lắk có 10 tuyến
đường với chiều dài 633km, Lâm Đồng có tổng chiều dài các tuyến đường ước tình là 390km.
Chất lượng các tuyến đường trong nội vùng Tây Nguyên chưa tốt, vẫn còn đến 904,5km là đường
đất chiếm 50,65% trong khi đó đường rải nhựa chỉ có 232,92km chiếm 13,1%. Có thể thấy hệ
thống đường bộ tại các tỉnh Tây Ngun cịn nhiều hạn chế, khó khăn, chủ yếu vẫn là những tuyến
đường đất, chưa có sự đầu tư xây dựng cho hệ thống giao thông. Với hệ thống giao thơng như vậy
có thể gây ra tình trạng “ tắc nghẽn” (không di chuyển được) khi mùa mưa đến, ảnh hưởng đến đi
lại và trao đổi giữa các tỉnh trong vùng.
Hệ thống giao thơng đường bộ cịn yếu kém hơn ở các huyện, xã, thông. Phần lớn các con
đường ỏ huyện, xã, thôn là đường đất. Ở ngay tại trung tâm huyện cũng chỉ có 2-3km đường dải
nhựa, cịn đường đất chiếm đến 85%. Đường xã hoàn toàn là đường đất nối thôn xã bản làng phục
vụ cho giao thơng nơng thơn nhưng cũng chỉ có 80% đường xã được thơng suốt trong bốn mùa.

Có thể thấy việc đi lại của người dân gặp rất nhiều khó khăn, điều đó cũng sẽ tạo ra những hạn chế
nhất định trong trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng hay giữa vùng và các vùng khác. Mật
độ tỷ lệ đường bộ so với số dân là 3km/1000 dân trong khi cả nước là 0,78km/1000dân đã thể hiện
20


nhu cầu đường bộ tại vùng rất cao, là hệ thống giao thơng chủ yếu nên cần có sự đầu tư, nâng cấp
hệ thống đường bộ. Từ đó nâng cao khả năng hoà nhập của vùng với các vùng khác.
b.Hệ thống sân bay tại Tây Nguyên
Ba sân bay hiện đã được khai thác là sân bay Pleyku (Gia Lai) thuộc loại sân bay cấp 4 và trực
thuộc cụm cảng miền Trung với diện tích nhà ga 350m2 và có một đường băng dài 1828m với
năng lực khoảng 0,5 triệu hành khách/ năm. Tuy nhiên lượng khách sử dụng sân bay này ít do đó
chỉ có các chuyến bay đi Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ở Đắk Lắk có sân bay Bn Ma
Thuột thuộc loại sân bay cấp 3 trực thuộc cụm cảng hàng khơng phía Nam, diện tích nhà ga
1150m2 và có một đường băng dài khoảng 1800m. Sân bay này có nhiều chuyến bay hơn và đến
nhiều thành phố trong nước hơn so với sân bay Pleyku. Nhưng chủ yếu vẫn sử dụng các loại máy
bay cỡ nhỏ khoảng 50-60 hành khách /chuyến. Cuối cùng là sân bay Liên Khương (Lâm Đồng)
thuộc loại sân bay cấp 3. Sân bay này chỉ đón các máy bay loại nhỏ, từ sân bay có các chuyến bay
đi thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Nhu cầu của ba sân bay này sẽ dần dần được nâng lên do
đòi hỏi về cơ sở hạ tầng phải phù hợp với sự phát triển chung.
c.Giao thông đường thuỷ
Do đặc trưng địa hình chủ yếu là đồi núi, cao nguyên, khu vực Tây Ngun khơng có nhiều
thuận lợi trong việc khai thác giao thơng đường thuỷ. Hay chính xác hơn là thực tế giao thông
đường thuỷ chưa được khai thác tại đây. Mặt khác hệ thống sông tại đây cũng không thuận lợi như
hệ thống sơng núi phía Bắc để có thể khai thác tiềm năng về giao thông. Các sông suối hầu hết đều
có độ dốc lớn, nước chảy xiết về mùa mưa và khơ kiệt về mùa khơ nên khó có thể phục vụ cho
giao thơng. Diện tích các hồ tại khu vực gần 130km2, có những hồ lớn như hồ Đa Him (3700ha)
nhưng vẫn chưa có nhu cầu vận tải đường thuỷ vì tại các hồ này dân cư thưa, hàng hố chưa có gì.
Do vậy, việc phát triển hệ thống giao thơng đường thuỷ có thể coi là một vấn đề không quá quan
trọng và chưa nằm trong chiến lược phát triển giao thông cho vùng.

d.Vận tải
Do cơ chế thị trường ngày càng mở rộng nên khối lượng vận tải của khu vực Tây Nguyên tăng
lên một cách nhanh chóng. Vận chuyển hàng hố tăng từ 70-90% về khối lượng, cịn hành khách
thì tăng đến 90%. Hình thức vận tải chủ yếu tại Tây Nguyên vẫn là đường bộ. Các phương tiện
vận tải chủ yếu là xe tải để vận chuyển hàng hoá và vận tải hành khách. Theo số liệu thống kê các
sở GTVT tổng số xe tải là 6.215 xe tải, trong đó tỷ lệ xe có trọng tải từ 4-8 tấn chiếm gần 30%, xe
có trọng tải 2 tấn khoảng 35%, còn lại là xe tải trên 8 tấn. Tỷ lệ các phương tiện vận tải tăng
nhanh, đây là một tín hiệu đáng mừng cho khả năng hoà nhập của vùng với các vùng khác, tăng
cường khả năng trao đổi và phát triển của vùng.
Trên cơ sở một số hoạt động giao thông chủ yếu của Tây Ngun có thể thấy rằng cơng nghiệp
giao thơng vận tải tại Tây Nguyên vẫn còn nhiều yếu kém so với các vùng khác trong cả nước.
21


Giao thông đường bộ là chủ yếu, là xương sống của kinh tế vùng nhưng hạ tầng kém. Các tuyến
đường chưa có quy hoạch và xây dựng cẩn thận, điều này cũng do hạn chế của công ty xây dựng
tại Tây Nguyên. Mặt khác, cũng do còn thiếu đầu tư và kỹ thuật xây dựng. Đến 80% các tuyến
đường tại xã, thơn là đường đất, đường tỉnh thì có khả quan hơn thì cũng chỉ có 7% đường được
dải nhựa. Điều này gây nên những bất lợi cho vận tải giao thông liên vùng cũng như khả năng
cạnh tranh về vận tải trong vùng, do nhiều tuyến đường có khả năng bị gián đoạn trong mùa mưa.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải cũng như công nghiệp giao thông vận tải cũ nát, lạc hậu, chưa
đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa đất nước trong bước chuyển hướng kinh tế
mở. Do đó, để thích ứng với nền kinh tế ngày càng phát triển, đẩy nhanh được phân cơng lao động
theo ngành, theo lãnh thổ thì trước hết cần chú trọng đầu tư cho hệ thống giao thơng vận tải.
2.Hệ thống thơng tin bưu chính viễn thơng
a.Bưu chính
Trong những năm qua, dịch vụ bưu chính, phát hành báo chí ở Tây Nguyên mới chỉ đảm nhận
việc đưa thư, báo, bưu kiện đến từng khách hàng. Ngành cũng đã trang bị nhiều phương tiện vận
tải, chủ yếu vẫn là ôtô để đáp ứng cho nhu cầu thông tin báo chí của vùng. Bên cạnh những hoạt
động truyền thống của ngành bưu chính như chuyển phát thư, bưu kiện…hiện nay cũng đã có

thêm những hình thức mới như điện hoa, chuyển phát nhanh. Tuy nhiên những hoạt động này
chưa đạt được hiệu quả như các vùng khác, dịch vụ vẫn cịn khá chậm, chưa có nhiều hình thức đa
dạng để đáp ứng được nhu cầu xã hội. Mặt khác, mạng bưu cục phát triển còn thiếu đồng bộ, một
số bưu cục được xây mới nhưng trang thiết bị và phương thức kinh doanh, phục vụ chưa tương
xứng nên hiệu quả vẫn còn thấp. Hầu hết lao động khai thác bưu chính bằng thủ cơng, năng suất
thấp, dịch vụ chưa phong phú.
Gần đây, các bưu cục tại các huyện cũng đã có nhiều thay đổi trong phương thức hoạt động,
mở thêm nhiều dịch vụ mới như chi trả nhanh các yêu cầu chuyển tiền, Facximile. Các bưu cục
loại I (bưu cục trung tâm tỉnh) và 2/3 các bưu cục loại II (bưu cục huyện) đã đưa máy vi tính vào
sử dụng trong công tác giao dịch cũng như quản lý. Đây là một bước chuyển lớn đánh dấu một sự
phát triển mới cho hoạt động bưu chính tại Tây Ngun. Ví dụ điển hình là Đắk Lắk trong năm
2007 vừa qua đã có thêm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính. Tính đến nay đã
có 3 doanh nghiêp là Bưu điện tỉnh, Viettel và SPT. Mạng lưới bưu cục tồn tỉnh có 2 bưu cục
Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột ( Bưu điện tỉnh và Viettel), 12 bưu cục huyện thuộc Bưu
điện huyện, 18 bưu cục khu vực, 139 điểm Bưu điện văn hóa xã, 246 điểm Đại lý Bưu điện. Số
thùng thư công cộng là 385 thùng. Bình quân 01 bưu cục phục vụ 4.216 người, bán kính phục vụ
bình qn 3,2km/ điểm. Báo chí phát hành năm 2007: tổng số tờ báo phát hành: 32.435.000 tờ, số
xã có báo đọc trong ngày 145/149 xã (đến nay 150/154). Số xã có bưu điện văn hóa xã/tổng số xã:
139/149 xã (đến nay 139/154). Những con số trên đã cho thấy nỗ lực lớn của tỉnh trong phát triển
22


bưu chính, đã tạo được những hạ tầng thiết yếu khá đầy đủ phục vụ cho việc tiếp cận thông tin của
nhân dân.
b.Viễn thơng
Cùng với những thay đổi về hình thức bưu chính thì thơng tin liên lạc tại Tây Ngun cũng có
những tín hiệu đáng mừng. Theo số liệu có được từ năm 2003, số máy điện thoại hiện có trong
khu vực là 206.459 máy, mật độ bình qn đạt 4,39 máy/100dân (trong đó, Lâm Đồng đạt 8,04
máy/100dân; Kon Tum đạt 4,8 máy/100dân; Gia Lai đạt 3,96 máy/100 dân; Đắc Lắc đạt 3,68
máy/100 dân). Hiện nay, có 03 tỉnh đạt 100% số xã có máy điện thoại, riêng Kon Tum đạt 46/70

xã có điện thoại. Như vậy, viễn thơng đã đến gần hơn với bà con nhân dân sống tại Tây Nguyên.
Thông tin liên lạc được đảm bảo thông suốt góp phần nâng cao khả năng hồ nhập, tiếp cận với
các chính sách, đời sống của nhân dân ở các vùng khác. Riêng đối với tỉnh Đắk Lắk, được đánh
giá là tỉnh trọng điểm của Tây Nguyên, có sự phát triển mạnh hơn về viễn thông so với các tỉnh
khác. Hiện đã có 7 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thơng và Internet. Tính đến 31-122007, tổng số máy điện thoại: 870.404 thuê bao (Tăng 237% so với năm 2006: 367.552 thuê bao),
tỉ lệ điện thoại: 51 máy/100 người dân, tỉ lệ Internet: 17,82 thuê bao/100 người dân. Số Đài phát
thanh - Truyền hình 196 (Truyền thanh: 183; truyền hình: 13). Năm 2006 hệ thống thư điện tử đã
được đưa vào sử dụng để gửi, nhận các báo cáo của các sở, ban ngành, các huyện thành phố với
UBND tỉnh, việc trao đổi thông tin giữa các cán bộ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Có thể thấy rằng công nghệ thông tin, viễn thông cũng đã dần trở thành một phần không
thể thiếu trong đời sống của nhân dân tại các tỉnh Tây Nguyên. Viễn thông phát triển sẽ tạo ra rất
nhiều thuận lợi cho phát triển các ngành khác cũng như đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ hơn
của vùng.
3. Hệ thống năng lượng, điện lực
Tây Ngun có một vai trị đặc biệt quan trọng trong kết cấu lưới điện tổng thể toàn quốc
vì ở đây có một trong năm trạm biến áp 500kV chính của đường dây siêu cao áp Bắc – Nam: Hịa
Bình, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Pleyku và Phú Lâm. Điện năng sản xuất tại Tây Nguyên cùng với truyền
tải Bắc - Nam có thể truyền tải tới 2 miền NamTrung Bộ và Nam Bộ (ngoài cung cấp tại chỗ). Do
đó tạo điều kiện cho phát triển hệ thống lưới điện truyền tải 220kV và 110kV tới hầu hết các
huyện ở vùng sâu, vùng cao của Tây Nguyên. Đến nay 100% số huyện và 50% số hộ đã được
dùng điện. Theo số liệu thống kê hiện có, các tỉnh Tây Nguyên bao gồm 655 xã, phường, thị trấn,
trong đó 653 xã, phường, thị trấn đã được sử dụng điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn hơn
197.951 hộ dân chưa được sử dụng điện. Vì thế năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự
án cấp điện cho các khu vực chưa có điện cịn lại. Dự án này nhằm mục tiêu xây dựng các lưới
trung, hạ cấp để cấp điện cho 1.200 thôn buôn với số hộ dân khoảng 116.067. Dự án sẽ được chia
nhỏ thực hiện theo địa bàn các tỉnh của Tây Nguyên, vốn do ngân sách Nhà Nước và EVN bỏ ra,
23


thời gian thực hiện từ năm 2007 đến năm 2009. Như vậy, không bao lâu nữa tất cả người dân Tây

Nguyên sẽ có điện để dùng. Mặt khác, Tây Nguyên có tiềm năng về thuỷ điện dồi dào nên càng
ngày càng có vị trí quan trọng trong đóng góp điện năng cho cả nước. Do đặc trưng địa lý, Tây
Nguyên có sơng Sêsan là một trong ba con sơng có tiềm năng thuỷ điện lớn nhất Việt Nam (chiếm
khoảng 11,3% tiềm năng tồn quốc). Nếu kể thêm sơng Ba (2,9% tổng tiềm năng tồn quốc) và
sơng Srepok (3,72% tiềm năng tồn quốc) thì tổng tiềm năng thủy điện của Tây Nguyên chiếm
gần 18% tổng tiềm năng thủy điện toàn quốc. Ngoài ra, Tây Nguyên cũng đứng thứ hai toàn quốc
về mặt tiềm năng thuỷ điện toàn quốc xét trên các mặt: tỷ trọng, công suất và mật độ.
Tây Nguyên, hiện đã có hai nhà máy thuỷ điện đi vào hoạt động là thuỷ điện Yaly với
720MW và thuỷ điện Sê San 3 có cơng suất 280 MW đều nằm trên sông Sê San. Kể từ khi tổ máy
số 1 được đưa vào vận hành (đầu năm 2000) tới giữa năm 2006, Yaly đã sản xuất được hơn 18 tỷ
KWh điện. Mặc dù hai tổ máy của nhà máy thuỷ điện Sê San 3 mới được đưa vào vận hành quí 2
và 3/2006 nhưng nhà máy đã sản xuất được hơn 260 triệuKWh (vào tháng 9/2006). Hai nhà máy
này góp phần cung cấp điện năng lớn cho vùng cũng như các vùng khác trong tình trạng đang
khan hiếm điện hiện nay.
4. Hệ thống cấp thốt nước
Khí hậu Tây Ngun có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khơ thường nóng và
khơ hạn gây ra tình trạng thiếu nước trầm trọng để cung cấp cho cây trồng. Mới đầu năm 2008
nhưng tình trạng thiếu nước, khơ hạn đã diễn ra nghiêm trọng. Nguyên nhân một phần do nguồn
nước bị cạn kiệt. Đầu tháng 3/2007, mực nước đã giảm thấp hơn 0,5m; cá biệt có nơi giảm thấp
hơn tới 1,3m so với trung bình cùng kỳ nhiều năm. Lượng dịng chảy giảm 30-35% so với lượng
nước trung bình các năm. Dự báo, khoảng trên 30% các hồ chứa chính không đủ khả năng cấp
nước đến cuối vụ sản xuất. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục diễn ra sẽ gây ảnh hưởng lớn đến sản
xuất nhất là trồng cây cà phê, một trong những thế mạnh của vùng.Các hệ thống cấp nước cũng
khơng hoạt động hiệu quả trong tình trạng như hiện nay. Mặc dù tỉnh Đắc Lắc có tới 533 cơng
trình thủy lợi, trong đó có 441 hồ chứa với dung tích 421 triệu m3 nhưng vẫn thiếu nước tưới trầm
trọng.
II.Kết cấu hạ tầng xã hội (A. Châu)
1.Văn hố
Tây Ngun có vốn văn hố phong phú và độc đáo, là một trong những tiềm năng có thể khai
thác phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của vùng. Song về văn hoá vùng cũng đang đứng

trước một thực trạng là yếu kém về cơ sở hạ tầng, vốn văn hoá truyền thống đang bị mai một dần,
cần thiết phải có những phương án có tính khả thi cao để phát huy vốn văn hoá truyền thống của
vùng.
24


2.Giáo dục
a.Thực trạng giáo dục vùng Tây Nguyên
Sự nghiệp giáo dục của vùng trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, về cơ
bản vùng đã xóa được những làng, bản, buôn trắng về giáo dục. Tỷ lệ người biết chữ trong vùng là
63,96%, so với trước giải phóng tỷ lệ này chỉ có 27,8%.
- Giáo dục mẫu giáo, nhà trẻ: hiện vùng có 268 trường mẫu giáo với 3.534 lớp, 95.741 học
sinh và 3.720 giáo viên, có 82 nhà trẻ, 846 nhóm trẻ, 30.834 em và 2856 cơ giáo ni dạy trẻ. Nhìn
chung các cơ giáo mẫu giáo, nuôi dạy trẻ trong vùng chỉ được đào tạo qua các lớp sơ cấp, hoặc cấp
tốc, số đã qua trường lớp chính quy cịn rất ít, trừ một số vùng thị trấn, thị xã, các trung tâm, nông
lâm trường có cơ sở vật chất kỹ thuật khá, cịn lại cơ sở vật chất kỹ thuật (nhà, đồng dùng, đồ
chơi) rất sơ sài.
- Giáo dục phổ thông: vùng hiện có 22.923 giáo viên phổ thơng tăng hơn 10 lần so với trước
năm 1975 (trong đó giáo viên cấp I là 16.117 người, giáo viên cấp II là 5.290 người và giáo viên
cấp III là 1.516 người). Bình quân 158 người dân có 1 giáo viên phổ thơng, 206 người dân có 1
giáo viên cấp I, 832 người dân có 1 giáo viên cấp II và 3655 người dân có 1 giáo viên cấp III
(những chỉ tiêu tương ứng của tồn quốc là 255 người dân có 1 giáo viên cấp I, 530 người dân có 1
giáo viên cấp II và 2044 người dân có 1 giáo viên cấp III); tồn vùng có 867,0 ngàn học sinh phổ
thơng, tỷ lệ học sinh phổ thông trên dân số là 19,5% (tỷ lệ chung của tồn quốc là 19,1%) trong đó
học sinh cấp I là 584 nghìn em chiếm 67,3%, học sinh cấp II là 257,2 nghìn em chiếm 29,6%, số
học sinh cấp III là 25 nghìn em chiếm 3,1%.
- Giáo dục trung học chuyên nghiệp: Vùng có 13 trường trung học chuyên nghiệp với 315 giáo
viên, 3.806 học sinh. Bình quân 817 người dân có 1 học sinh trung học chuyên nghiệp.
- Giáo viên đại học và cao đẳng: vùng có 5 trường đại học và cao đẳng với 587 giáo viên, 4140
học sinh. Bình qn 1332 dân có 1 học sinh học cao đẳng và chuyên nghiệp.

- Giáo dục công nhân kỹ thuật: vùng hiện có 7 trường cơng nhân kỹ thuật, 152 giáo viên, 1151
học sinh.
Về giáo dục cho con em các đồng bào dân tộc ít người các huyện, tỉnh trong vùng đều có
trường nội trú và trường bán trú chuyên đào tạo con em đồng bào các dân tộc ít người, các tỉnh
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk đều có trường nội trú khang trang, sạch đẹp. Trường nội trú tỉnh Gia
Lai là một trong những trường có cơ sở vật chất kỹ thuật và mẫu mực về đào tạo nội trú cho con
em các đồng bào dân tộc của cả nước.
Sự nghiệp giáo dục của vùng Tây Nguyên từ sau giải phóng đã đạt được những thành tựu đáng
kể, tỷ lệ người mù chữ giảm, Nhà nước đã chú ý đầu tư cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục của
vùng, kể cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ giáo viên giảng dạy. Nhưng nhìn chung giáo dục
của vùng Tây Nguyên phát triển còn chậm, tỷ lệ người mù chữ còn cao nhất so với các vùng của
25


×