Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bài tập mối quan hệ giữa lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng ý nghĩa đối với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.18 KB, 18 trang )

Mối quan hệ giữa lơgíc hình thức và lơgíc biện chứng. Ý nghĩa đối 
với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học.
* Sự  hình thành và phát triển của lơgic học hình thức và lơgic học  
biện chứng.
Nhân loại bắt đầu suy nghĩ theo những quy luật của lơgic từ  rất lâu 
trước khi những quy luật này được khoa học khám phá ra. Nhưng đó chỉ là cái  
lơgic tự phát, kinh nghiệm. Nói cách khác, tư duy hay suy nghĩ của con người  
khi   đó   chưa   trở   thành   đối   tượng   của   nhận   thức   khoa   học.   Tro  
ng xã hội chiếm hữu nơ lệ, khi mà hoạt động của đời sống xã hội đã được 
mở rộng, nhận thức khoa học được hình thành, q trình tranh luận, thảo luận  
thời kỳ dân chr thành Aten địi hỏi khơng thể hạn chế ở kinh nghiệm tự phát, 
mà nghiên cứu những ngun lý của tư duy chính xác, của những chứng minh,  
luận luận với cấu tạo của khái niệm, phán đốn... một cách đúng đắn. Lơgic 
hình thức ra đời trong điều kiện hồn cảnh lịch sử đó.
Những người đầu tiên nghiên cứu những vấn đề của lơgic học là các nhà  
triết học duy vật như Hêraclít (khoảng 540­480 tr.CN), Đêmơcrit (khoảng 460  
– 370 tr.CN). Ngay từ  buổi đầu xuất hiện, lơgic học đã được coi là một bộ 
phận cấu thành tri thức triết học. Thuỷ tổ của khoa học lơgic là nhà tư tưởng  
Hy lạp cổ đại Arixtốt (384­322 tr.CN). 
Trên cơ sở tổng kết những hạt nhân của các trường phái học thuật trước  
đó, Arixtốt đã xây dựng hệ  thống các ngun lý, quy luật, phương pháp và 
phát triển tiếp tục cả  về  mặt lý thuyết lẫn thực hành. Các tác phẩm thuộc 
phạm vi lơgic học được tập hợp lại thành bộ  sách “Organơng” (bộ  cơng cụ,  
phương pháp nghiên cứu), với 6 tác phẩm:
1. Phạm trù, thực chất là học thuyết về khái niệm, hình thức cơ bản của tư 
duy.
2. Lý giải, trình bày học thuyết về phán đốn, hình thức cơ bản của tư duy.
1


3. Phân tích (I), học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản của suy luận  


diễn dịch.
4. Phân tích (II), học thuyết về  chứng minh, hình thức cơ  bản của chứng  
minh.
5. Thuật tranh biện, học thuyết về  phép biện chứng với ý nghĩa là nghệ 
thuật tranh luận.
6. Bác bỏ  ngụy biện, phê phán những khuynh hướng lạm dụng phép biện 
chứng.
Theo Arixtốt, cơ sở của tư duy đúng đắn (nghĩa là đạt tới chân lý khách 
quan) trước hết phải tn theo các quy luật cơ bản: quy luật đồng nhất, quy 
luật cấm mâu thuẫn, quy luật loại trừ  cái thứ  ba. Thành tích suất sắc của  
Arixtốt là xây dựng học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản nhất của  
suy lý diễn dịch, với những cầu hình, cách thức và quy tắc của có, mà lơgic  
học hình thức sau này chỉ  cịn là sự  hồn thiện để  vận dụng. Arixtốt đã bao 
qt được tồn bộ  phạm vi, thực chất là đối tượng của logic học, đặt nền 
móng cho khoa học logic phát triển trong nhiều thế kỷ sau.
Có thể  khẳng định rằng, Arixtốt đã có cơng đầu trong việc chỉ  ra bản 
chất, kết cấu bên trong của tư duy và đã rút ra từ nội dung hiện thực của suy  
nghĩ những hình thức lơgic. Theo ơng, những quy tắc, quy luật lơgic khơng 
phải là cái tuỳ  tiện đặt ra mà có nguồn gốc khách quan là xuất phát từ  thế 
giới hiện thực, cịn khoa học lơgic là khoa học về  sự  khẳng định chân lý và  
bác bỏ những phán đốn sai lầm, xun tạc tình hình thực tế của sự vật, hiện 
tượng.
Tuy nhiên, trong logic học của Arixtốt có nhiều nhân tố  biện chứng liên 
hợp với siêu hình học. Ơng đã chống lại học thuyết về tính mâu thuẫn của sự 
vật do Hêraclít nêu ra, do đó, lơgic học của Arixtốt đã bị các nhà triết học kinh 
viện thời kỳ  trung cổ lợi dụng như một cơng cụ  chững minh cho quan điểm  
của thần học, Organon đã biến thành Canon (luật lệ)
2



Từ  thế  kỷ XVII về sau, do sự phát triển của công nghiệp, của hàng hải 
và thương mại đã thúc đẩy sự  ra đời và phát triển khá mạnh của lôgic học  
quy   nạp   mà   người   sáng   lập   là   F.Bêcơn   (1561­1626).   Với   tư   cách   là   một  
phương pháp mới, lơgic học quy nạp đã rút ra những ngun lý chung, quy  
luật phổ qt từ những tri thức kinh nghiệm.
Nhu cầu nhận thức khoa học khơng dừng lại ở phương pháp quy nạp mà 
cịn thúc đẩy phương pháp diễn dịch ra đời và phát triển. Với phương pháp 
này, nhà triết học Pháp R. Đềcáctơ  (1596­1650) đã đưa lơgic học phát triển  
thêm một bước, đạt được những thành tựu mới. Từ đó, lơgic học được coi là  
vũ khí nhận thức "sắc bén" của mọi khoa học. Tuy nhiên, bước sang thế  kỷ 
XVIII, phép siêu hình đã xun tạc đối tượng và tính chất của các quy luật 
lơgic học hình thức. 
Lơgic diễn dịch nói riêng và lơgic hình thức nói chung có một bước phát 
triển mới từ sau cơng trình của G. Labnít (1646­1716). Ơng đã hồn thiện hệ 
thống quy luật cơ bản của logic hình thức với sự bổ sung quy luật tứ tư – lý  
do đầy đủ. Đặc biệt là ơng chủ trương xây dựng ngơn ngữ  hình thức hóa để 
chính xác hóa các phát biểu và q trình lập luận, thực chất là muốn ký hiệu 
hóa và tốn học hóa các mơ hình lập luận lơgic. Lơgic tốn là một thành tựu to 
lớn trong sự  phát triển của khoa học lơgic. Nó khắc phục tính khơng chính  
xác, khơng rõ ràng trong ngơn ngữ, đặc biệt là nó khơng thỏa mãn với hệ logic  
lưỡng trị  (đúng ­ sai), mà vươn lên hệ  đa trị  “hơn hay kém”, “gần đúng hay  
gần sai”.. nhờ đó mà những suy lý lơgic được mở rộng hơn và đầy đủ hơn về 
những kết luận logic. Cũng chính nhờ  q q trình hình thức tốn hóa lơgic 
mà logic hình thức phát triển ngày một xích lại gần logic biện chứng.
Sự ra đời và phát triển của lơgic biện chứng. 
Khơng hài lịng với  lơgic học truyền thống, nhà triết học người  Đức 
Cantơ  đã sáng lập lên một kiểu lơgic học mới: lơgic học tiên nghiệm. Theo 
lơgic học này thì mọi hình thức của lơgic được coi là những thuộc tính tiên 
3



nghiệm (có trước kinh nghiệm) của lý trí. Những thuộc tính này quyết định 
khả năng hiểu biết chung nhất về hiện tượng của kinh nghiệm. 
Hêghen (1770­1831) ­ nhà triết học vĩ đại người Đức đã có cơng xây  
dựng phép biện chứng duy tâm khách quan như là phương pháp cơ bản của tư 
duy, của nhận thức. Để làm được việc đó, ơng đã phê phán tỉ mỉ lơgic học tiên  
nghiệm và thuyết bất khả  tri của Cantơ, đồng thời chỉ  ra hạn chế  của lơgic  
học hình thức nói chung. Song, Hêghen đã đứng trên lập trường duy tâm để 
phê phán lơgic hình thức và đã quy nó về lơgic học siêu hình. Vì thế, ơng cho  
rằng, lơgic hình thức khơng thể  trở  thành thứ  lơgic học phổ  biến, khơng thể 
áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của hiện thực. Trong tác phẩm “khoa học  
lơgic” của mình, ơng đã khám phá ra mâu thuẫn ­ nền tảng giữa lý thuyết  
lơgic hiện có với thực tiễn hiện thực của tư duy và tìm ra phương thức giải  
quyết các mâu thuẫn  ấy. Với sự  khám phá này, ơng đã góp phần thúc đẩy 
lơgic học tiến lên. Tuy nhiên, việc phủ nhận lơgic học truyền thống, Hêghen 
đã giáng một địn rất mạnh vào lơgic học hình thức, kìm hãm căn bản sự phát 
triển tiếp theo của nó.
Những vấn đề của lơgic biện chứng, mối quan hệ giữa nó với lơgic hình  
thức đã được C.Mác và Ph.Ăngghen giải quyết một cách khoa học trong các 
tác phẩm của mình. Hai ơng khơng phủ nhận ý nghĩa của lơgic học hình thức, 
khơng coi nó là vơ nghĩa, nhưng nhấn mạnh vai trị và ý nghĩa lịch sử của nó. 
Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ  ra sự  khác biệt về  chất giữa học  
thuyết biện chứng của mình với học thuyết biện chứng Hêghen. Ph.Ăngghen  
chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa lơgic hình thức và lơgic biện chứng như là mối  
quan hệ  giữa tốn học sơ  cấp và tốn học cao cấp. Tuy nhiên, những cơng  
trình chun về lơgic biện chứng vẫn chưa được C.Mác, Ph.Ăngghen viết ra. 
Kế tục sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen về lĩnh vực này, V.I.Lênin đã  
đưa lơgic học biện chứng phát triển lên tầm cao mới. Trong tác phẩm "Lại  
bàn về cơng đồn...", V.I.Lênin đã chỉ ra sự khác nhau có tính ngun tắc giữa  
4



lơgic hình thức và lơgic biện chứng. Đồng thời, lần đầu tiên V.I.Lênin đưa ra 
các ngun tắc cơ bản ­ mang ý nghĩa phương pháp luận để  định hướng cho 
chủ thể trong nhận thức và hành động, đó là các ngun tắc: xem xét sự  vật, 
hiện tượng một cách khách quan, tồn diện, lịch sử cụ thể, phát triển và thực  
tiễn.
Đương nhiên các ngun tắc trên đây chưa phải là tồn bộ  nội dung của  
lơgic biện chứng. Song, đây là những ngun tắc cơ bản, trong bất luận trường 
hợp nào, nếu vi phạm những ngun tắc này, tất yếu nhận thức sẽ rơi vào sai 
lầm. Giai đoạn sau Lênin đến nay, lơgic học đã có những bước tiến dài, đã  
xuất hiện lơgic tốn... và việc ứng dụng nó rất rộng rãi vào tin học, vào khoa 
học, cơng nghệ và đã thu được những thành quả nhất định. ở Liên Xơ (cũ) đã 
xuất hiện hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về  lơgic học, nhất là lơgic học 
biện chứng. Ngày nay, đang có những nhân tố  mới kích thích lơgic học biện  
chứng phát triển.
* Mối quan hệ giữa logic học hình thức và logic học biện chứng
Ta thấy rằng, để  rút ra được mối quan hệ  giữa logic học hình thức và 
logic học biện chứng, trước hết ta cần phải xem xét sự  giống và khác nhau  
giữa hai hình thức này. 
Sự giống nhau:
Thứ nhất, cả logic học hình thức và logic học biện chứng đều là sự phản  
ánh hiện thực khách quan ở những cấp độ khác nhau bằng những hình thức và  
quy luật. 
Thứ  hai, đều sử  dụng những hình thức của tư  duy là khái niệm, phán 
đốn, suy luận… để phản ánh sự vật.
Sự khác nhau:  
Khoa học logic hình thức: 
Đối tượng của lơgic hình thức là nghiên cứu hình thức và quy luật, quy 
tắc đảm bảo cho tư duy chính xác. Đó là những mối liên hệ vững bền giữa các 

5


yếu tố của sự suy nghĩ chính xác mang tính quy luật, cùng với việc mơ tả hình 
thức kết cấu của tư duy. Để vạch ra những mối liên hệ vững chắc, có tính quy  
luật giữa những hình thức, kết cấu của tư duy khoa học, logic hình thức phải 
trừu tượng hóa nội dung suy nghĩ, tách hình thức ra khỏi nội dung cụ thể của  
suy nghĩ.
Các quy luật cơ  bản của tư  duy logic hình thức là quy luật đồng nhất, 
quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật bài chung và quy luật lý do đầy đủ. Bốn  
quy luật phản ánh những mối liên hệ  xác định của các sự  vật, hiện tượng  
trong thế giới khách quan, có ý nghĩa phổ  biến đối với mọi suy nghĩ của con  
người, thể  hiện rõ nhưng u cầu về  tính chính xác của hình thức tư  duy.  
Nếu khơng tn theo những u cầu, những quy tắc, những quy luật đó, tư 
duy sẽ phạm lỗi logic và khơng thể đạt tới tri thức chân thực. Đồng thời, giúp  
con người nâng cao trình độ  tư  duy, rèn luyện khả  năng tư  duy logic, bảm  
đảm cho tư  duy đạt độ  chính xác, chặt chẽ, nhất qn, có căn cứ  và khơng  
mâu thuẫn.
Phương pháp cơ bản sử dụng trong nghiên cứu lơgic hình thức là phương  
pháp hình thức hố. Hình thức hố là phương pháp để vạch ra những mối liên 
hệ vững chắc, có tính quy luật giữa các yếu tố cấu thành tư tưởng và cụ thể 
hố nó thành những quy tắc, cơng thức, những sơ đồ lơgic nhằm bảo đảm tính 
cân đối, liên tục, chính xác của tư  duy. Phương pháp hình thức hố dựa trên 
cơ  sở  trừu tượng hố nội dung tư tưởng, tách hình thức ra khỏi nội dung để 
nghiên cứu, để tìm ra, ghi lại cơ cấu lơgic, hình thức lơgic của tư tưởng. Tuy  
nhiên, phương pháp hình thức hố khơng chỉ  có khoa học lơgic hình thức sử 
dụng mà cịn được sử  dụng rộng rãi  ở  một số  khoa học khác theo u cầu  
riêng của nó. Ngồi phương pháp hình thức hố nêu trên, khoa học lơgic hình 
thức cịn sử  dụng một số  phương pháp khác như  phân tích, trừu tượng hố, 
khái qt hố...

Cịn đối với logic học biện chứng:
6


Đối tượng của lơgic học biện chứng nghiên cứu những quy luật và các  
hình thức của tư  duy (khái niệm, phán đốn, suy luận…) và những quy luật 
nhận thức chân lý trên quan điểm biện chứng, tức là xem xét chúng trong mối 
liên hệ, chuyển hóa, trong sự vận động và phát triển. Bởi vì, thế giới vật chất 
ln  ở  trong q trình vận động, biến đổi và phát triển, cho nên những hình  
thức của tư duy đều phải dựa trên cơ sở đó, nghĩa là phải lấy ngun lý phát 
triển làm cơ sở.
Những quy luật lơgic học biện chứng đó là quy luật những sự  thay đổi 
về  lượng dẫn đến sự  thay đổi về  chất và ngược lại, quy luật thống nhất và 
đấu tranh các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định. Đây là những quy 
luật phát triển của tư duy từ cái bên ngồi đi vào cái bên trong, từ hiện tượng 
đi tới cái bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ  trực  
tiếp đến gián tiếp, từ  trừu tượng đến cụ  thể, từ  chân lý tương đối đến chân  
lý tuyệt đối.
Từ  đối tượng cơ  bản như  vậy, nhiệm vụ  của lơgic học biện chứng cơ 
bản, trung tâm của khoa học logic biện chứng đó là:
Thứ nhất, logic biện chứng nghiên cứu sự  cần thiết, cách thức thể hiện 
như  thế  nào trong khái niệm, trong phán đốn… về  sự  vận động, phát triển  
hay những mâu thuẫn bên trong của sự  vật hiện tượng, những biến đổi về 
chất hay sự chuyển hóa cái này thành cái khác của chúng. Đây chính là nhiệm  
vụ  trung tâm của logic biện chứng. Trong sự  biểu đạt khoa học của mình, 
lơgic biện chứng xuất hiện như là một bộ phận của triết học mácxít.
Thứ   hai,   logic   biện   chứng   nghiên   cứu   bản   chất   biện   chứng   của   các  
phạm trù logic, tính linh hoạt, tính mềm dẻo của chúng đi đến tính đồng nhất 
của các mặt đối lập. Phép biện chứng chính là một học thuyết lơgic, vì chúng  
nghiên cứu chức năng nhận thức, là lơgic của những quy luật phổ  biến và 

những phạm trù của sự phát triển.

7


Ba là, lơgic biện chứng nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của  
bản thân nhận thức. Lơgic biện chứng dựa trên lịch sử  của nhận thức, đó là  
sự phát triển khái qt của tư duy, của lịch sử thực tiễn xã hội lồi người.
Có thể nói, lơgic học biện chứng là cơ sở lơgic chung của nhận thức con  
người, là lý luận lơgic chung mà dựa vào đó con người ta có thể và cẩn phải 
có giải thích tất cả những lý luận lơgic riêng biệt và cụ thể, giải thích ý nghĩa  
và cai trị của những lý luận ấy.
Lơgic học hình thức và lơgic học biện chứng là hai ngành khoa học đều 
nghiên cứu tư duy, đều phản ánh hiện thực khách quan. Song có sự khác nhau 
căn bản về đối tượng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu.
Lơgic hình thức nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy nhằm bảo  
đảm tính đúng đắn, chặt chẽ  và nhất qn trong suốt q trình tư  duy, trừu 
tượng hóa nội dung, thì lơgic biện chứng nghiên cứu các hình thức và quy luật  
của tư duy biện chứng, nó chủ yếu quan tâm đến tính biện chứng về nội dung  
của tư duy.
Ví dụ: Trong phân tích về khái niệm:
Đối với Lơgíc học hình thức, khái niệm là sự thống nhất giữa nội hàm và 
ngoại   diên,   nó   khơng   chứa   đựng   mâu   thuẫn.   Còn   đối   với   lơgíc   học   biện  
chứng, khái niệm bao hàm mâu thuẫn. Đây chính là tiền đề, là cơ sở của hình 
thức và phương pháp tư duy. Trong Lơgíc học hình thức, “nội hàm khái niệm  
là tập hợp tất cả  những dấu hiệu chung của lớp đối tượng được phản ánh  
trong khái niệm”1. Trong khi đó Lơgíc học biện chứng quan niệm rằng:  “ nội  
hàm của khái niệm phản ánh bản chất, mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật  
của sự  vật, hiện tượng mà khái niệm đó phản ánh và bao qt” 2. Như  vậy, 
theo cách hiểu này, nội hàm khái niệm khơng phụ  thuộc số  lượng dấu hiệu, 

đặc điểm mà phụ  thuộc trình độ  thâm nhập vào bản chất, quy luật của hiện  
thực khách quan, khi nhận thức càng phát triển, mức độ khái qt càng cao thì 
1, 2 PGS.TS Võ Văn Thắng, Giáo trình Lơgíc học biện chứng, Nxb CTQG, H.2014, tr.68, tr.44.

1
2

8


nội hàm phong phú hơn.
Lơgic học hình thức xem xét các hình thức của tư duy qua việc phản ánh  
sự  vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời, đứng im tương đối, ổn định tạm  
thời, do vậy nó dựa trên cơ sở  tính đồng nhất, trừu tượng của các khái niệm,  
phạm trù cố  định. Trong khi đó, logic học biện chứng xem xét các hình thức 
của tư  duy qua sự  phản ánh các sự  vật, hiện tượng trong mối liên hệ, trong 
trạng thái mâu thuẫn, vận động, chuyển hóa và phát triển. Cho nên, nó dựa trên 
cơ  sở  tính đồng nhất, cụ  thể  là các phạm trù biến đổi. Do vậy, nó phản ánh 
sinh động hiện thực khách quan. V.I.Lênin nhận xét: Những quan hệ (=chuyển 
hóa = mâu thuẫn) của những khái niệm = nội dụng chủ  yếu của lơgic, hơn  
nữa những khái niệm  ấy (và những quan hệ, chuyển hóa và mâu thuẫn của 
chúng) đều được trình bày như là những phản ánh của thế giới khách quan. 
Ta thấy rằng, logic hình thức xem xét hình thức và quy luật của tư  duy  
khơng tính đến điều kiện lịch sử xã hội, văn hóa,… cịn logic học biện chứng  
xem xét hình thức và quy luật của tư duy trên quan điểm thực tiễn, tồn diện, 
lịch sử, cụ thể, biến đổi và phát triển… logic học biện chứng xem thực tiễn 
là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý.
Ví dụ: Trong phân tích về suy luận
Lơgic hình thức nghiên cứu kết luận chủ yếu về mặt kết cấu, hình thức 
nối tiếp nhau của những luận đề  này từ  những luận đề  khác, trong khi đó 

nhiệm vụ chủ yếu của lơgic biện chứng là nghiên cứu vấn đề theo quan điểm 
xây dựng kết luận như  thế  nào từ  nội dung phong phú, phức tạp của hiện 
thực.
A.G. Nơvicốp cho rằng, logic học biện chứng khác về căn bản với lơgic 
học hình thức và lơgic tốn. Nó sử  dụng phương pháp chính thức nghiên cứu  
các hình thức tư tưởng trong sự trừu tượng nội dung và lịch sử phát triển của  
nhận thức trong tất cả các mâu thuẫn của nó. Lơgic học biện chứng phân tích  
những mâu thuẫn biện chứng của sự  vật, ý tưởng và sự  phát triển của nhận  
9


thức. Nó là một phương pháp khoa học của nghiên cứu thực tế  và chính sự 
suy nghĩ.
Như  vậy, lơgic hình thức và lơgic biện chứng thống nhất trong sự khác 
biệt, có mối quan hệ chặc chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện:
Như Ph.Ăng ghen đã so sánh quan hệ giữa lơgic hình thức với lơgic biện 
chứng giống như quan hệ giữa “một thứ tốn học cao cấp” của tư duy so với  
“một thứ  tốn học sơ  cấp của tư  duy ”: “Phép biện chứng, phá vỡ  chân trời  
nhỏ  hẹp của lơgíc hình thức, đồng thời lại chứa đựng mầm mống của một  
thế  giới quan rộng lớn hơn. Trong tốn học cũng có mối quan hệ  như  vậy.  
Tốn sơ cấp, tức là tốn học về những số khơng đổi, tự vận động, ít ra là về  
tồn bộ, trong những giới hạn của lơgíc hình thức; cịn tốn học về  các số  
biến mà phần quan trọng nhất là tính những đại lượng vơ cùng bé, thì căn  
bản chỉ là áp dụng phép biện chứng vào các quan hệ tốn học mà thơi”3. 
Lơgic hình thức là khoa học tư  duy xây dựng trên cơ  sở  của tính đồng  
nhất trừu tượng của những phạm trù cố  định, cịn lơgic biện chứng là khoa 
học tư duy xây dựng trên cơ sở tính đồng nhất cụ thể của các phạm trù biến  
đổi, “cơ sở khách quan của mối quan hệ biện chứng giữa lơgíc biện chứng và  
lơgíc hình thức chính là mối quan hệ  biện chứng giữa sự  vận động là tuyệt  
đối, vĩnh cừu và sự đứng im là tạm thời tương đối của mọi sự vật hiện tượng  

của thế giới vật chất”4. 
Mối quan hệ biện chứng giữa lơgíc hình thức và lơgíc biện chứng được 
thể hiện rõ rệt nhất là  ở  chỗ: Chúng bổ  sung cho nhau. Những quy tắc, quy 
luật của lơgíc hình thức là những quy tắc cơ bản mà mọi tư duy đúng đắn kể 
cả  tư  duy biện chứng phải tn theo, chúng là điều kiện cần để  phản ánh 
đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan. Nếu vi phạm các quy tắc, quy  
luật của lơgíc hình thức, thì trong q trình nhận thức sẽ dẫn đến mâu thuẫn 
lơgíc tức là mâu thuẫn do sai lầm chủ  quan của con người trong q trình  
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H.1994, tr.20, tr.192.
Vũ Ngọc Pha, Lơgíc học( Viện đại học mở), Nxb Thống kê, H.2012, tr.175.

3

4

10


nhận thức làm cho tư duy rối loạn, phá hoại tính chính xác của tư tưởng. Để 
phản ánh đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan, phát hiện tri thức mới, tìm 
ra chân lý, thì q trình nhận thức trước hết phải tn theo những quy tắc và quy 
luật của lơgíc hình thức, loại trừ  mâu thuẫn lơgíc, trên cơ  sở  đó vận dụng  
phương pháp tư duy biện chứng các hình thức và quy luật của lơgíc biện chứng 
mới có thể đạt tới chân lý khách quan.
Tuy nhiên, khơng nên quan niệm rằng, lơgic hình thức là trình độ  thấp 
của sự  nhận thức thế  giới, chỉ  nên áp dụng đối với những hiện tượng sơ 
đẳng, hoặc đồng nhất lơgic hình thức với phép siêu hình và chỉ  dùng trong  
“sinh hoạt thơng thường”; cũng khơng nên quan niệm có lơgic biện chứng rồi 
thì khơng cần đến lơgic hình thức. Ngược lại, lơgic biện chứng địi hỏi sự tư 
duy lơgic cân đối và tn thủ  nghiêm ngặt quy luật, quy tắc của khoa học  

lơgic hình thức. Có như  vậy, chúng ta mới tìm ra được kết luận mới. Khẳng 
đinh vai trị to lớn của khoa học lơgic hình thức. V.I.Lênin cho rằng, phương 
pháp lơgic là một khâu cần thiết của nhận thức; khơng một khoa học nào có thể 
bỏ  qua. Khơng có khoa học lơgic hình thức khơng thể  phát hiện ra quy luật,  
khơng thể xây dựng lý luận, học thuyết.
Đã có quan niệm rằng, khoa học lơgic hình thức là lơgic học sơ cấp. Tên  
gọi này biểu hiện đúng đắn bản chất và vai trị nhận thức của lơgic hình thức. 
Song, khơng nên cho rằng, sơ  cấp là thấp, là khơng quan trọng, mà đây là sự 
khởi đầu, là cơ sở, là yếu tố bắt buộc, một mắt khâu khơng thể thiếu của q 
trình nhận thức.
Với vai trị tích cực của nó, lơgic hình thức đã có lý do để  tồn tại và phát 
triển với tư cách là một khoa học độc lập xun suốt lịch sử  khoa học từ xưa  
đến nay. Song, lơgic hình thức cũng có những hạn chế  của nó. Ngồi hạn chế 
lịch sử, chúng ta cần lưu ý những hạn chế  về  ngun tắc của lơgic hình thức.  
Điều dễ thấy là các quy luật của lơgic hình thức khơng bao qt hết tồn bộ các  
quy luật lơgic của tư  duy đang nhận thức và khơng phải là loại hình quy luật 
11


lơgic của sự  hình thành và phát triển của tư  duy. Phản ánh tư  duy đang nhận  
thức và các quy luật vận động, phát triển của thế giới hiện thực khách quan là 
nhiệm vụ của lơgic biện chứng.
Lơgic biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật biện chứng  
của tư  duy nhằm phản ánh đúng đắn sự  vận động, phát triển của thế  giới  
khách quan. Nhờ  đó, nó khắc phục “tầm chật hẹp” của lơgic hình thức, qua  
đó vạch ra hình thức lơgic trong sự  thống nhất với nội dung cụ thể của suy  
nghĩ, của tư tưởng.
Lơgic biện chứng khơng thủ tiêu lơgic hình thức mà chỉ  tước bỏ ý nghĩa 
tuyệt đối của những quy luật của lơgic hình thức mà thơi, đồng thời nâng tư 
duy   lên   tầm   cao   hơn.   Rõ   ràng,   lôgic   biện   chứng   không   những   chỉ   “sống  

chung” với lơgic hình thức mà cịn nhấn mạnh sự  cần thiết của lơgic hình  
thức và khẳng định dứt khốt rằng, nếu khơng nghiên cứu lơgic hình thức thì 
khơng thể  nào lĩnh hội được phương pháp tư  duy biện chứng duy vật. Do  
vậy, việc học tập, rèn luyện tư duy biện chứng, trước hết phải học suy nghĩ  
chính xác  ở  mức độ  sơ   cấp, khơng được vi phạm những quy luật, quy tắc  
của lơgic hình thức.
Lơgic học biện chứng ra đời là một bước phát triển về mặt tư duy. Song,  
nó khơng phải là sự  thủ  tiêu lơgic học hình thức. Trái lại, lơgic học biện 
chứng cho phép xác nhận vị tri quan trọng của lơgic học hình thức và sự  cần 
thiết   của   nó   trong   nghiên   cứu   khoa   học   cũng   như   trong   cuộc   sống. 
Ph.Ăngghen cho rằng, khoa học về  tư  duy cũng như  bất kỳ  khoa học nào 
khác, là khoa học lịch sử, khoa học về  sự  phát triển lịch sử  của tư  duy con  
người.
Cần lưu ý, lơgic học biện chứng và lơgic học hình thức là hai ngành khoa 
học khơng mâu thuẫn, khơng loại trừ nhau. Trong sự phát triển của mỗi ngành  
khoa học, chúng bổ  sung cho nhau và đều rất cần thiết cho nhận thức và 
nghiên cứu khoa học. Mỗi ngành khoa học có ưu điểm và hạn chế  nhất định  
12


và có phạm vi  ứng dụng riêng. Vì vậy, khơng nên phủ  nhận hoặc cem nhẹ 
một ngành khoa học nào. Việc nắm vững hai ngành khoa học này, từ  đó vận 
dụng vào q trình nhận thức sẽ cho phép phản ánh chính xác, đầy đủ, khách  
quan và tồn diện hiện thực khách quan.      
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu lơgíc học đối với học viên sau đại học.
Lơgic học là một khoa học có vai trị quan trọng cần thiết cho mọi người. 
Điều này đã được nhiều nhà triết học khẳng định. Lépnít cho rằng, nếu các  
nhà khoa học nhiệt tình nghiên cứu lơgic học như những nhạc sỹ nghiên cứu 
âm nhạc thì họ có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu. Mintơ khẳng định: sứ 
mệnh cao cả  của lơgic học là giữ  gìn cho trí tuệ  tránh khỏi các sai lầm. Đề 

cao vai trị của lơgic học, Hêghen viết: khơng nghi ngờ  gì nữa nghiên cứu  
lơgic học mang đến nhiều điều bổ ích, lơgic học làm cho sáng trí tuệ, giúp con  
người tinh khơn.
Việc nắm chắc đặc điểm của lơgic hình thức, logic biện chứng và mối 
quan hệ  giữa hai hình thức tư duy này có ý nghĩa to lớn đối với học viên nói 
chung và học viên cao học nói riêng.
Việc nghiên cứu lơgic học giúp tư duy của học viên chủ động, tự giác và  
thơng minh hơn. Việc tn thủ  và rèn luyện các quy luật và hình thức của 
lơgic giúp cho người học tìm kiếm những con đường ngắn nhất, đúng nhất và 
hiệu quả nhất để đạt đến chân lý trong q trình học tập. Giúp chúng ta phát  
hiện những sai lầm lơgic của chúng ta và người khác, cũng như để tránh khỏi  
những sai lầm lơgic do vơ tình hay hữu ý phạm phải. Tri thức lơgic học có ý 
nghĩa quan trọng trong q trình nắm vững tri thức mới, tìm ra con đường  
ngắn nhất để  nâng cao trình độ  tư  duy cũng như  phát hiện giả  dối, sai lầm,  
cảnh báo trước những điều có thể xảy ra, tìm ra và sửa chữa sai lầm nếu mắc 
phải.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động đặc thù của học viên cao học,  
vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Bởi nắm chắc kiến thức, vận  
13


dụng thành thạo các quy luật lơgic chắc chắn sẽ  thuận lợi hơn trong việc  
nghiên cứu khoa học. Vì trước tiên hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt  
động của tư duy. Học tập lơgic là cần thiết, nó giúp cho tư duy con người chủ 
động, tự giác góp phần thể hiện tính chính xác, tính triệt để, tính có căn cứ, và 
chứng minh được các lập luận, nâng cao hiệu quả và tính thuyết phục của các 
tư  tưởng. Việc nghiên cứu lơgic giúp cho con người tìm kiếm con đường  
ngắn nhất, đúng đắn và hiệu quả nhất, tránh được những sai lầm lơgic. Việc 
nắm chắc các quy luật cùng các hình thức của lơgic có một vị  trí quan trọng  
trong cuộc sống hàng ngày, trọng hoạt động thực tiễn để  nhận thức chân lý  

và cải tạo thế giới
Q trình học tập, nghiên cứu khoa học, để  có thể  xây dựng hệ  thống  
khái niệm, phạm trù trong mỗi bài viết, trong luận văn địi hỏi người học  
phải nắm chắc các quy luật, các quy tắc và những u cầu của lơgic hình 
thức; để  trên cơ  sở  đó khái qt hố các thuộc tính, bản chất của đối tượng  
nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu chỉ  dừng lại  ở  lơgic hình thức thì chưa đủ, chưa 
phản ánh hết tính chân thực và phong phú của đối tượng nghiên cứu. Và để 
giải quyết được vấn đề đó địi hỏi người học phải tư duy ở trình độ cao hơn, 
đó chính là tư  duy biện chứng.  Nói cách khác, đồng thời với việc bảo đảm 
tính chính xác và chặt chẽ  mà lơgic hình thức đặt ra, chúng ta phải đặt nó  
trong mối quan hệ  với lơgic biện chứng để  phân tích, luận giải, làm rõ bản  
chất vấn đề cần nghiên cứu. 
Học viên cao học đang trong q trình tích luỹ  kiến thức và bước đầu 
nghiên cứu khoa học, nhằm nâng cao khả năng hệ thống hố, khái qt hố và 
trừu tượng hố; từ  đó hình thành tư  duy lơgic và khả  năng phát hiện, xử  lý 
thơng tin. Do vậy, việc nắm vững mối quan hệ giữa lơgíc hình thức và lơgic  
biện chứng sẽ giúp cho họ tránh được những sai lầm trong định hướng trí tuệ, 
giúp tư  duy phát triển đúng quy luật, ln chủ  động, tự  giác; góp phần thể 
hiện tính chính xác, tính triệt để, tính có căn cứ  của các lập luận, nâng cao  
14


hiệu qủa và tính thuyết phục của các quan điểm.
Trong cuộc đấu tranh tư  tưởng ­ lý luận hiện nay, địi hỏi học viên cao 
học triết học cần nắm vững tư duy lơgic. Bởi lẽ, chính nó là cơng cụ sắc bén 
để vạch rõ bản chất, âm mưu thủ  đoạn cùng những luận điệu xun tạc, vu  
cáo của kẻ thù; qua đó góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng. 
Nắm chắc được những ngun tắc, quy luật của khoa học lơgic, nhất là  
những ngun tắc phương pháp luận của lơgic biện chứng có vai trị quan  

trọng  đối với học viên cao học trong nhận thức và cải tạo sự vật hiện tượng,  
nhất là đánh giá đúng bản chất của các vấn đề  trong đời sống xã hội. Hệ 
thơng ngun tắc phương pháp luận lơgic biện chứng đó là: khách quan, tồn  
diện, lịch sử ­ cụ thể và phát triển.
Cần có  quan điểm tồn diện  trong nhận thức, xem xét các sự  vật hiện 
tượng cũng như  trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu, khi nghiên cứu sự  vật  
phải xem xét  tất cả  các mối liên hệ  của bản thân sự  vật và với các sự  vật 
khác. Đồng thời, xem xét toàn diện nhưng  khơng dàn đều  mà phải có  trọng 
tâm, trọng điểm, xem xét tồn diện mối liên hệ bản thân sự vật, để đảm bảo 
tính đồng bộ, tính hệ  thống trong giải quyết những vấn đề  của cuộc sống,  
tránh sai lầm, phiến diện,  tuyệt đối hố một mặt nào đó. Trong hoạt động  
thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi, muốn cải tạo sự  vật, phải sử  dụng 
đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động làm thay  
đổi các mối liên hệ tương ứng. 
Trong thực tiễn cần có qn triệt quan điểm lịch sử  ­ cụ  thể, vì sự  vật  
tồn tại trong khoảng thời gian giới hạn, khơng gian giới hạn, với những mối  
liên hệ  nhất định. Nên đánh giá sự  vật cần phải xem xét sự  vật với khoảng  
thời gian tồn tại của nó. Cần phê phán chủ  nghĩa chiết trung và thuật ngụy 
biện.

15


Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần qn triệt ngun tắc phát 
triển. Nghĩa là khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận 
động, sự  phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi và chuyển hố của chúng. 
Quan điểm phát triển địi hỏi trong xem xét sự  vật phải tính đến các giai  
đoạn, thời kỳ phát triển của nó. Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức  
và cách tác động thích hợp nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự  phát triển của sự 
vật, tuỳ theo mục đích, lợi ích của chủ thể. Cần chống tư tưởng bảo thủ, trì 

trệ, định kiến trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Thấy được sự  phát  
triển là một q trình khó khăn, phức tạp, mang tính khuynh hướng, nên khi 
đánh giá sự phát triển phải có quan điểm lịch sử ­ cụ thể. Nghĩa là, khi nhận 
thức và tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hồn cảnh lịch sử ­ cụ 
thể, mơi trường cụ thể mà sự vật đó sinh ra, tồn tại và phát triển.
Việc nghiên cứu, nắm vững và vận dụng sáng tạo những kiến thức lơgic 
học nói chung, mối quan hệ giữa lơgic hình thức và lơgic biện chứng nói riêng  
sẽ có vai trị và ý nghĩa rất lớn đối với q trình rèn luyện và phát triển tư duy 
của đối với học viên sau đại học. Sự kết hợp giữa lơgic biện chứng và lơgic 
hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tư duy phát triển một cách tồn diện, 
giúp chúng ta nhận thức được đầy đủ và chính xác sự vận động, biến đổi và 
sự phát triển liên tục của thực tiễn cuộc sống. Để cho tư duy của người học 
phát triển một cách liên tục, cân đối về mặt lơgíc thì q trình tư duy tất yếu 
phải được điều khiển, định hướng và kiểm tra một cách có ý thức bởi những  
quy tắc, quy luật và những u cầu của cả  lơgic hình thức và lơgic biện  
chứng. 
Tóm lại, lơgic học rất cần thiết cho hoạt động sống của con người. Chỉ 
khi nào nắm vững tri thức lơgic học thì chúng ta mới áp dụng một cách tự giác  
các tri thức ấy vào q trình rèn luyện, phát triển tư duy lơgic. Đặc biệt trong  
lĩnh vực hoạt động qn sự việc rèn luyện, phát triển tư duy lơgic nhằm phản  
ánh chính xác đối tượng khơng phạm lỗi lơgic, có sức thuyết phục đối với  
16


người chỉ  huy có vai trị hết sức quan trọng góp phần bảo vệ  vững chắc Tổ 
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
                   

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.1994.
2. Giáo trình lơgic học, Nxb QĐND, H, 2005.
3. PGS.TS. Lê Dỗn Tá, GS.TS Tơ Duy Hợp, PGS.TS Vũ Trọng Dung  
(Đồng chủ  biên),  Giáo trình Lơgíc học và phương pháp nghiên cứu khoa  
học, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.2013.
4. PGS. TS. Võ Văn Thắng,  Giáo trình Lơgíc học biện chứng,  Nxb 
CTQG, H.2014.
5. V.I.Lênin, Tồn tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, M.1981.
6. Vũ Ngọc Pha, Lơgíc học (Viện đại học mở), Nxb Thống kê, H.2012.
  

18



×