Mối quan hệ giữa lơgíc hình thức và lơgíc biện chứng. Ý nghĩa đối
với việc phát triển tư duy cho học viên đào tạo sau đại học.
* Sự hình thành và phát triển của lơgic học hình thức và lơgic học
biện chứng.
Nhân loại bắt đầu suy nghĩ theo những quy luật của lơgic từ rất lâu
trước khi những quy luật này được khoa học khám phá ra. Nhưng đó chỉ là cái
lơgic tự phát, kinh nghiệm. Nói cách khác, tư duy hay suy nghĩ của con người
khi đó chưa trở thành đối tượng của nhận thức khoa học. Tro
ng xã hội chiếm hữu nơ lệ, khi mà hoạt động của đời sống xã hội đã được
mở rộng, nhận thức khoa học được hình thành, q trình tranh luận, thảo luận
thời kỳ dân chr thành Aten địi hỏi khơng thể hạn chế ở kinh nghiệm tự phát,
mà nghiên cứu những ngun lý của tư duy chính xác, của những chứng minh,
luận luận với cấu tạo của khái niệm, phán đốn... một cách đúng đắn. Lơgic
hình thức ra đời trong điều kiện hồn cảnh lịch sử đó.
Những người đầu tiên nghiên cứu những vấn đề của lơgic học là các nhà
triết học duy vật như Hêraclít (khoảng 540480 tr.CN), Đêmơcrit (khoảng 460
– 370 tr.CN). Ngay từ buổi đầu xuất hiện, lơgic học đã được coi là một bộ
phận cấu thành tri thức triết học. Thuỷ tổ của khoa học lơgic là nhà tư tưởng
Hy lạp cổ đại Arixtốt (384322 tr.CN).
Trên cơ sở tổng kết những hạt nhân của các trường phái học thuật trước
đó, Arixtốt đã xây dựng hệ thống các ngun lý, quy luật, phương pháp và
phát triển tiếp tục cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành. Các tác phẩm thuộc
phạm vi lơgic học được tập hợp lại thành bộ sách “Organơng” (bộ cơng cụ,
phương pháp nghiên cứu), với 6 tác phẩm:
1. Phạm trù, thực chất là học thuyết về khái niệm, hình thức cơ bản của tư
duy.
2. Lý giải, trình bày học thuyết về phán đốn, hình thức cơ bản của tư duy.
1
3. Phân tích (I), học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản của suy luận
diễn dịch.
4. Phân tích (II), học thuyết về chứng minh, hình thức cơ bản của chứng
minh.
5. Thuật tranh biện, học thuyết về phép biện chứng với ý nghĩa là nghệ
thuật tranh luận.
6. Bác bỏ ngụy biện, phê phán những khuynh hướng lạm dụng phép biện
chứng.
Theo Arixtốt, cơ sở của tư duy đúng đắn (nghĩa là đạt tới chân lý khách
quan) trước hết phải tn theo các quy luật cơ bản: quy luật đồng nhất, quy
luật cấm mâu thuẫn, quy luật loại trừ cái thứ ba. Thành tích suất sắc của
Arixtốt là xây dựng học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản nhất của
suy lý diễn dịch, với những cầu hình, cách thức và quy tắc của có, mà lơgic
học hình thức sau này chỉ cịn là sự hồn thiện để vận dụng. Arixtốt đã bao
qt được tồn bộ phạm vi, thực chất là đối tượng của logic học, đặt nền
móng cho khoa học logic phát triển trong nhiều thế kỷ sau.
Có thể khẳng định rằng, Arixtốt đã có cơng đầu trong việc chỉ ra bản
chất, kết cấu bên trong của tư duy và đã rút ra từ nội dung hiện thực của suy
nghĩ những hình thức lơgic. Theo ơng, những quy tắc, quy luật lơgic khơng
phải là cái tuỳ tiện đặt ra mà có nguồn gốc khách quan là xuất phát từ thế
giới hiện thực, cịn khoa học lơgic là khoa học về sự khẳng định chân lý và
bác bỏ những phán đốn sai lầm, xun tạc tình hình thực tế của sự vật, hiện
tượng.
Tuy nhiên, trong logic học của Arixtốt có nhiều nhân tố biện chứng liên
hợp với siêu hình học. Ơng đã chống lại học thuyết về tính mâu thuẫn của sự
vật do Hêraclít nêu ra, do đó, lơgic học của Arixtốt đã bị các nhà triết học kinh
viện thời kỳ trung cổ lợi dụng như một cơng cụ chững minh cho quan điểm
của thần học, Organon đã biến thành Canon (luật lệ)
2
Từ thế kỷ XVII về sau, do sự phát triển của công nghiệp, của hàng hải
và thương mại đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển khá mạnh của lôgic học
quy nạp mà người sáng lập là F.Bêcơn (15611626). Với tư cách là một
phương pháp mới, lơgic học quy nạp đã rút ra những ngun lý chung, quy
luật phổ qt từ những tri thức kinh nghiệm.
Nhu cầu nhận thức khoa học khơng dừng lại ở phương pháp quy nạp mà
cịn thúc đẩy phương pháp diễn dịch ra đời và phát triển. Với phương pháp
này, nhà triết học Pháp R. Đềcáctơ (15961650) đã đưa lơgic học phát triển
thêm một bước, đạt được những thành tựu mới. Từ đó, lơgic học được coi là
vũ khí nhận thức "sắc bén" của mọi khoa học. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ
XVIII, phép siêu hình đã xun tạc đối tượng và tính chất của các quy luật
lơgic học hình thức.
Lơgic diễn dịch nói riêng và lơgic hình thức nói chung có một bước phát
triển mới từ sau cơng trình của G. Labnít (16461716). Ơng đã hồn thiện hệ
thống quy luật cơ bản của logic hình thức với sự bổ sung quy luật tứ tư – lý
do đầy đủ. Đặc biệt là ơng chủ trương xây dựng ngơn ngữ hình thức hóa để
chính xác hóa các phát biểu và q trình lập luận, thực chất là muốn ký hiệu
hóa và tốn học hóa các mơ hình lập luận lơgic. Lơgic tốn là một thành tựu to
lớn trong sự phát triển của khoa học lơgic. Nó khắc phục tính khơng chính
xác, khơng rõ ràng trong ngơn ngữ, đặc biệt là nó khơng thỏa mãn với hệ logic
lưỡng trị (đúng sai), mà vươn lên hệ đa trị “hơn hay kém”, “gần đúng hay
gần sai”.. nhờ đó mà những suy lý lơgic được mở rộng hơn và đầy đủ hơn về
những kết luận logic. Cũng chính nhờ q q trình hình thức tốn hóa lơgic
mà logic hình thức phát triển ngày một xích lại gần logic biện chứng.
Sự ra đời và phát triển của lơgic biện chứng.
Khơng hài lịng với lơgic học truyền thống, nhà triết học người Đức
Cantơ đã sáng lập lên một kiểu lơgic học mới: lơgic học tiên nghiệm. Theo
lơgic học này thì mọi hình thức của lơgic được coi là những thuộc tính tiên
3
nghiệm (có trước kinh nghiệm) của lý trí. Những thuộc tính này quyết định
khả năng hiểu biết chung nhất về hiện tượng của kinh nghiệm.
Hêghen (17701831) nhà triết học vĩ đại người Đức đã có cơng xây
dựng phép biện chứng duy tâm khách quan như là phương pháp cơ bản của tư
duy, của nhận thức. Để làm được việc đó, ơng đã phê phán tỉ mỉ lơgic học tiên
nghiệm và thuyết bất khả tri của Cantơ, đồng thời chỉ ra hạn chế của lơgic
học hình thức nói chung. Song, Hêghen đã đứng trên lập trường duy tâm để
phê phán lơgic hình thức và đã quy nó về lơgic học siêu hình. Vì thế, ơng cho
rằng, lơgic hình thức khơng thể trở thành thứ lơgic học phổ biến, khơng thể
áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của hiện thực. Trong tác phẩm “khoa học
lơgic” của mình, ơng đã khám phá ra mâu thuẫn nền tảng giữa lý thuyết
lơgic hiện có với thực tiễn hiện thực của tư duy và tìm ra phương thức giải
quyết các mâu thuẫn ấy. Với sự khám phá này, ơng đã góp phần thúc đẩy
lơgic học tiến lên. Tuy nhiên, việc phủ nhận lơgic học truyền thống, Hêghen
đã giáng một địn rất mạnh vào lơgic học hình thức, kìm hãm căn bản sự phát
triển tiếp theo của nó.
Những vấn đề của lơgic biện chứng, mối quan hệ giữa nó với lơgic hình
thức đã được C.Mác và Ph.Ăngghen giải quyết một cách khoa học trong các
tác phẩm của mình. Hai ơng khơng phủ nhận ý nghĩa của lơgic học hình thức,
khơng coi nó là vơ nghĩa, nhưng nhấn mạnh vai trị và ý nghĩa lịch sử của nó.
Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra sự khác biệt về chất giữa học
thuyết biện chứng của mình với học thuyết biện chứng Hêghen. Ph.Ăngghen
chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa lơgic hình thức và lơgic biện chứng như là mối
quan hệ giữa tốn học sơ cấp và tốn học cao cấp. Tuy nhiên, những cơng
trình chun về lơgic biện chứng vẫn chưa được C.Mác, Ph.Ăngghen viết ra.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen về lĩnh vực này, V.I.Lênin đã
đưa lơgic học biện chứng phát triển lên tầm cao mới. Trong tác phẩm "Lại
bàn về cơng đồn...", V.I.Lênin đã chỉ ra sự khác nhau có tính ngun tắc giữa
4
lơgic hình thức và lơgic biện chứng. Đồng thời, lần đầu tiên V.I.Lênin đưa ra
các ngun tắc cơ bản mang ý nghĩa phương pháp luận để định hướng cho
chủ thể trong nhận thức và hành động, đó là các ngun tắc: xem xét sự vật,
hiện tượng một cách khách quan, tồn diện, lịch sử cụ thể, phát triển và thực
tiễn.
Đương nhiên các ngun tắc trên đây chưa phải là tồn bộ nội dung của
lơgic biện chứng. Song, đây là những ngun tắc cơ bản, trong bất luận trường
hợp nào, nếu vi phạm những ngun tắc này, tất yếu nhận thức sẽ rơi vào sai
lầm. Giai đoạn sau Lênin đến nay, lơgic học đã có những bước tiến dài, đã
xuất hiện lơgic tốn... và việc ứng dụng nó rất rộng rãi vào tin học, vào khoa
học, cơng nghệ và đã thu được những thành quả nhất định. ở Liên Xơ (cũ) đã
xuất hiện hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về lơgic học, nhất là lơgic học
biện chứng. Ngày nay, đang có những nhân tố mới kích thích lơgic học biện
chứng phát triển.
* Mối quan hệ giữa logic học hình thức và logic học biện chứng
Ta thấy rằng, để rút ra được mối quan hệ giữa logic học hình thức và
logic học biện chứng, trước hết ta cần phải xem xét sự giống và khác nhau
giữa hai hình thức này.
Sự giống nhau:
Thứ nhất, cả logic học hình thức và logic học biện chứng đều là sự phản
ánh hiện thực khách quan ở những cấp độ khác nhau bằng những hình thức và
quy luật.
Thứ hai, đều sử dụng những hình thức của tư duy là khái niệm, phán
đốn, suy luận… để phản ánh sự vật.
Sự khác nhau:
Khoa học logic hình thức:
Đối tượng của lơgic hình thức là nghiên cứu hình thức và quy luật, quy
tắc đảm bảo cho tư duy chính xác. Đó là những mối liên hệ vững bền giữa các
5
yếu tố của sự suy nghĩ chính xác mang tính quy luật, cùng với việc mơ tả hình
thức kết cấu của tư duy. Để vạch ra những mối liên hệ vững chắc, có tính quy
luật giữa những hình thức, kết cấu của tư duy khoa học, logic hình thức phải
trừu tượng hóa nội dung suy nghĩ, tách hình thức ra khỏi nội dung cụ thể của
suy nghĩ.
Các quy luật cơ bản của tư duy logic hình thức là quy luật đồng nhất,
quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật bài chung và quy luật lý do đầy đủ. Bốn
quy luật phản ánh những mối liên hệ xác định của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan, có ý nghĩa phổ biến đối với mọi suy nghĩ của con
người, thể hiện rõ nhưng u cầu về tính chính xác của hình thức tư duy.
Nếu khơng tn theo những u cầu, những quy tắc, những quy luật đó, tư
duy sẽ phạm lỗi logic và khơng thể đạt tới tri thức chân thực. Đồng thời, giúp
con người nâng cao trình độ tư duy, rèn luyện khả năng tư duy logic, bảm
đảm cho tư duy đạt độ chính xác, chặt chẽ, nhất qn, có căn cứ và khơng
mâu thuẫn.
Phương pháp cơ bản sử dụng trong nghiên cứu lơgic hình thức là phương
pháp hình thức hố. Hình thức hố là phương pháp để vạch ra những mối liên
hệ vững chắc, có tính quy luật giữa các yếu tố cấu thành tư tưởng và cụ thể
hố nó thành những quy tắc, cơng thức, những sơ đồ lơgic nhằm bảo đảm tính
cân đối, liên tục, chính xác của tư duy. Phương pháp hình thức hố dựa trên
cơ sở trừu tượng hố nội dung tư tưởng, tách hình thức ra khỏi nội dung để
nghiên cứu, để tìm ra, ghi lại cơ cấu lơgic, hình thức lơgic của tư tưởng. Tuy
nhiên, phương pháp hình thức hố khơng chỉ có khoa học lơgic hình thức sử
dụng mà cịn được sử dụng rộng rãi ở một số khoa học khác theo u cầu
riêng của nó. Ngồi phương pháp hình thức hố nêu trên, khoa học lơgic hình
thức cịn sử dụng một số phương pháp khác như phân tích, trừu tượng hố,
khái qt hố...
Cịn đối với logic học biện chứng:
6
Đối tượng của lơgic học biện chứng nghiên cứu những quy luật và các
hình thức của tư duy (khái niệm, phán đốn, suy luận…) và những quy luật
nhận thức chân lý trên quan điểm biện chứng, tức là xem xét chúng trong mối
liên hệ, chuyển hóa, trong sự vận động và phát triển. Bởi vì, thế giới vật chất
ln ở trong q trình vận động, biến đổi và phát triển, cho nên những hình
thức của tư duy đều phải dựa trên cơ sở đó, nghĩa là phải lấy ngun lý phát
triển làm cơ sở.
Những quy luật lơgic học biện chứng đó là quy luật những sự thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và
đấu tranh các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định. Đây là những quy
luật phát triển của tư duy từ cái bên ngồi đi vào cái bên trong, từ hiện tượng
đi tới cái bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ trực
tiếp đến gián tiếp, từ trừu tượng đến cụ thể, từ chân lý tương đối đến chân
lý tuyệt đối.
Từ đối tượng cơ bản như vậy, nhiệm vụ của lơgic học biện chứng cơ
bản, trung tâm của khoa học logic biện chứng đó là:
Thứ nhất, logic biện chứng nghiên cứu sự cần thiết, cách thức thể hiện
như thế nào trong khái niệm, trong phán đốn… về sự vận động, phát triển
hay những mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng, những biến đổi về
chất hay sự chuyển hóa cái này thành cái khác của chúng. Đây chính là nhiệm
vụ trung tâm của logic biện chứng. Trong sự biểu đạt khoa học của mình,
lơgic biện chứng xuất hiện như là một bộ phận của triết học mácxít.
Thứ hai, logic biện chứng nghiên cứu bản chất biện chứng của các
phạm trù logic, tính linh hoạt, tính mềm dẻo của chúng đi đến tính đồng nhất
của các mặt đối lập. Phép biện chứng chính là một học thuyết lơgic, vì chúng
nghiên cứu chức năng nhận thức, là lơgic của những quy luật phổ biến và
những phạm trù của sự phát triển.
7
Ba là, lơgic biện chứng nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của
bản thân nhận thức. Lơgic biện chứng dựa trên lịch sử của nhận thức, đó là
sự phát triển khái qt của tư duy, của lịch sử thực tiễn xã hội lồi người.
Có thể nói, lơgic học biện chứng là cơ sở lơgic chung của nhận thức con
người, là lý luận lơgic chung mà dựa vào đó con người ta có thể và cẩn phải
có giải thích tất cả những lý luận lơgic riêng biệt và cụ thể, giải thích ý nghĩa
và cai trị của những lý luận ấy.
Lơgic học hình thức và lơgic học biện chứng là hai ngành khoa học đều
nghiên cứu tư duy, đều phản ánh hiện thực khách quan. Song có sự khác nhau
căn bản về đối tượng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu.
Lơgic hình thức nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy nhằm bảo
đảm tính đúng đắn, chặt chẽ và nhất qn trong suốt q trình tư duy, trừu
tượng hóa nội dung, thì lơgic biện chứng nghiên cứu các hình thức và quy luật
của tư duy biện chứng, nó chủ yếu quan tâm đến tính biện chứng về nội dung
của tư duy.
Ví dụ: Trong phân tích về khái niệm:
Đối với Lơgíc học hình thức, khái niệm là sự thống nhất giữa nội hàm và
ngoại diên, nó khơng chứa đựng mâu thuẫn. Còn đối với lơgíc học biện
chứng, khái niệm bao hàm mâu thuẫn. Đây chính là tiền đề, là cơ sở của hình
thức và phương pháp tư duy. Trong Lơgíc học hình thức, “nội hàm khái niệm
là tập hợp tất cả những dấu hiệu chung của lớp đối tượng được phản ánh
trong khái niệm”1. Trong khi đó Lơgíc học biện chứng quan niệm rằng: “ nội
hàm của khái niệm phản ánh bản chất, mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật
của sự vật, hiện tượng mà khái niệm đó phản ánh và bao qt” 2. Như vậy,
theo cách hiểu này, nội hàm khái niệm khơng phụ thuộc số lượng dấu hiệu,
đặc điểm mà phụ thuộc trình độ thâm nhập vào bản chất, quy luật của hiện
thực khách quan, khi nhận thức càng phát triển, mức độ khái qt càng cao thì
1, 2 PGS.TS Võ Văn Thắng, Giáo trình Lơgíc học biện chứng, Nxb CTQG, H.2014, tr.68, tr.44.
1
2
8
nội hàm phong phú hơn.
Lơgic học hình thức xem xét các hình thức của tư duy qua việc phản ánh
sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách rời, đứng im tương đối, ổn định tạm
thời, do vậy nó dựa trên cơ sở tính đồng nhất, trừu tượng của các khái niệm,
phạm trù cố định. Trong khi đó, logic học biện chứng xem xét các hình thức
của tư duy qua sự phản ánh các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ, trong
trạng thái mâu thuẫn, vận động, chuyển hóa và phát triển. Cho nên, nó dựa trên
cơ sở tính đồng nhất, cụ thể là các phạm trù biến đổi. Do vậy, nó phản ánh
sinh động hiện thực khách quan. V.I.Lênin nhận xét: Những quan hệ (=chuyển
hóa = mâu thuẫn) của những khái niệm = nội dụng chủ yếu của lơgic, hơn
nữa những khái niệm ấy (và những quan hệ, chuyển hóa và mâu thuẫn của
chúng) đều được trình bày như là những phản ánh của thế giới khách quan.
Ta thấy rằng, logic hình thức xem xét hình thức và quy luật của tư duy
khơng tính đến điều kiện lịch sử xã hội, văn hóa,… cịn logic học biện chứng
xem xét hình thức và quy luật của tư duy trên quan điểm thực tiễn, tồn diện,
lịch sử, cụ thể, biến đổi và phát triển… logic học biện chứng xem thực tiễn
là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý.
Ví dụ: Trong phân tích về suy luận
Lơgic hình thức nghiên cứu kết luận chủ yếu về mặt kết cấu, hình thức
nối tiếp nhau của những luận đề này từ những luận đề khác, trong khi đó
nhiệm vụ chủ yếu của lơgic biện chứng là nghiên cứu vấn đề theo quan điểm
xây dựng kết luận như thế nào từ nội dung phong phú, phức tạp của hiện
thực.
A.G. Nơvicốp cho rằng, logic học biện chứng khác về căn bản với lơgic
học hình thức và lơgic tốn. Nó sử dụng phương pháp chính thức nghiên cứu
các hình thức tư tưởng trong sự trừu tượng nội dung và lịch sử phát triển của
nhận thức trong tất cả các mâu thuẫn của nó. Lơgic học biện chứng phân tích
những mâu thuẫn biện chứng của sự vật, ý tưởng và sự phát triển của nhận
9
thức. Nó là một phương pháp khoa học của nghiên cứu thực tế và chính sự
suy nghĩ.
Như vậy, lơgic hình thức và lơgic biện chứng thống nhất trong sự khác
biệt, có mối quan hệ chặc chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện:
Như Ph.Ăng ghen đã so sánh quan hệ giữa lơgic hình thức với lơgic biện
chứng giống như quan hệ giữa “một thứ tốn học cao cấp” của tư duy so với
“một thứ tốn học sơ cấp của tư duy ”: “Phép biện chứng, phá vỡ chân trời
nhỏ hẹp của lơgíc hình thức, đồng thời lại chứa đựng mầm mống của một
thế giới quan rộng lớn hơn. Trong tốn học cũng có mối quan hệ như vậy.
Tốn sơ cấp, tức là tốn học về những số khơng đổi, tự vận động, ít ra là về
tồn bộ, trong những giới hạn của lơgíc hình thức; cịn tốn học về các số
biến mà phần quan trọng nhất là tính những đại lượng vơ cùng bé, thì căn
bản chỉ là áp dụng phép biện chứng vào các quan hệ tốn học mà thơi”3.
Lơgic hình thức là khoa học tư duy xây dựng trên cơ sở của tính đồng
nhất trừu tượng của những phạm trù cố định, cịn lơgic biện chứng là khoa
học tư duy xây dựng trên cơ sở tính đồng nhất cụ thể của các phạm trù biến
đổi, “cơ sở khách quan của mối quan hệ biện chứng giữa lơgíc biện chứng và
lơgíc hình thức chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự vận động là tuyệt
đối, vĩnh cừu và sự đứng im là tạm thời tương đối của mọi sự vật hiện tượng
của thế giới vật chất”4.
Mối quan hệ biện chứng giữa lơgíc hình thức và lơgíc biện chứng được
thể hiện rõ rệt nhất là ở chỗ: Chúng bổ sung cho nhau. Những quy tắc, quy
luật của lơgíc hình thức là những quy tắc cơ bản mà mọi tư duy đúng đắn kể
cả tư duy biện chứng phải tn theo, chúng là điều kiện cần để phản ánh
đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan. Nếu vi phạm các quy tắc, quy
luật của lơgíc hình thức, thì trong q trình nhận thức sẽ dẫn đến mâu thuẫn
lơgíc tức là mâu thuẫn do sai lầm chủ quan của con người trong q trình
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Nxb CTQG, H.1994, tr.20, tr.192.
Vũ Ngọc Pha, Lơgíc học( Viện đại học mở), Nxb Thống kê, H.2012, tr.175.
3
4
10
nhận thức làm cho tư duy rối loạn, phá hoại tính chính xác của tư tưởng. Để
phản ánh đúng đắn, chân thực hiện thực khách quan, phát hiện tri thức mới, tìm
ra chân lý, thì q trình nhận thức trước hết phải tn theo những quy tắc và quy
luật của lơgíc hình thức, loại trừ mâu thuẫn lơgíc, trên cơ sở đó vận dụng
phương pháp tư duy biện chứng các hình thức và quy luật của lơgíc biện chứng
mới có thể đạt tới chân lý khách quan.
Tuy nhiên, khơng nên quan niệm rằng, lơgic hình thức là trình độ thấp
của sự nhận thức thế giới, chỉ nên áp dụng đối với những hiện tượng sơ
đẳng, hoặc đồng nhất lơgic hình thức với phép siêu hình và chỉ dùng trong
“sinh hoạt thơng thường”; cũng khơng nên quan niệm có lơgic biện chứng rồi
thì khơng cần đến lơgic hình thức. Ngược lại, lơgic biện chứng địi hỏi sự tư
duy lơgic cân đối và tn thủ nghiêm ngặt quy luật, quy tắc của khoa học
lơgic hình thức. Có như vậy, chúng ta mới tìm ra được kết luận mới. Khẳng
đinh vai trị to lớn của khoa học lơgic hình thức. V.I.Lênin cho rằng, phương
pháp lơgic là một khâu cần thiết của nhận thức; khơng một khoa học nào có thể
bỏ qua. Khơng có khoa học lơgic hình thức khơng thể phát hiện ra quy luật,
khơng thể xây dựng lý luận, học thuyết.
Đã có quan niệm rằng, khoa học lơgic hình thức là lơgic học sơ cấp. Tên
gọi này biểu hiện đúng đắn bản chất và vai trị nhận thức của lơgic hình thức.
Song, khơng nên cho rằng, sơ cấp là thấp, là khơng quan trọng, mà đây là sự
khởi đầu, là cơ sở, là yếu tố bắt buộc, một mắt khâu khơng thể thiếu của q
trình nhận thức.
Với vai trị tích cực của nó, lơgic hình thức đã có lý do để tồn tại và phát
triển với tư cách là một khoa học độc lập xun suốt lịch sử khoa học từ xưa
đến nay. Song, lơgic hình thức cũng có những hạn chế của nó. Ngồi hạn chế
lịch sử, chúng ta cần lưu ý những hạn chế về ngun tắc của lơgic hình thức.
Điều dễ thấy là các quy luật của lơgic hình thức khơng bao qt hết tồn bộ các
quy luật lơgic của tư duy đang nhận thức và khơng phải là loại hình quy luật
11
lơgic của sự hình thành và phát triển của tư duy. Phản ánh tư duy đang nhận
thức và các quy luật vận động, phát triển của thế giới hiện thực khách quan là
nhiệm vụ của lơgic biện chứng.
Lơgic biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật biện chứng
của tư duy nhằm phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển của thế giới
khách quan. Nhờ đó, nó khắc phục “tầm chật hẹp” của lơgic hình thức, qua
đó vạch ra hình thức lơgic trong sự thống nhất với nội dung cụ thể của suy
nghĩ, của tư tưởng.
Lơgic biện chứng khơng thủ tiêu lơgic hình thức mà chỉ tước bỏ ý nghĩa
tuyệt đối của những quy luật của lơgic hình thức mà thơi, đồng thời nâng tư
duy lên tầm cao hơn. Rõ ràng, lôgic biện chứng không những chỉ “sống
chung” với lơgic hình thức mà cịn nhấn mạnh sự cần thiết của lơgic hình
thức và khẳng định dứt khốt rằng, nếu khơng nghiên cứu lơgic hình thức thì
khơng thể nào lĩnh hội được phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Do
vậy, việc học tập, rèn luyện tư duy biện chứng, trước hết phải học suy nghĩ
chính xác ở mức độ sơ cấp, khơng được vi phạm những quy luật, quy tắc
của lơgic hình thức.
Lơgic học biện chứng ra đời là một bước phát triển về mặt tư duy. Song,
nó khơng phải là sự thủ tiêu lơgic học hình thức. Trái lại, lơgic học biện
chứng cho phép xác nhận vị tri quan trọng của lơgic học hình thức và sự cần
thiết của nó trong nghiên cứu khoa học cũng như trong cuộc sống.
Ph.Ăngghen cho rằng, khoa học về tư duy cũng như bất kỳ khoa học nào
khác, là khoa học lịch sử, khoa học về sự phát triển lịch sử của tư duy con
người.
Cần lưu ý, lơgic học biện chứng và lơgic học hình thức là hai ngành khoa
học khơng mâu thuẫn, khơng loại trừ nhau. Trong sự phát triển của mỗi ngành
khoa học, chúng bổ sung cho nhau và đều rất cần thiết cho nhận thức và
nghiên cứu khoa học. Mỗi ngành khoa học có ưu điểm và hạn chế nhất định
12
và có phạm vi ứng dụng riêng. Vì vậy, khơng nên phủ nhận hoặc cem nhẹ
một ngành khoa học nào. Việc nắm vững hai ngành khoa học này, từ đó vận
dụng vào q trình nhận thức sẽ cho phép phản ánh chính xác, đầy đủ, khách
quan và tồn diện hiện thực khách quan.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu lơgíc học đối với học viên sau đại học.
Lơgic học là một khoa học có vai trị quan trọng cần thiết cho mọi người.
Điều này đã được nhiều nhà triết học khẳng định. Lépnít cho rằng, nếu các
nhà khoa học nhiệt tình nghiên cứu lơgic học như những nhạc sỹ nghiên cứu
âm nhạc thì họ có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu. Mintơ khẳng định: sứ
mệnh cao cả của lơgic học là giữ gìn cho trí tuệ tránh khỏi các sai lầm. Đề
cao vai trị của lơgic học, Hêghen viết: khơng nghi ngờ gì nữa nghiên cứu
lơgic học mang đến nhiều điều bổ ích, lơgic học làm cho sáng trí tuệ, giúp con
người tinh khơn.
Việc nắm chắc đặc điểm của lơgic hình thức, logic biện chứng và mối
quan hệ giữa hai hình thức tư duy này có ý nghĩa to lớn đối với học viên nói
chung và học viên cao học nói riêng.
Việc nghiên cứu lơgic học giúp tư duy của học viên chủ động, tự giác và
thơng minh hơn. Việc tn thủ và rèn luyện các quy luật và hình thức của
lơgic giúp cho người học tìm kiếm những con đường ngắn nhất, đúng nhất và
hiệu quả nhất để đạt đến chân lý trong q trình học tập. Giúp chúng ta phát
hiện những sai lầm lơgic của chúng ta và người khác, cũng như để tránh khỏi
những sai lầm lơgic do vơ tình hay hữu ý phạm phải. Tri thức lơgic học có ý
nghĩa quan trọng trong q trình nắm vững tri thức mới, tìm ra con đường
ngắn nhất để nâng cao trình độ tư duy cũng như phát hiện giả dối, sai lầm,
cảnh báo trước những điều có thể xảy ra, tìm ra và sửa chữa sai lầm nếu mắc
phải.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động đặc thù của học viên cao học,
vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Bởi nắm chắc kiến thức, vận
13
dụng thành thạo các quy luật lơgic chắc chắn sẽ thuận lợi hơn trong việc
nghiên cứu khoa học. Vì trước tiên hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt
động của tư duy. Học tập lơgic là cần thiết, nó giúp cho tư duy con người chủ
động, tự giác góp phần thể hiện tính chính xác, tính triệt để, tính có căn cứ, và
chứng minh được các lập luận, nâng cao hiệu quả và tính thuyết phục của các
tư tưởng. Việc nghiên cứu lơgic giúp cho con người tìm kiếm con đường
ngắn nhất, đúng đắn và hiệu quả nhất, tránh được những sai lầm lơgic. Việc
nắm chắc các quy luật cùng các hình thức của lơgic có một vị trí quan trọng
trong cuộc sống hàng ngày, trọng hoạt động thực tiễn để nhận thức chân lý
và cải tạo thế giới
Q trình học tập, nghiên cứu khoa học, để có thể xây dựng hệ thống
khái niệm, phạm trù trong mỗi bài viết, trong luận văn địi hỏi người học
phải nắm chắc các quy luật, các quy tắc và những u cầu của lơgic hình
thức; để trên cơ sở đó khái qt hố các thuộc tính, bản chất của đối tượng
nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở lơgic hình thức thì chưa đủ, chưa
phản ánh hết tính chân thực và phong phú của đối tượng nghiên cứu. Và để
giải quyết được vấn đề đó địi hỏi người học phải tư duy ở trình độ cao hơn,
đó chính là tư duy biện chứng. Nói cách khác, đồng thời với việc bảo đảm
tính chính xác và chặt chẽ mà lơgic hình thức đặt ra, chúng ta phải đặt nó
trong mối quan hệ với lơgic biện chứng để phân tích, luận giải, làm rõ bản
chất vấn đề cần nghiên cứu.
Học viên cao học đang trong q trình tích luỹ kiến thức và bước đầu
nghiên cứu khoa học, nhằm nâng cao khả năng hệ thống hố, khái qt hố và
trừu tượng hố; từ đó hình thành tư duy lơgic và khả năng phát hiện, xử lý
thơng tin. Do vậy, việc nắm vững mối quan hệ giữa lơgíc hình thức và lơgic
biện chứng sẽ giúp cho họ tránh được những sai lầm trong định hướng trí tuệ,
giúp tư duy phát triển đúng quy luật, ln chủ động, tự giác; góp phần thể
hiện tính chính xác, tính triệt để, tính có căn cứ của các lập luận, nâng cao
14
hiệu qủa và tính thuyết phục của các quan điểm.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay, địi hỏi học viên cao
học triết học cần nắm vững tư duy lơgic. Bởi lẽ, chính nó là cơng cụ sắc bén
để vạch rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn cùng những luận điệu xun tạc, vu
cáo của kẻ thù; qua đó góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng.
Nắm chắc được những ngun tắc, quy luật của khoa học lơgic, nhất là
những ngun tắc phương pháp luận của lơgic biện chứng có vai trị quan
trọng đối với học viên cao học trong nhận thức và cải tạo sự vật hiện tượng,
nhất là đánh giá đúng bản chất của các vấn đề trong đời sống xã hội. Hệ
thơng ngun tắc phương pháp luận lơgic biện chứng đó là: khách quan, tồn
diện, lịch sử cụ thể và phát triển.
Cần có quan điểm tồn diện trong nhận thức, xem xét các sự vật hiện
tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu, khi nghiên cứu sự vật
phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thân sự vật và với các sự vật
khác. Đồng thời, xem xét toàn diện nhưng khơng dàn đều mà phải có trọng
tâm, trọng điểm, xem xét tồn diện mối liên hệ bản thân sự vật, để đảm bảo
tính đồng bộ, tính hệ thống trong giải quyết những vấn đề của cuộc sống,
tránh sai lầm, phiến diện, tuyệt đối hố một mặt nào đó. Trong hoạt động
thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi, muốn cải tạo sự vật, phải sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động làm thay
đổi các mối liên hệ tương ứng.
Trong thực tiễn cần có qn triệt quan điểm lịch sử cụ thể, vì sự vật
tồn tại trong khoảng thời gian giới hạn, khơng gian giới hạn, với những mối
liên hệ nhất định. Nên đánh giá sự vật cần phải xem xét sự vật với khoảng
thời gian tồn tại của nó. Cần phê phán chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện.
15
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần qn triệt ngun tắc phát
triển. Nghĩa là khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận
động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi và chuyển hố của chúng.
Quan điểm phát triển địi hỏi trong xem xét sự vật phải tính đến các giai
đoạn, thời kỳ phát triển của nó. Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức
và cách tác động thích hợp nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sự
vật, tuỳ theo mục đích, lợi ích của chủ thể. Cần chống tư tưởng bảo thủ, trì
trệ, định kiến trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Thấy được sự phát
triển là một q trình khó khăn, phức tạp, mang tính khuynh hướng, nên khi
đánh giá sự phát triển phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Nghĩa là, khi nhận
thức và tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hồn cảnh lịch sử cụ
thể, mơi trường cụ thể mà sự vật đó sinh ra, tồn tại và phát triển.
Việc nghiên cứu, nắm vững và vận dụng sáng tạo những kiến thức lơgic
học nói chung, mối quan hệ giữa lơgic hình thức và lơgic biện chứng nói riêng
sẽ có vai trị và ý nghĩa rất lớn đối với q trình rèn luyện và phát triển tư duy
của đối với học viên sau đại học. Sự kết hợp giữa lơgic biện chứng và lơgic
hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tư duy phát triển một cách tồn diện,
giúp chúng ta nhận thức được đầy đủ và chính xác sự vận động, biến đổi và
sự phát triển liên tục của thực tiễn cuộc sống. Để cho tư duy của người học
phát triển một cách liên tục, cân đối về mặt lơgíc thì q trình tư duy tất yếu
phải được điều khiển, định hướng và kiểm tra một cách có ý thức bởi những
quy tắc, quy luật và những u cầu của cả lơgic hình thức và lơgic biện
chứng.
Tóm lại, lơgic học rất cần thiết cho hoạt động sống của con người. Chỉ
khi nào nắm vững tri thức lơgic học thì chúng ta mới áp dụng một cách tự giác
các tri thức ấy vào q trình rèn luyện, phát triển tư duy lơgic. Đặc biệt trong
lĩnh vực hoạt động qn sự việc rèn luyện, phát triển tư duy lơgic nhằm phản
ánh chính xác đối tượng khơng phạm lỗi lơgic, có sức thuyết phục đối với
16
người chỉ huy có vai trị hết sức quan trọng góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb CTQG, H.1994.
2. Giáo trình lơgic học, Nxb QĐND, H, 2005.
3. PGS.TS. Lê Dỗn Tá, GS.TS Tơ Duy Hợp, PGS.TS Vũ Trọng Dung
(Đồng chủ biên), Giáo trình Lơgíc học và phương pháp nghiên cứu khoa
học, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.2013.
4. PGS. TS. Võ Văn Thắng, Giáo trình Lơgíc học biện chứng, Nxb
CTQG, H.2014.
5. V.I.Lênin, Tồn tập, tập 29, Nxb Tiến Bộ, M.1981.
6. Vũ Ngọc Pha, Lơgíc học (Viện đại học mở), Nxb Thống kê, H.2012.
18