Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của c mác ý nghĩa của nó đối với hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.18 KB, 40 trang )

Tiểu luận
Lý luận tuần hoàn tư bản và chu
chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó
đối với hoạt động huy động và sử dụng
vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay


LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những thành tựu khoa học kỹ thuật vượt trội
trong các lĩnh vực điện tử - tin học – y học…mở ra một trang mới trong công cuộc
làm chủ thế giới của loài người. toàn nhân loại đang đứng trước những vận hội
mới, thách thức mới. Trong sự ln chuyển mang tính tuần hồn ấy của lồi người.
Việt Nam chúng ta khơng thể nào đứng ngồi cuộc. Hơn một thập kỷ trơi qua kể từ
khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa - bây giờ là nền kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa (KTTT XHCN), chúng ta đã trải qua bao nhiêu khó
khăn thử thách, đồng thời cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp
phát triển nền kinh tế quốc dân. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới mà sự
nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Để thực
hiện nhiệm vụ này, việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả là hết sức
quan trọng. Bởi lẽ vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của
nền kinh tế, nhu cầu về vốn nổi lên như một hoạt động cấp bách.
Thực tế trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận về việc quản lý và sử dụng vốn, song bên cạnh đó cịn tồn tại nhiều bất cập
cần được giải quyết: Tình trạng ứ đọng vốn ở các ngân hàng, thiếu vốn kinh doanh
ở các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn bữa bãi, lãng phí cịn diễn ra phổ biến. Vì
vậy việc nghiên cứu và vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản
của C.Mác để tim ra phương thức huy động và sử dụng vốn hợp lý là hết sức cần
thiết.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH và
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Lý luận
tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối với


hoạt động huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Đề
tài tập trung nghiên cứu thực trạng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cách
thức vận dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào
nền kinh tế và đưa ra một số biện pháp để huy động vốn hiệu quả và nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư. Với đề tài này chúng tôi mong muốn người đọc sẽ hiểu


được tầm quan trọng của lý luận kinh tế chính trị Mác – Lênin và có cái nhìn
khách quan hơn quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay.
Kết cấu đề tài bao gồm hai chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
Chương I: Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác
Chương II: Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tuần hồn và chu chuyển tư
bản đối với q trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.


Chương I
Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản
xuất và q trình lưu thơng của tư bản, giữa q trình tạo ra giá trị thặng dư và
quá trình thực hiện giá trị thăng dư. Bởi vậy sau khi nghiên cứu quá trình sản
xuất cần tiếp tục nghien cứu quá trình lưu thơng của tư bản, xác định rõ vị trí
vai trị của lưu thơng, hiểu ddaayd đủ q trình vận động của tư bản cũng như
quan hệ bóc lột được biểu hiện trong q trình vận động đó.
Lưu thơng tư bản hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình chuyển từ hình thái tiền tệ
sang hình thái hàng hóa và từ hình thái hàng hóa chuyển thành hình thái tiền tệ.
Qua trình đó gồm việc mua hàng hóa (T – H) và bán hàng hóa (H – T) được
diễn ra trên thị trường. Lưu thông của tư bản hiệu hiểu theo nghĩa rộng là sự vận
động của tư bản làm cho tư bản ngày một lớn lên, nhờ đó mà giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn. Sự vận động của tư bản như vậy cũng chính là sự

tuần hoàn và chu chuyển tư bản.

I. Tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động
của người là th.
1. Cơng thức chung của tư bản
1.1 Vị trí của tiền
Lưu thơng hàng hóa là khởi điểm của tư bản. Tiền là sản vật cuối cùng của
lưu thơng hàng hóa, đồng thời cũng là biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc
đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định,nhưng bản thân tiền lại
không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định
khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền có hai phương thức vận động.


Trong lưu thơng hàng hóa giản đơn, tiền được coi là tiền thông thường vận
động theo công thức: H-T-H (hàng-tiền-hàng) nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hóa
thành tiền, rồi tiền lại chuyển thành hàng hóa. Ở đây tiền tệ không phải là tư bản,
mà chỉ là tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó, và chỉ là phương tiện để đạt
tới một mục đích bên ngồi lưu thơng. Người sản xuất hàng hóa bán hàng hóa của
mình lấy tiền tệ, rồi lại dùng tiền tệ đó để mua hàng hóa khác phục vụ cho những
nhu cầu tiêu dùng nhất định của mình. Hay nói cách khác, mục đích của nó là giá
trị sử dụng nên vịng lưu thơng chấm dứt ở giai đoạn mua (T-H) khi những người
trao đổi đã có được những giá trị sử dụng mà họ cần. Nên sự vận động có giới hạn.
Trong lưu thông tư bản tiền được coi là tư bản, vận động theo công thức T-H-T
(tiền- hàng-tiền) tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi hàng hóa lại
chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của nó là giá trị và sự lớn lên của giá trị
là giá trị thặng dư, nên sự vận động của nó khơng có giới hạn vì sự lớn lên của giá
trị là khơng có giới hạn.
1.2 So sánh hai cơng thức H-T-H và T-H-T

Cơng thức lưu thơng hàng hóa giản đơn H – T - H và công thức lưu thông tư
bản T – H - T là biểu hiện của nền sản xuất hàng hóa ở hai mức độ khác nhau.
Nhưng giữa chúng lại có những điểm giống và khác nhau:
Điểm giống nhau: hai công thức lưu thông trên đều cấu tạo bởi hai yếu tố hàng
(H) và tiền (T); đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu
hiện kinh tế giữa người mua và người bán; và đều diễn ra trên thị trường.
Điểm khác nhau: lưu thơng hàng hóa giản đơn (H-T-H): bắt đầu bằng hành vi
bán (H-T) và kết thúc bằng hành vi mua (T-H). Điểm bắt đầu và kết thúc đều là
hàng hóa; tiền chỉ đóng vai trị trung gian, mục đích là giá trị sử dụng. Nhưng
ngược lại trong lưu thông tư bản (T-H-T): bắt đầu bằng hành vi mua (T-H) và kết
thúc bằng hành vi bán (T-H). Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc, cịn
hàng hóa chỉ đóng vai trị trung gian,Tiền ở đây khơng phải là chi ra dứt khoát mà
chỉ là ứng ra thu về. Mục đích của lưu thơng tư bản là giá trị và giá trị lớn hơn.


1.3 Công thức chung của tư bản
Như chúng ta đã biết, mục đích của lưu thơng tư bản khơng phải là giá trị sử
dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu về bằng số
tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó số tiền thu về phải lớn
hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản hay tiền chuyển hóa
thành tư bản theo cơng thức: T-H-T’ trong đó T’=T+ ∆ . ∆T là số tiền trội hơn so
với số tiền đã ứng ra C.Mac gọi là giá trị thặng dư-kí hiệu là m. T ban đầu ứng ra
với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản.
Công thức T-H-T’ với T’=T+m được C.Mac gọi là công thức chung của tư
bản vì vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái qt
đó, dù là tư bản thương nghiệp tư bản cơng nghiệp hay tư bản cho vay, nói cách
khác mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mang lại giá trị thặng dư. Điều này
rất dễ nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động của tư bản thương
nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với cơng thức trên. Tư bản cơng
nghiệp vận động phức tạp hơn nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những giai

đoạn T-H và H-T. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua cũng
chỉ là công thức trên được rút ngắn lại T-T’. C.Mac chỉ rõ: “Vậy T-H-T thực sự là
công thức chung của tư bản đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu
thông.
2. Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
2.1 Mâu thuẫn của cộng thức chung của tư bản
Tại sao q trình lưu thơng lại thu về được T', nguồn gốc thực sự của số tiền
tăng thêm này từ đâu? Nó được tăng lên trong phạm vi lưu thơng hoặc ngồi lưu
thơng.
Trong lưu thơng:
 Trường hợp trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị, cịn tổng
số giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau
vẫn ko thay đổi.


 Trường hợp trao đổi ko ngang giá: có thể xảy ra 3 trường hợp sau. Thứ nhất,
bán hàng hóa cao hơn giá trị: nhà tư bản sẽ đc khi bán cao và sẽ mất khi mua. Thứ
hai là bán hàng hóa thấp hơn giá trị: nhà tư bản sẽ được do mua rẻ & sẽ bị mất khi
bán. Thứ ba là nhà tư bản chuyên mua rẻ, bán đắt. Nhưng xét trong tổng giá trị
tồn xã hội cũng khơng hề tăng lên, ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có
sẵn trong xã hội mà thơi.
Như vậy trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không
tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà TB. Trở lại ngồi lưu thơng chúng ta xem xet
hai trường hợp:
 Xét các yếu tố tiền: nếu tiền làm phương tiện cất trữ, không tiếp xúc gì với
lưu thơng, thì tiền cũng ko tự lớn lên được.
 Xét các yếu tố hàng: nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa
của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy khơng tăng lên
Tóm lại, xét trong lưu thơng hay ngồi lưu thơng với các trường hợp ở trên đều
không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Mâu thuẫn của công thức chung

của tư bản là giá trị thặng dư không được tạo ra trong lưu thông & cũng không thể
xuất hiện bên ngồi lưu thơng. Như C.Mác khẳng định “Vậy là tư bản không thể
xuất hiệ từ lưu thông và cũng khơng thể xuất hiện ngồi lưu thơng.
2.2 Cách thức giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của TB
Các Mác là người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong công thức
của TB bằng lý luận về hàng hóa sức lao động. Sự chuyển hóa của số tiền cần phải
chuyển hóa thành tư bản khơng thể xảy ra rong bản than số tiền đó, mà chỉ có thể
xảy ra ở số hàng hóa được mua vào. C.Mác đã nhận tháy đó khơng phải là một
hàng hóa thơng thường mà là một hàng hóa đặc biệt mà giá trị của nó là nguồn gốc
tạo ra giá trị thặng dư. Thứ hàng hóa đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy
trên thị trường.
Sức lao động là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong than thể một con người
trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực con người phải làm cho
hoạt động để sản xuất ra những vật có ích. Nhà TB khi đưa tiền vào lưu thơng đã


dùng tiền mua được hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động, để sử dụng nó
(khơng phải bán nó), sẽ tạo ra giá trị thặng dư cho nhà TB. Hàng hóa đặc biệt này
có đặc điểm về giá trị sử dụng là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư
bản. Sử dụng hàng hóa sức lao động tức là q trình người cơng nhận tiến hành lao
động, là sự kết hợp sức lao động của công nhân với tư liệu sản xuất; trong quá trình
lao động = lao động trừu tượng - sự hao phí thể lực , trí lực mới sẽ tạo giá trị mới
cho hàng hóa, lượng giá trị mới này lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Tóm lại tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bó lột sức lao động
của cơng nhân làm th. Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản là: Tư bản
không thể xuất hiện từ lưu thông cũng không thể xuất hiện ngồi lưu thơng. Nó
phải xuất hiện trong lưu thông đồng thời không phải trong lưu thông. Bằng việc chỉ
ra hàng hóa sức lao động C.Mác đã giải quyết được mâu thuẫn trong công thức
chung của tư bản.


3. Lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản.
1. Lý luận tuần hoàn tư bản
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn,
lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thể hiện ba chức năng khác nhau để rồi quay
trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
1.1 Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hóa hình thái của tư
bản.
Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn tại
dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng.Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất
hiện trên thị trường với tư cách người mua, thực hiện hành vi T - H, tức là
mua.Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua, tức
tiến hành sản xuất, kết quả là nhà tư bản có được một hàng hố có giá trị lớn hơn
giá trị các yếu tố sản xuất ra hàng hố đó.Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị
trường với tư cách là người bán, thực hiện hành vi H' - T', tức là bán.
a) Giai đoạn thứ nhất: T – H


T - H ở đây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệ được sử dụng làm
phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện
mua nhưng phải mua được hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục
đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T - H khơng chỉ đơn thuần biểu thị việc
chuyển hố một món tiền thành hàng hố, mà nó đã bước vào 9 giai đoạn vận động
tuần hoàn của tư bản.Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không
những phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau
về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo đảm cho q trình sản xuất được tiến hành bình
thường và nhất là để sử dụng được triệt để toàn bộ thời gian lao động của cơng
nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không không đủ việc làm. Ngược
lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng khơng được tận dụng để tạo ra sản
phẩm. Do đó, lịng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản cũng không được
thoả mãn.Quá trình này thể hiện như sau:

SLĐ
T-H
TLSX
Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động) là yếu tố
đặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành vi T - Tlsx
chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T - Slđ được coi
là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khơng phải do tính chất
tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự
phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng
không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động
biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ,
những người mua là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là
người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh
hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đã đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa;
trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của
tiền tệ là cơng cụ của lưu thơng hàng hố nói chung biến thành chức năng của tư
bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn toàn bị tách rời


nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm th đã có rồi, thì
tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi:
SLD
T-H
TLSX
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang
hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là
hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là tư bản tiền tệ
biến thành tư bản sản xuất.
a) Giai đoạn thứ hai: Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản
xuất nhằm mục đích thu về một tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó khơng thể

thực hiện được bằng cách bán ngay các hàng hố đã mua mà chỉ có thể đạt được
bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy sản xuất ra một hàng hố mới. Do đó, tiếp
theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến giai
đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoá đã mua, tức sản xuất. Q trình này
có thể biển diễn như sau:
SLĐ
H

…....SX....H'
TLSX

Q trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi
hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất.
Phương thức kết hợp đặc thù này khơng chỉ là kết quả, mà cịn là u cầu của sự
vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì vậy trở thành một chức năng của tư bản, trở
thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực hiện chức năng của
mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó để biến thành một khối
lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được tạo ra khác
cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất.
Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị
bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư


bản sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến
thành tư bản hàng hoá.
b) Giai đoạn thứ ba: H ' - T' Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận
động nhà tư bản đang tồn tại dưới hình thức hàng hố, cần phải đem bán để thu
tiền về.
Q trình này có thể biểu hiện bằng cơng thức H' - T'. Khơng khác gì hàng hố
thơng thường, hàng hố tư bản đưa ra lưu thơng cũng chỉ thực hiện chức năng vốn

có của hàng hố là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng hố người ngay sau
khi q trình sản xuất, nó đã là hàng hố, có giá trị bằng giá trị tư bản ứng trước và
giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo đúng quy luật giá trị của nó thu
về được T', nghĩa là thu về được số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu.
Chức năng của H' không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hố, mà quan
trọng hơn cịn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong qúa trình
sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ.
Đến đây, mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu, với
số lượng lớn hơn trước.Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai
đoạn, ta có cơng thức:
SLĐ
T-H

…......sản xuất..........H'-T'
TLSX

Trong cơng thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi
biến hố hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu biến hố
hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận động từ tư bản.
Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn
thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua đoạn, lần lượt mang ba
hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà
cịn tăng lên, gọi là sự tuần hồn của tư bản.Tuần hồn của tư bản chỉ có thể tiến
hành bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó khơng ngừng chuyển
tiếp. Mặt khác, bản thân sự tuần hồn của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở


mỗi một giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động
tuần hồn của tư bản là sự vận động đứt quảng khơng ngừng. Chính trong sự vận
động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hố giá trị và khơng ngừng lớn

lên.
Điều kiện để cho tuần hồn TB được bình thường: Sự vận động của TB chỉ
diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau.
Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hồn này bị đình
trị. Mặt khác, TB phải tồn tại dưới cả ba hình thái là TB tiền tệ, TB sản xuất, TB
hàng hoá.
1.2 Sự thống nhất của 3 hình thái tuần hồn của tư bản cơng nghiệp.
Q trình vận động của tư bản chủ nghĩa trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt
khốc lấy 3 hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa. Mỗi một
hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát, đồng thời là điểm hồi quy của nó. Tư
bản cơng nghiệp là loại hình tư bản vận động đồng thời cùng một lúc dưới cả 3
dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần
hồn của tư bản hàng hóa. Sau đây, ta đi sâu xem xét cụ thể từng dạng tuần hồn
đó.
a) Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ vận động theo công thức:
SLĐ
T–H
…SX… H’ – T’
TLSX
Theo tuần hoàn này điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’ ( với T’ > T).
Do đó tuần hồn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ và mục
đích của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền lớn hơn. Trong tuần hoàn
này T là phương tiện ứng ra trong lưu thông và T’ là mục đích đạt được trong lưu
thơng nên hình như lưu thơng đẻ ra giá trị lớn hơn, cịn giai đoạn sản xuất chỉ là
khâu trung gian không thể tránh được, chỉ là một “tai vạ” cần thiết để làm ra tiền,
để tăng thêm giá trị. Chính vì vậy mà hình thái tuần hồn của tư bản tiền tệ là hình
thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của tuần hoàn tư bản công nghiệp, đồng thời cũng



là hình thức phiến diện nhất, che dấu bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
b) Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất vận động theo công thức :
SX…H’ – T’ – H … SX
Tuần hoàn tư bản sản xuất nói lên sự vận động của tư bản được lặp đi lặp lại,
theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Ở đây tư bản hàng hóa được sinh ra từ q trình
sản xuất. cịn tư bản tiền tệ chỉ là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cho sản
xuất, tức chỉ làm điều kiện cho tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản sản xuất.
Tuần hoàn tư bản sản xuất đã vạch rõ nguồn gốc của tư bản đều tư sane xuất mà ra.
Dù trong quá trình tái sản xuất giản đơn, hay trong quá trình tái sản xuất mở rộng.
Nhưng tuần hoàn của tư bản sản xuất lại không biểu thị được việc sản xuất ra giá
trị thặng dư, vì nó khơng hề chỉ ra mục đích của quá trình làm gia tăng thêm giá trị.
Ở đây mục đích chỉ là sản xuất thật nhiều, thật rẻ và nó cũng khơng nói rõ sẽ có
hiện tượng sản xuất thừa tương đối.
c) Tuần hồn của tư bản hàng hóa
Tuần hồn của tư bản hàng hóa vận động theo cơng thức:
H’ – T’ – H…SX… H’
Khác với mọi hình thái tuần hồn trên tuần hồn của tư bản hàng hóa có điểm
xuất phát bao giờ cũng là H’ – Một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị
thặng dư. Bởi vậy, tuần hoàn của tư bản hàng hóa có những đặc điểm sau:
Một là: nó biểu thị hình thái hàng hóa được sản xuất từ trong q trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa.Nên nó bao hàm cả tiêu dung trong sản xuất và tiêu dung cá nhân.
Hai là: điểm kết thúc của quá trình vận động là H’ vẫn dưới hình thái là hàng
hóa. Nó chưa được chuyenr hóa lại thành tiền đã tăng thêm giá trị T’. Bởi vậy nó
sẽ là một hình thái chưa hồn thành, nó cịn phải tiếp tục vận động,nên nó bao gồm
q trình tái sản xuất.
Ba là: tuần hồn tư bản của hàng hóa làm nổi bật sự lien tục của lưu thơng.
Điểm bắt đầu tuần hồn H’, ddiemr kết thúc tuần hoàn cũng là H’, điểm bắt đầu



tuần hồn đỏi hỏi lưu thơng, thì điểm điểm kết thúc cũng địi hỏi một q trình lưu
thơng mới.
Bốn là: hình thái tuần hồn tư bản hàng hóa cịn trực tiếp biểu hiện mối quan
hệ giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau. Bởi ai nấy cũng đều sản xuất
hàng hóa rồi ném chúng vào lưu thơng để thu tiền về sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và
q trình sản xuất tiếp theo sẽ bị hạn chế lại.
Tóm lại nếu xét riêng từng hình thái tuần hồn thì mỗi hình thái chỉ phản ánh
hiện thực nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện. Fo đó khi làm nổi bật
bản chất này thì lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động của tư bản cơng
nghiệp. Vì vậy ta phải xem xét đồng thời cả ba hình tái tuần hồn mới hiểu hết
được đầy đủ sự vận động của tư bản, mới hiểu được bản chất của mối quan hệ tư
bản chủ nghĩa đưpcj biểu hiện trong sự vận động đó.
Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất cả ba hình thái tuần hồn thì q trình vận
động mới có thể tiến hành một cách lien tục khơng ngừng. Tuần hồn của tư bản
chỉ được tiến hành bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển tiếp một cách trơi chảy.
Nếu một gia đoạn nào đó bị ngừng trệ thi tồn bộ q trình tuần hồn sẽ bị phá
hoại.
2. Lý luận chu chuyển tư bản
Sự vận động biến hóa hình thái của tư bản khơng chie diễn ra một lần mà nó
khơng ngừng lặp đi lặp lại đó chính là chu chuyển của tư bản.
Chu chuyển tư bản chính là sự lặp đi lặp lại của tư bản có tính định kỳ.
2.1 Thời gian chu chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản được ứng ra
dưới một hình thái nào đó cho đén khi thu về cũng dưới hình thái ấy, nhưng có
kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản chính là khoảng thời gian
mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thơng và sản xuất trong q trình tuần hồn.
Nó bao gồm thời gian lưu thông cộng thời gian sản xuất.
Thời gian sản xuất



Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.
Thời gian sản xuất bao gồm:
- Thời gian lao động, tức là thời gian người lao động sử dụng tư liệu tác đọng
vào đối tượng lao động để tạ ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất tạo ra giá trị
và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
- Thời gian gián đoạn lao động, tức là thời gian đối tượng lao động bán ra
thành phẩm, chịu sự tác động của thiên nhiên mà khơng cần tác động của con
người vào. Ví dụ: ngâm thóc giấm thành mạ gieo,gạch để phơi khơ, gạo để ủ
men…
- Thời gian dự trữ sản xuất, tức thời gian tư bản sản xuất đã sẵn sang làm điều
kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa đưa vào sản xuất. Bộ phận tư bản này là tư
bản ở góa, nó là điều kiện cho q trình sản xuất không ngừng.
Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất không tạo ra giá trị
thặng dư. Do đó rút ngắn các thời gian này là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
q trình sản xuất ra hàng hóa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều nhân tố, chủ
yếu là bốn nhân tố sau:
Một là: tính chất của nghành sản xuất.
Hai là: vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
Ba là: Trình độ phát triển của khoa học ký thuật cai hay thấp.
Bốn là: Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
Thời gian lưu thông
Thời gian lưu thông là thời gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời
gian lưu thông dai fhay ngắn sẽ làm cho quá trình sản xuất được lặp đi lặp lai
nhanh hay chậm, khối lượng tư bản làm chức năng tư bản sản xuất được nhiều lần
hay ít, do đó hiệu quả tư bản tức là việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian
bán là quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thơng phụ thuộc vào ba
nhân tố sau:

Một là: tình hình thị trường.


Hai là: giao thông và phương tiện giao thông.
Ba là: khoảng cách thị trường.
2.2 Số vòng chu chuyển của tư bản
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố nên thời gian sản xuất và thời
gian lưu thông của các tư bản khơng thể giống nhau. Do đó thời gian chu chuyển
của tư bản trong các nghành khác nhau cũng như trong cùng một nghành rất khác
nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản dài, ngắn khác nhau như vậy, nên muốn tinhd
tốn so sánh với nhau người ta tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong một
thời gian nhất định(một năm) xem tư bản đã quay được mấy vịng. Ta có cơng thức
tính số vịng chu chuyển của tư bản như sau:
n = CH/ch
Trong đó n: số vong chu chuyển của tư bản.
CH: thời gian một năm
Ch: thời gian chu chyển một vong của tư bản
Thí dụ: một tư bản chu chuyển mootn vòng mất 6 tháng thi số vòng chu chuyển
sẽ là n = 12 tháng/6 tháng.Vậy số vòng chu chuyển của tư bản sẽ là 2 vòng.
2.3 Tư bản cố định và tư bản lưu động
Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian chu chuyển của các bộ phận tư
bản ứng ra để sản xuất. Nhưng do phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản
khơng giống nhau, nên vịng chu chuyển của bọn chúng cũng rất khác nhau. Căn
cứ vào phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản, người ta phân chia bộ
phận tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
a) Tư bản cố định
Tư bản cố định là tư bản tham gia toàn bộ vào q trình sản xuất, nhưng giá trị
của nó chỉ chuyển từng phàn sang sản phẩm.



Tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản
xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) trong q trình sản xuất nó chuyển dần giá
trị vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy trong tư liệu lao động không ngừng
giảm cho đén khi tư liệu lao động không dùng được nữa. Tư liệu lao động càng
bền, càng chậm hao mịn bao nhiêu thì thì giá trị của nó càng được biểu hiện dưới
hình thức sử dụng lâu bấy nhiêu.
Xếp vào bộ phận tư bản cố định cịn có bộ phận tư bản chất dung để cải
taojddaats có tác dụng lâu daiftrong nhiều chu kỳ sản xuất… giá trị của nó cũng
được chuyển dần vào sản phẩm.
b) Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào q trình sản xuất thì
chuyển tồn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến tiêu dung
trong quá trình sản xuất như nguyên liệu, phụ liệu, nhiên liệu… và bộ phận tư bản
khả biến (v) cũng có phương thức chuyển dịch giá trị như trên, nên cũng được xếp
vào tư bản lưu động. Việc phân chia tư bản sản xuất thành các bộ phận tư bản cố
định và tư bản lưu động chỉ có tính chất tương đối. Vì có những tư liệu sản xuất
khi là tư bản cố định khi là tư bản lưu động tùy theo chức năng của nó trong q
trình sản xuất.
Thí dụ, trâu bị dùng trong việc kéo cày là tư bản cố định nhưng trâu bò dung
để giết thịt thì lại là tư bản lưu động.
c) Hao mịn hữu hình vào hao mịn vơ hình.
Trong qúa trình sản xuất tư bản cố định bị hao mịn dần về mặt giá trị sử dụng.
Đi đôi với quá trình hao mịn về vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do chuyển
từng phần sang sản phẩm. Quá trình hao mịn về mặt giá trị đó gọi là hao mịn hữu
hình (hao mịn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên sinh ra như
máy móc bị han rỉ).
Ngồi hao mịn hữu hình, tư bản cố định cịn bị hao mịn vơ hình, tức là hao
mịn thuần túy về mặt giá trị, hao mịn vơ hình do các nguyên nhân sau gây ra:



Một là: Do năng suất lao động tăng lên làm giảm giá trị của các máy móc cũ
tuy giá trị sử dụng của chúng vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới gao mòn một phần.
Hai là: Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp con người sản xuất được những
máy móc tối tân hơn, cơng suất cao hơn các máy cũ. Vì vậy, làm cho máy cũ tuy
giá trị sử dụng vẫn cịn ngun vẹn, nhưng giá trị của nó lại bị giảm đi nhiều.
Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của tư bản cố định đều được tính
chuyển giá trị vào sản phẩm hình thành nên quỹ khấu hao dung để đổi mới tư bản
cố định. Để phát huy hiệu quả của tư bản, quỹ này có thể được đưa ra mua sắm
thêm máy móc để mở rộng sản xuất theo chiều rộng hoặc cải tiến máy móc nhằm
tăng thêm hiệu suất (phát triển theo chiều sâu).
Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất
thường, nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Ngồi việc bảo quản tư bản cố định
phải được bảo dưỡng, tu bổ, sửa chữa có định kỳ. Những phí dung cho việc bảo
quản, sửa chữa cố định đó được tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Trong quá
trình sản xuất, để hạ được giá thành sản phẩm cần hết sức tránh những hao mòn vơ
ích trên đây.
2.4 Tác dụng và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
Trong quá trình sản xuất, tổng tư bản ứng trước cần được tăng tốc độ chu
chuyển. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu
chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo công thức sau:
Giá trị chu
Giá trị chu chuyển
Tốc độ chu
chuyển của tư bản cố định + của tư bản lưu động
chuyển của tổng =
tư bản ứng trước

Tổng số tư bản úng trước (trong năm)


Thí dụ: tổng số tư bản ứng trước là 100.000 USD. Trong đó: tư bản cố
định là 80.000 USD được sử dụng trong vòng 10 năm. Tư bản lưu động là 20.000
USD cứ hai tháng chu chuyển một lần. Vậy tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng
trước bằng:


(80.000 USD :10) + (20.000 x 6)

128.000
=

100.000

= 1,28 lần.
100.000

Có thể rút ra nguyên lý: tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước tỷ lệ thuận với
tổng giá trị của tư bản cố định và tư bản lưu động, tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng
tư bản ứng trước. Vì vậy tăng tốc độ của tư bản sẽ làm tăng được hiệu quả sản
xuất,có thể tránh được thiệt hại do hao mịn vơ hình và tăng được quỹ khấu hao
vào việc mở rộng và cải tiến sản xuất.
Đặc biệt đối với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý nghĩa
rất lớn. Như đối với bộ phận bất biến lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…)
nếu chu chuyển nhanh sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước. Hoặc đối với tư bản khả
biến lưu động việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản càng hết sức quan trọng, nó có ý
nghĩa quyết định làm tăng thêm giá trị thặng dư.
Thí dụ: có hai tư bản A và B, có lượng tư bản khả biến ứng ra bằng nhau là
20.000 USD có tỷ suất giá trị thặng dư như nhau m’ = 100%. Nhưng tư bản A mỗi
năm chu chuyển được một vòng, tư bản B mỗi năm chu chuyển được hai vòng. Kết
quả:

Số lượng giá trị thặng dư tư bản A thu được:
20.000 USD x 100% = 20.000 USD
Số lượng thặng dư tư bản B thu được
(20.000 USD x 2) x 100% = 40.000 USD
Vậy số lượng giá trị thặng dư hai tư bản thu được là khác nhau và tỷ suất giá trị
thặng dư hằng năm của hai tư bản cũng khác nhau. Cụ thể:
Tỷ suất giá trị thặng dư của tư bản A bằng:
m’(A) = 20.000/20.000 x 100% = 100%
Tỷ suất giá trị thạng dư hằng năm của tư bản B bằng:
m’(B) = 40.000/20.000 x 100% = 200%


Rút ra nhận xét: hai tư bản khả biến ứng trước như nhau, nhưng có tốc độ chu
chuyển khác nhau, vì vậy tư bản khả biến sử dụng cũng khác nhau và mặc dù tỷ
suất giá trị thặng dư thực tế bằng nhau nhưng tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm
khác nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản của tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời
gian lưu thông, nên muốn tăng tốc đọ chu chuyển của tư bản càn hết sức rút ngắn
được các thời gian đó.
Phương pháp để rút ngắn thời gian sản xuất thực hiện bằng cách áp dụng kỹ
thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp tác, cải
tiến tổ chức quản lý lao động, tăng cường lao động… Có như vậy mới rút ngắn
được thời gian lao động, rút ngắn quá trình tác động của tự nhiên vào đối tượng lao
động, rút ngắn được thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lưu thơng có thể rút ngắn bằng cách cải tiến chất lượng hàng hóa,cải
tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương thức bán hàng. Đặc biệt phải phát
triển mạnh nghành giao thông vận tải, tăng cường việc thơng tin quảng cáo dưới
nhiều hình thức khác nhau…
Tóm lại lý luận tuần hồn tư bản và chu chuyển tư bản vạch rõ sự vận động cá
biệt về cả mặt chất và lượng vận động của tư bản. Đồng thời lý luận tuần hoàn và

chu chuyển tư bản vạch rõ những phương thức chuyển dịch giá trị các bộ phận tư
bản cấu thành nên tư bản sản xuất. Trên cơ sở đó lý luận tuần hồn tư bản đã rút ra
những nguyên lý luận, những phương pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm rút
ngắn thời gian sản xuất ra sản phẩm, tăng vòng quay của tư bản… Đó cũng là
những bài học vận dụng quý báu trong sản xuất kinh doanh đối với chúng ta hiện
nay.


CHƯƠNG 2
Ý nghĩa thực tiễn việc nghiên cứu ý lý luận tuần hoàn tư bản và chu
chuyển tư bản với quá trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Thế giới đang đứng trước nhiều biến động phưc tạp,trong công cuộc xây dựng
đất nước, chúng ta cịn gặp nhiều khó khăn thử thách. Đảng và chính phủ ý thức rõ
được tầm quan trọng của việc vận dụng lý luận kinh tế chính trị Mac – Leenin vào
quá trình xây dựng kinh tế nhà nước. Ứng dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư
bản và chu chuyển tư bản vào vấn đề huy động và sử dụng vốn là hết sức cần thiết
và cấp bách cần làm trước tiên.
I.

Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu học thuyết tuần hoàn tư bản
và chu chuyển tư bản của C.Mác vào quá trình huy động và sử dụng
vốn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

1. Ứng dụng thực tế của học thuyết
Trong thực tế, tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức:
TLSX
H-T

…SX…H – T’

SLĐ

Và khi xem xét ứng dụng thực tế của công thức này cần xem xét qua ba giai
đoạn:
 Giai đoạn 1

TLSX

T–H
SLĐ
Giai đoạn này các doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao
động, tuy nhiên việc mua này không thể diễn ra một cách tùy tiện. Đối với các
doanh nghiệp, mục tiêu của họ là tối đa hóa lợi nhuận, do vậy điều quan trọng nhất


là tối thiểu hóa chi phí sản xuất. Việc lựa chọn phương thức tối ưu trong khi mua
tư liệu sản xuất và sức lao động là hết sức cần thiết.
 Giai đoạn 2
TLSX
H

…SX…
SLĐ

Trong giai đoạn thứ 2, các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất. Nếu
quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ được thể hiện ở hiệu quả sản xuất, ở chất
lượng sản phẩm. Hơn thế nữa, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả còn giúp các
doanh nghiệp rút ngắn được thời gian chu chuyển tư bản, khiến cho vốn quay vòng
nhanh, tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mơ sản xuất. Hao
mịn hữu hình và hao mịn vơ hình vì thế mà cũng sẽ được giảm bớt do các yếu tố

khách quan khác tác động.
 Giai đoạn 3
H’…T’
Doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông và tiêu thụ sản phẩm. Để có thể rút
ngắn thời gian tiêu thụ sản phẩm cần phải có biện pháp xúc tiến thích hợp như các
chiến lược Maketing độc đáo, sẽ làm tăng doanh thu, giảm chi phí lưu thơng và đạt
được hiệu quả của một tư bản cao nhất.
Đối với tư bản tài chính, trên thực tế chủ yếu biểu hiện ở các hoạt động của các
tư bản thương mại, hoạt động theo công thức chung của tư bản, từ T thành T’. Các
ngân hàng thương mại nhận tiền gửi từ khách hàng với một lãi suất nhất định. Sau
đó lượng tiền này cùng với vốn cố định của ngân hàng sẽ được cho vay với mức lãi
suất cao hơn. Sử dụng vốn tiền gửi và vốn ban đầu có hiệu quả, quay vòng vốn
nhanh sẽ đem lại lợi nhuaanjcao hơn, số vòng chu chuyển tư bản tăng lên, giá trị
thặng dư từ đó được tạo ra với lượng lớn hơn nữa.
2. Vai trò của việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả


Có thể nói huy động và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trị chủ chốt trong
cơng cuộc xây dựng, phát triển king tế của bất kỳ quốc gia nào. Thế giới đã chứng
kiến bao bài học xương máu về hoạt động quản lý và sử dụng vốn, trong đó gồm cả
những thành cơng và thất bại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường thành cơng
trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kong… thì chiến lược kinh
tế của họ trong quá trình hiện đại hóa là tăng trưởng và tích tụ vốn tài chính cho
các bước phát triển tiếp theo. Nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, các nguồn
lực hạn hẹp vì thế mà không bị dàn trải, xé nhỏ. Bởi vậy nâng cao được chất lượng
công nghiệp mà sản phẩm xuất khẩu chính là thành quả của chính sách này.
Trong nền kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, do ưu tiên vào phát
triển công nghiệp nặng, một nghành đòi hỏi huy động một lượng rất lớn vốn đầu
tư,thêm vào đó thời gian chu chuyển rất dài và cơ sở hạ tầng thấp kém đã dẫn tới
hiệu quả tư bản không cao, hiệu quả kinh tế thu được rất chậm và bấp bênh. Đất

nước rơi vào thời kỳ khó khăn, phức tạp. Mọi nguồn lực đều bị sử dụng vơ tội vạ,
các nguồn vốn tài chính cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát gia tăng. Bộ
máy cơng nghiệp đồ sộ khơng cịn nhiên liệu hoạt động bỗng chốc trở thành gánh
nặng kinh tế nặng nề. Đúng ra với nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu kém
cấn được tập trung đầu tư vào các nghành có thời gian chu chuyển ngắn, tốc đọ chu
chuyển nhanh. Do sai lầm trong việc quản lý sử dụng vốn mà các nhà hoạch định
chính sách đã đẩy kinh tế nước ta vào hoàn cảnh tụt lùi với thế giới cả chục năm về
kinh tế.
Tóm lại, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là rất quan trọng, đặc biệt là
trong việc xác định mục tiêu và họach định các chiến lược phát triển kinh tế. Từ đó
để có chiến lược huy đọng và sử dụng vốn có hiệu quả, thich hợp nhất. Nước ta
hiện nay dang trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với một nền kinh tế hết
sức nhạy cảm với các tác động chủ quan,khách quan. Vì vậy việc vận dụng lý luận
tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác cũng như lý luận kinh tế chính
trị của chủ nghĩa Mác Leenin và nắm vững vai trò của việc huy động và sử dụng
vốn hiệu quả là việc làm đầu tiên và quan trọng nhất.


II.

Vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản vào quá
trình huy động và sử dụng vốn ở nước ta rong giai đoạn hiện nay.
1. Quá trình huy động và sử dụng vốn của các doanh nghiệp

Như chúng ta biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân,
là nơi kết hợp một cách có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra của cải cho xã hội, là
nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế, sự giàu có của một quốc gia. Trong giai đoạn
hiện nay của nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả của các doanh nghiệp là
một vấn đề tương đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện thực cịn có nhiều vướng mắc
mâu thuẫn chưa thực sự giải quyết được. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và

chu chuyển tư bản với điều kiện hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi
doanh nghiệp để xác định vị trí và chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì nó có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến sự biến động của sản xuất kinh doanh.Nó quyết định lãi, lỗ
của doanh nghiệp, xác định mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Vấn đề đối với các doanh nghiệp của chúng ta bây giờ là làm sao để sản xuất
kinh doanh tốt để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội, để có thể cạnh tranh tốt
với hàng hóa của các doanh nghiệp khác mà đặc biệt là lượng hàng hóa nước ngồi
tràn ngập thị trường của chúng ta, vấn đề vốn với các doanh nghiệp của nước ta là
một vấn đề nan giải.tình trạng thừa vốn trong các ngân hàng thương mại và thiếu
vốn trong các doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp không phải ít, việc sử dụng vốn bừa
bãi lãng phí vốn đang là thực trạng đáng buồn hiện nay.Vì vậy mà các doanh
nghiệp cần phải quản lý,huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý và hiệu quả để
đem lại hiệu quả cho kinh doanh.
1.1 Huy động vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
a) Huy động từ việc cổ phần hóa.
Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã và đang đóng góp vai trị to lớn gần
như tuyệt đối trong mọi lĩnh lực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Quá trình
chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động the cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh
nghiệp nhà nước. Sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm


là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được coi là xương sống của công cuộc đổi
mới về kinh tế. Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua.
Qua cổ phần hóa, doanh nghiệp nước đã chuyển thành doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn
vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của
doanh nghiệp được năng lên. Mặc dù có những thăng trầm, nhưng công cuộc sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận.
Việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp: sắc nhập,

hợp nhất, cổ phần hóa, giao, khốn, bán cho th doanh nghiệp, tổ chức lại các
tổng cơng ty và thành lập các tập đồn kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, cổ
phần hóa được coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước. Đến hết tháng 8-2006, cả nước ta đã sắp xếp được 4447 doanh
nghiệp, trong đó cổ phần hóa 3060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đền nay đã
sắp xếp được 3389 doanh nghiệp( bằng 68% số doanh nghiệp nhà nước có vào đầu
năm 2001). Hình thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hóa. Nhờ đó mà số lượng
doanh nghiệp cổ phần hóa tăng mạnh. Tính đến 30/6/2006, cả nước ta đã cổ phần
hóa được 3365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp.thơng qua cổ phần hóa đã huy
động được trên 22000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh
doanh.
Doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô vốn lớn hơn trước đây : trong hơn 967
đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hóa trong năm 2005thì có tới 310
đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng(chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có
vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2307
đơn vị cổ phần hóa chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại
doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hóa
đã đạt 20 ngàn tỷ đồng bằng 8& tổng số vốn nhà nước. Năm 2004, theo kết quả
điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Trung ương đối với trên 500 doanh
nghiệp nhà nước hoàn thành việc cổ phần hóa và đa dạng hóa quan hệ sở hữu trên
một năm cho thấy, hiệu quả kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn
điều lệ tăng từ 50 đến 100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng


×