Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bài thu hoạch giáo dục đại học thế giới và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
---♦---♦---♦---

CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
BÀI THU HOẠCH
CHUYÊN ĐỀ: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM

Học viên: PHẠM ANH XUÂN
Ngày sinh: 25/02/1992
Nơi sinh: Liên Bang Nga
Đơn vị công tác: Công ty TNHH Thiên Tường


NỘI DUNG THU HOẠCH
Câu hỏi:
Anh chị hãy phân tích tác động của cuộc CMCN 4.0 tới giáo dục Đại học Việt Nam
trên các khía canh triết lý giáo dục; phương pháp tiếp cận; tổ chức giảng dạy, kiểm tra
đánh giá và chuẩn đầu ra sản phẩm đào tạo

BÀI LÀM:
Tác động của cuộc CMCN 4.0 tới giáo dục đại học Việt Nam trên các khía cạnh
triết lý giáo dục
1. Khái quát về cuộc cách mạng 4.0
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) bắt đầu xuất hiện từ thập
niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền cơng
nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học.
Đó là các cơng nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba
chiều, máy tính siêu thơng minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ


sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột
phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ
số. Trung tâm củacuộc cách mạng 4.0là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn
vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao
tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.
Cuộc cách mạng 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản
xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ. Nền sản xuất “tự động” đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ 3 sẽ
sớm chuyển sang nền sản xuất “thông minh”, trong đó các máy móc được kết nối
internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành tồn bộ q trình sản
xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước.
Làn sóng cơng nghệ mới với sản xuất thông minh sẽ giúp công nghệ phát triển
và kéo theo năng suất tăng cao. Nhưng để có thể áp dụng được “sản xuất thơng minh”
vào thực tiễn thì khơng thể thiếu một nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, nhiệm
vụ đặt ra đối với ngành Giáo dục là cần phải có định hướng cụ thể để thích ứng với
thời cuộc, để đào tạo ra nguồn nhân lực tốt, đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thị trường
lao động. Bởi, nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố quyết định cho sự phát
triển.
2. Lực lượng lao động trước đòi hỏi của cuộc cách mạng 4.0


Theo Báo cáo phân tích mơi trường kinh doanh (Doing Business Report) của
Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2016, Việt Nam xếp thứ 90 trong 189 nước tham gia
xếp hạng. Với sự tác động của cách mạng 4.0, các nước đang phát triển như Việt Nam
sẽ buộc phải thay đổi lợi thế cạnh tranh. Dự báo, từ năm 2020 trở đi, chúng ta không
cạnh tranh với các quốc gia như Trung Quốc, Bănglađét, Malaixia, Ấn Độ hay
Mêxicô, mà là cạnh tranh với những cơng ty tự động hóa của Mỹ hay Nhật Bản.
Trong lịch sử, các cuộc cách mạng công nghiệp đều đi kèm với những hệ lụy
như bất công gia tăng kéo theo hàng loạt những chuyển dịch lớn về chính trị cũng như
thể chế. Diễn đàn kinh tế thế giới đã rung một hồi chuông cảnh báo người lao động và

chính phủ các nước cần chuẩn bị cho việc nguồn lực lao động sẽ có những dịch
chuyển đột ngột, khiến cho người lao động đối diện nguy cơ mất việc làm. Có khoảng
47% các cơng việc hiện tại ở Mỹ có thể biến mất vì tự động hóa, dẫn đến nguy cơ phá
vỡ thị trường lao động và gia tăng căng thẳng về việc làm.
Nhìn vào một ngành cụ thể như ngành Dệt may, đã xuất hiện rô-bốt làm việc
cùng con người trong các nhà máy. Điều đó còn chưa dừng lại. Theo ILO, 2/3 trong số
9,2 triệu lao động ngành Dệt may và Da giày tại Đông Nam Á đang bị đe dọa, trong
đó 86% lao động của Việt Nam, 88% lao động của Campuchia và 64% lao động
Inđônêxia trong ngành May mặc, Da giày sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ làn sóng tự
động hóa, cơng nghiệp hóa trong ngành. Hay như hệ thống tổng đài (Call Center) trả
lời trong ngành Viễn thông, Ngân hàng, Bảo hiểm, Chứng khoán cũng bị đe dọa, khi
mà hàng trăm nghìn người đang làm việc cho các “call center” trên khắp thế giới có
thể mất việc.
Cùng với sự ảnh hưởng của công nghệ, việc gia tăng tầng lớp trung lưu và q
trình đơ thị hóa ở các thị trường mới nổi cũng sẽ ảnh hưởng đến xu hướng việc làm.
Nhu cầu lao động có tay nghề cao gia tăng trong khi nhu cầu đối với lao động có tay
nghề và kỹ năng thấp đã giảm. Điều đó có lợi cho tầng lớp giàu hơn là nghèo và dẫn
đến tình trạng bất bình đẳng lớn hơn. Diễn đàn Kinh tế Davos năm ngoái đã dự đoán,
cách mạng 4.0 diễn ra sẽ khiến 7 triệu việc làm trước đây biến mất và 2.000.000 việc
làm mới được tạo ra.
Với khoảng 60% dân số trong độ tuổi lao động, Việt Nam còn ở thời kỳ dân số
vàng trong ít nhất 20 năm nữa. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực có sự thiếu hụt trầm
trọng lao động có trình độ tay nghề cao và cơng nhân kỹ thuật lành nghề khiến cho chỉ
số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước (WB, 2014). Hiện có khoảng 52% dân
số Việt Nam sử dụng internet, dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng 1000.000 lao động
làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Đây là những nền tảng và lợi thế rất quan
trọng mà nhiều tập đồn cơng nghệ cao như Fujitsu, Intel, Samsung, Siemens,
Acatel... đang tranh thủ để mở rộng đầu tư vào Việt Nam.
Năm 2016, lần đầu tiên Việt Nam có hơn 110.000 doanh nghiệp thành lập trong

một năm, bình qn một giờ đồng hồ có 12 doanh nghiệp mới ra đời. Việt Nam đặt


mục tiêu đến năm 2020 có hơn 1.000.000 doanh nghiệp, hỗ trợ khoảng 600 doanh
nghiệp, với 2.000 dự án trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo để thúc đẩy các doanh
nghiệp tiếp cận với công nghệ mới. Đồng thời, việc đàm phán hoặc ký kết các Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới hy vọng đem lại những cơ hội việc làm mới. Tuy
nhiên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành thâm dụng lao
động giá rẻ.
Nhà vật lý, vũ trụ học Stephen Hawking gần đây đã có phát ngơn chấn động khi
dự đốn về tác động khủng khiếp của công nghệ rô-bốt trong tương lai: “Loài người
đang đối diện với khả năng diệt vong trong 1.000 năm nữa, nếu khơng phải vì chiến
tranh hạt nhân, thì cũng vì cơng nghệ rơ bốt phát triển”. Mới đây, Elon Musk tuyên bố
thành lập một công ty chuyên nghiên cứu cách liên kết bộ não con người với trí tuệ
nhân tạo của máy tính. Viễn cảnh các nhà máy thơng minh, trong đó các máy móc
được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung tồn
bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định có lẽ sẽ khơng cịn xa xơi nữa.
Thách thức lớn nhất của mỗi cá nhân là vượt qua chính mình, vượt qua tâm lý tư
duy phát triển tự hài lòng của người tiểu nông, không dám chấp nhận mạo hiểm để
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Cần chủ động đưa tư duy của mình thốt khỏi lối mịn
với những ý tưởng, những hệ thống thậm chí chưa bao giờ nghĩ tới. Xét đến cùng, nếu
không muốn bị lệ thuộc vào những quốc gia đi trước thì mỗi cá nhân, doanh nghiệp
hay rộng hơn là đất nước, đều cần phải liên tục đổi mới để sinh tồn.
Cách mạng 4.0 trong đó cách mạng năng lượng, cách mạng ICT và trí tuệ nhân
tạo cùng cơng nghệ in 3D đang tạo ra môi trường kinh doanh mới mẻ. Nơi mà tài
năng, tri thức sẽ đại diện cho yếu tố quan trọng của sản xuất, hơn là yếu tố vốn. Đồng
thời, tạo cơ hội phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt và có thu nhập
cao trong xã hội.
Lực lượng lao động của nước ta hiện nay không thiếu về số lượng nhưng lại
thiếu về kiến thức chuyên môn, yếu về kỹ năng giải quyết vấn đề, lãnh đạo và giao

tiếp dẫn đến năng suất lao động thấp (chỉ bằng 4,4% Singapore; bằng 17,4% của
Malaysia; 35,2% của Thái Lan; 48,5% của Philippines và 48,8% của Indonesia). Với
thực trạng như vậy, lợi thế về chi phí nhân cơng thấp tại Việt Nam đang dần mất đi
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngồi.
Trước thực tế trình độ lao động như vậy, cùng với làn sóng của cuộc cách mạng
cơng nghiệp 4.0, mối lo này càng trở nên lớn hơn. Một số báo cáo về thị trường lao
động đánh giá cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những
lao động trình độ thấp (lực lượng sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất) mà ngay cả các lao
động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không trang bị kiến thức mới,
chủ yếu là kỹ năng sáng tạo. Một số nghề như lái xe, lắp ráp điện tử, rô bốt cũng sẽ
dần thay thế. Thách thức ở đây chính là, nếu muốn ứng dụng được cơng nghệ 4.0, con
người phải có trí tuệ mới tham gia được quá trình sản xuất, bản thân mỗi con người
trong đó phải có sự sáng tạo.


Do đó, để phát huy được sự sáng tạo của mỗi lao động, khơng cịn cách nào khác
là phải cải cách, thay đổi ngay từ khâu đào tạo.
3. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục của Việt Nam
Trước những đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng cao để phù hợp với môi
trường sản xuất mới, các hoạt động đào tạo của các cơ sở đào tạo càng phải được gắn
kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển
khai. Đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh
nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Tăng
cường việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp, trên cơ sở trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt
động đào tạo của cơ sở giáo dục nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ
của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, hình thành năng lực nghề nghiệp cho
người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất lớn,
vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ

sở giáo dục. Cơ hội và thách thức đối với các cơ sở giáo dục trước sự tác động của
cuộc cách mạng 4.0 ln có sự đan xen lẫn nhau. Cụ thể là:
Thứ nhất, tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh vực
ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về cơng nghệ mới như trí thơng minh nhân
tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh
học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động
mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục nghề
nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo sẽ phải điều
chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ
là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt nghề
nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề
đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị
trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm
lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra
rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao
động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng
nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.
Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa
qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều
phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của
Chính phủ, năm 2020, nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần
một triệu cán bộ công nghệ thơng tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000
cán bộ công nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung
cấp cho xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn
cho các trường đào tạo.
Thứ hai, làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ
nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là


ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ

củacông nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ khơng cịn phù hợp
với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 thì người
học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên
cứu. Như vậy, khơng thể chỉ tồn tại mơ hình thư viện truyền thống mà các trường phải
xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mơ hình giảng dạy mới
như đào tạo trực tuyến khơng cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ
được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mơ
phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube,
Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong
thời gian tới. Khi đó, kiến thức khơng thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay
trong một phạm vi tổ chức. Người học có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc
cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở thành một cơng dân tồn cầu - người lao động
tương lai có khả năng làm việc trong mơi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần
thưởng cuối cùng khơng cịn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa
mở rộng, trao đổi tri thức, sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Bởi một doanh nghiệp
tuyển dụng là cần người làm được việc chứ khơng cần người có văn bằng cao. Từ đó
có thể bỏ việc yêu cầu về bằng cấp hay xem đó là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng
lao động. Như vậy, các cơ sở giáo dục sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mơ hình chỉ
đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được
rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và đảm bảo để người học thực hiện được
phương châm “học tập suốt đời”. Theo mơ hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo
dục đào tạo với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau. Đồng thời, đẩy
mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn
lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu hơn. Điều này sẽ tác
động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp. Khi đó, tại các cơ sở giáo dục, tất cả các dữ liệu của người học từ
mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều đã được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong
nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần “vứt” tài liệu lên “mây” (Cloud), tất cả mọi
người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng

bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi thì sẽ khơng có người học.
Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học
sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một
thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giáo viên giảng
dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một
trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học công nghệ chưa phát triển trong
trường học.
Phương pháp tiếp cận
Chúng ta cần phải đẩy mạnh các hoạt động đào tạo để thích ứng với cuộc CMCN
4.0. Cụ thể, trước mắt cần phải xác định lĩnh vực đào tạo hướng về tương lai vì
CMCN 4.0 đã diễn ra mạnh mẽ với những xu hướng khá rõ ràng về chuyển dịch cơ
cấu ngành nghề của nền công nghiệp. Xu hướng thay đổi công nghiệp cũng đã được


thảo luận và làm rõ tại các diễn đàn công nghiệp thế giới, từ kết quả các cơng trình
nghiên cứu về CMCN 4.0 và thực tế triển khai các chương trình cơng nghiệp tại các
quốc gia hàng đầu, như Đức, Mỹ, Nhật Bản… Trên cơ sở đó, các trường đại học cần
xác định các lĩnh vực đào tạo trọng tâm, các lĩnh vực đào tạo hướng về tương lai nhằm
đáp ứng nhu cầu thời đại và chuẩn bị nguồn lực đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp.
Các lĩnh vực đặc biệt nên hướng vào đểđào tạo gồm: công nghệ thông tin, quản lý
mạng, khai thác dữ liệu, bảo mật, vật liệu, y sinh học, rơ-bốt …
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cần phải thiết kế chương trình linh động hơn, kiến
thức cập nhật hơn, hướng tới phát triển các kỹ năng phù hợp với CMCN 4.0, phát
triển tư duy hệ thống và liên ngành. Đối với các chương trình đào tạo bậc cử nhân,
bên cạnh các kiến thức về nghề nghiệp, cần phải mở rộng cung cấp thêm các khối kiến
thức tự nhiên xã hội, công nghệ thơng tin, quản lý mạng… nhằm mục đích làm cho
người học có thể thích nghi nhanh với sự thay đổi của cơng nghệ, làm việc hiệu quả
trong mơi trường có tính kết nối cao, giữa các lĩnh vực, giữa thế giới ảo và thật. Các
kỹ năng quan trọng đối với nguồn nhân lực trong môi trường tương tác công nghệ cần
phải được đưa vào chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ

năng sáng tạo, tư duy phản biện, tư duy hệ thống, kỹ năng ra quyết định trong điều
kiện không chắc chắn… đặc biệt giáo dục người học phương pháp và ý thức học tập
suốt đời.
Thiết kế các khóa đào tạo ngắn hạn hay các chương trình bổ sung kiến thức cho
từng đối tượng khác nhau tại các doanh nghiệp là thực sự cần thiết trong bối cảnh
CMCN 4.0. Nhu cầu của xã hội về bổ sung kiến thức sẽ vô cùng lớn khi có sự chuyển
dịch trong cơ cấu ngành nghề, sự thay đổi công nghệ. CMCN 4.0 sẽ mở ra thị trường
đào tạo và huấn luyện vô cùng lớn đối với các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục, đặc
biệt đối với các trường đại học vốn có thế mạnh về đào tạo. Tuy nhiên, các trường đại
học cần phải cởi mở và đối thoại nhiều hơn với xã hội, với thị trường lao động để triển
khai và thực hiện các chương trình thiết thực và hiệu quả, nhưng vẫn khơng đánh mất
bản chất học thuật riêng biệt và nhiệm vụ giáo dục rộng hơn.
Ngoài ra, cách thức tổ chức và phương pháp giảng dạy tại các trường đại học
cũng phải thay đổi.Cơng nghệ phát triển với chi phí rẻ là điều kiện thuận lợi để các
trường đại học đầu tư cơ sở vật chất, các công cụ và phương tiện giảng dạy hiện đại.
Bên cạnh hình thức giảng dạy trực tiếp cho người học, các trường cần sử dụng nhiều
hơn các hình thức khác như đào tạo online, thiết kế mơi trường ảo để người học và
người dạy có thể tương tác lẫn nhau và truyền đạt thông tin, tổ chức thực hành tại các
phịng thí nghiệm hay phịng mơ phỏng ảo. Sử dụng hệ thống máy tính và dữ liệu big
data để thiết kế chương trình, tổ chức giảng dạy cho từng đối tượng một cách hiệu quả
nhất. Hệ thống học online ngày càng được phổ biến hơn, thông qua hệ thống online sẽ
thu thập dữ liệu cho từng cá nhân. Khi tích tụ được lượng data đủ lớn về cá nhân
người học (thời lượng học, phương pháp, lộ trình đào tạo, mức độ tương tác, kết quả
học tập…), các thuật toán Machine Learning sẽ đưa ra một phương pháp giáo dục tốt
nhất cho từng học sinh với lộ trình tối ưu cá nhân hóa phương pháp học tập mà ngay


cả giáo viên tốt nhất cũng không bằng được. Do vậy các trường đại học cần đẩy mạnh
hơn việc sử dụng cách thức tổ chức đào tạo và học tập này.
Đào tạo đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0 đòi hỏi đội ngũ giảng dạy phải có trình độ cao

về chun môn, công nghệ thông tin, hệ thống mạng…, do vậy công tác chuẩn bị
nguồn nhân lực cũng là yếu tố đòi hỏi các trường đại học phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Cán
bộ giảng dạy phải liên tục cập nhật kiến thức chuyên môn, công nghệ… bằng cách
thường xuyên tham gia các lớp huấn luyện, hội thảo, hội nghị. Ngoài ra, các trường
đại học phải mở rộng đối thoại, hợp tác với doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên
cứu, tập huấn và tư vấn; qua đó cán bộ giảng dạy có cơ hội tiếp cận điều kiện sản xuất,
kinh doanh thực tế và nắm bắt được những thay đổi của thị trường để thực hiện các
điều chỉnh trong giảng dạy.
Chiến lược phát triển con người - Chủ thể và trung tâm của sự sáng tạo
Sự phát triển như vũ bão của KH&CN trong 2 thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI
với Internet kết nối vạn vật, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và những sáng chế mới trong
nhiều lĩnh vực chính là những nền tảng then chốt tạo nên những cú hích cho sự tăng
trưởng và phát triển.
Trong thời đại CMCN 4.0, KH&CN sẽ mang tính liên ngành và xuyên ngành
ngày càng sâu rộng, viễn cảnh đó đặt ra thách thức phải có chiến lược về phát triển
con người. Trong khi chúng ta nói nhiều về những đặc trưng của CMCN 4.0, những
thành tựu về công nghệ với những thách thức và cơ hội, chúng ta cần đặc biệt chú
trọng phát triển nguồn lực con người, cần xây dựng một kịch bản cho sự phát triển của
xã hội Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0, trong đó con người là chủ thể và là trung
tâm của sự sáng tạo.
Trong thời đại CMCN 4.0, các cơ sở giáo dục đại học sẽ khơng cịn chỉ là thầy,
trị, giảng đường, thư viện, các phịng thí nghiệm… mà sẽ là mơi trường sinh thái với
3 đặc trưng cốt lõi xuyên suốt và tác động lên mọi hoạt động của nhà trường là: số
hóa, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Vì vậy, trong chiến lược phát triển của mình, các
trường đại học phải bám sát những nội dung này. Đầu ra của quá trình đào tạo trong
CMCN 4.0 là nguồn nhân lực có năng lực, tinh thần đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.
Thời đại CMCN 4.0, các kiến thức có tính liên ngành, xuyên ngành (một
ngành được nhúng sâu vào ngành khác) và ngày càng có xu hướng xóa nhịa ranh giới
giữa các ngành. Trong khi đào tạo lại có tính cá thể hóa ngày càng cao. Xu hướng
“Uber hóa” trong giáo dục là tất yếu và ngày càng trở nên phổ biến. Kiến thức và

thông tin, cơ sở dữ liệu, cơ hội cho mọi người, mọi cơ sở giáo dục ở mọi nơi, mọi chỗ,
khơng cịn cứng nhắc và bó hẹp trong không gian và thời gian, biên giới, vùng lãnh
thổ.
Các nghiên cứu và tổng kết từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để đạt được đầu
ra đó, các nội dung cơ bản mà nhà trường cần cung cấp cho người học trong thời đại
CMCN 4.0 sẽ là giáo dục STEM (khoa học, cơng nghệ, kỹ thuật và tốn học) và giáo
dục khai phóng đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Bên cạnh đào tạo kiến thức và kỹ
năng, tăng cường thực hành thực tập, công nghệ thông tin và ngoại ngữ, thì đào tạo


với tư duy tầm nhìn, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững rất quan trọng. Các giá trị
nhân văn, giá trị truyền thống và sự hài hòa phải là bệ đỡ và nền tảng cho sự phát triển
của xã hội trong bối cảnh CMCN 4.0. Chính vì vậy, chúng ta cần có kịch bản phát
triển con người trong giai đoạn mới, với nòng cốt và nền tảng là giáo dục.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, lợi thế cạnh tranh lớn nhất không phải tài nguyên, công
nghệ mà là con người. Ai có nhân tài, sẽ nắm trong tay lợi thế cạnh tranh và phát triển
trong thời đại mới. Cần xây dựng chiến lược phát triển con người và đổi mới mạnh mẽ
giáo dục để trang bị kiến thức, phát huy năng lực sáng tạo và kỹ năng, tầm nhìn cho
người học. Song song với đào tạo và thu hút nhân tài, đặc biệt trong lĩnh vực
KH&CN, việc chú trọng phát triển con người trong một xã hội hài hòa và nhân văn là
cốt lõi để Việt Nam nắm bắt được các cơ hội cũng như vượt qua thách thức để phát
triển và hội nhập.
Các nước như Anh, Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Đức... đã tận dụng và nắm bắt được
cơ hội ngay từ cuộc CMCN lần thứ 2 để phát triển; Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Ấn Độ... đã nắm bắt được cơ hội ở cuộc CMCN lần thứ 3 để vươn lên... Việt Nam
hồn tồn có thể nhận diện và nắm bắt được thời cơ để vươn lên thành “con rồng, con
hổ” của châu Á và thế giới trong thế kỷ XXI nếu biết tận dụng những cơ hội và vượt
qua thách thức của cuộc CMCN 4.0. Mấu chốt là chúng ta phải có nguồn nhân lực
chất lượng cao và thu hút được nhân tài để phát triển các công nghệ lõi, các hình thức
kinh doanh mới. Nguồn lực con người, cùng với KH&CN chính là “chiếc đũa thần”

để đưa dân tộc ta theo kịp và sánh vai các nước trên thế giới. Suy cho cùng, Việt Nam
có thể tận dụng được cơ hội từ cuộc CMCN 4.0 thông qua việc thay đổi cách tiếp cận
giáo dục, nhanh chóng hội nhập sâu rộng với quốc tế và then chốt là xây dựng chiến
lược phát triển con người.
Đổi mới giáo dục đại học - Đòn bẩy quan trọng của sự phát triển
Từ thực tiễn và kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc và Ấn Độ cho thấy, đổi mới giáo dục (đặc biệt là giáo dục đại học - cả đào tạo
bậc đại học và sau đại học), để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao có ý nghĩa
quyết định đến sự thành cơng của Việt Nam trong CMCN 4.0. Để đổi mới giáo dục
đại học, trong thời gian tới chúng ta nên thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, phải xây dựng một triết lý mới về giáo dục đại học: nhu cầu đổi mới giáo
dục xuất phát từ yếu tố thời đại. Hiện nay, các đại học nghiên cứu của các nước phát
triển trên thế giới đang chuyển mình sang đại học đổi mới sáng tạo, gắn kết nghiên
cứu khoa học và chuyển giao các kết quả nghiên cứu với doanh nghiệp. Vì vậy, triết lý
đào tạo phải thay đổi. Triết lý của đào tạo nhân lực trong thời đại CMCN 4.0 là số
hóa, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp.
Hai là, đổi mới cấu trúc và yêu cầu, chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo,
hội nhập với quốc tế và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam: ngồi kiến
thức chun mơn, ngoại ngữ, cơng nghệ thông tin và các kỹ năng mềm như hiện nay;
các trường đại học phải trang bị được cho người học kỹ năng thu thập, xử lý và kiểm


sốt thơng tin, trải nghiệm học tập đồng hành với thực tế, thực tập và các cơng nghệ
mới. Chương trình đào tạo phải chuyển đổi phù hợp với xu thế liên ngành, xuyên
ngành của CMCN 4.0. nhất là những ngành khoa học tự nhiên, công nghệ - kỹ thuật,
kinh tế…; chương trình đào tạo cần hội nhập sâu rộng với chương trình đào tạo của
khu vực và thế giới. Sinh viên ra trường khơng chỉ có cơng ăn việc làm, mà cịn phải
có tầm nhìn, có khát vọng đổi mới sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp. Hiện nay, ở Việt
Nam đang nhắc nhiều đến giáo dục khai phóng, tuy nhiên, không thể nắm bắt và làm
chủ được các công nghệ nếu nguồn nhân lực của chúng ta không được đào tạo và

trang bị kiến thức STEM. Vì vậy, với triết lý giáo dục như trên, trong thời đại CMCN
4.0, giáo dục khai phóng với STEM và phát triển bền vững chính là những nội dung
đổi mới cốt lõi và cần có của chương trình đào tạo. Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm
2018 cũng đã đề ra nhiệm vụ các trường đại học phải tham gia vào bảng xếp hạng đại
học trên thế giới. Đây là những sức ép và đòn bẩy quan trọng để các trường đại học
phải đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng theo các tiêu chí và chuẩn mực của
giáo dục đại học trên thế giới trong thời gian tới.
Ba là, cần có quy hoạch và phát triển ngành nghề cho tương lai: hiện nay,
chúng ta còn quá mỏng lực lượng chuyên gia và nguồn nhân lực trong các lĩnh vực tự
động hóa và trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh cơng nghệ thông tin, chúng ta cũng phải đẩy
mạnh nghiên cứu về tích hợp hệ thống, cơng nghệ tương tác thực tế, an tồn thơng tin,
năng lượng mới, các vật liệu mới tiên tiến, thông minh… để ứng dụng cho các lĩnh
vực công nghệ, kỹ thuật mới cũng như nguồn nhân lực quản trị doanh nghiệp theo các
mơ hình mới. Gần đây, một số trường đại học lớn của Việt Nam (trong đó có Đại học
Quốc gia Hà Nội) đã nhanh chóng bắt kịp xu thế thời đại, mở đào tạo các
ngành/chuyên ngành mới như an tồn thơng tin, kỹ thuật máy tính, robotic, cơng nghệ
hàng khơng vũ trụ, cơng nghệ nano, năng lượng mới, an ninh phi truyền thống, khoa
học dữ liệu, phát triển bền vững, biến đổi khí hậu… Đó là những đáp ứng rất phù hợp
và kịp thời của giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian qua.
Bốn là, khẩn trương xây dựng chiến lược và giải pháp đổi mới đào tạo tài năng
và chất lượng cao trong các trường đại học: cần triển khai đẩy mạnh đầu tư đào tạo
cử nhân/kỹ sư tài năng về công nghệ thơng tin, mạng máy tính, tự động hóa, cơ điện
tử, trí tuệ nhân tạo và các lĩnh vực khác. Thời đại ngày nay đang có xu thế đào tạo tài
năng và chất lượng cao theo cá thể hóa, do vậy các trường đại học ở Việt Nam cần
sớm đổi mới mơ hình đào tạo tài năng và chất lượng cao ở bậc đại học. Một trong
những mơ hình hay là đào tạo “kỹ sư toàn cầu” đã bắt đầu được đào tạo tại Nhật Bản
từ 2015. Chương trình đào tạo này có các kiến thức liên ngành về tốn học, vật lý, cơ
học cộng với nền tảng về công nghệ thông tin, ngoại ngữ và phát triển bền vững.
Năm là, đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập: với sự ra đời của các công
nghệ mới và IoT đã mở ra những khả năng có thể giảng dạy và học tập ở mọi nơi mọi

lúc, học xuyên biên giới, đồng thời tạo ra các cơ hội để tranh thủ và tối ưu hóa các
nguồn lực (về con người, học liệu, cơ sở vật chất…) kiểu như “uber hóa trong giáo
dục” và đương nhiên sẽ kéo theo những thay đổi tiêu chí đánh giá về kiểm định chất
lượng và xếp hạng các trường đại học.


Sáu là, tập hợp lực lượng, thu hút nhân tài để xây dựng và phát triển tiềm lực
KH&CN của nước nhà thơng qua các nhóm nghiên cứu: để có thể tiếp cận và phát
triển công nghệ mới, theo kịp với thế giới và làm chủ các công nghệ lõi, chúng ta cần
có chiến lược để tập hợp lực lượng trong và ngồi nước nhằm xây dựng bằng được
các nhóm nghiên cứu mạnh, các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu xuất sắc trong
các lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ chủ chốt và các lĩnh vực mới phát sinh trong CMCN
4.0. Chúng ta cần tập hợp, tạo mọi điều kiện phát huy nguồn lực đội ngũ trí thức tài
năng trong và ngồi nước thơng qua các nhóm nghiên cứu mạnh để nắm bắt những cơ
hội của thời đại. Bên cạnh các nhóm nghiên cứu mạnh, các nhóm nghiên cứu chính
cũng cần được quan tâm phát triển. Thơng qua các nhóm nghiên cứu chính để nâng
cao chất lượng đào, nghiên cứu, nâng cao chất lượng và tiềm lực nghiên cứu khoa học
của các cơ sở giáo dục đại học. Muốn như vậy, có lẽ chúng ta phải có những đột phá
trong chính sách phát triển các nhóm nghiên cứu, sử dụng và đãi ngộ nhân tài.
Bảy là, cần có những đột phá về cơ chế chính sách: để có nguồn lực, các trường
đại học Việt Nam đang chuyển mình theo xu thế tự chủ và đang rất cần “cơ chế khoán
10” trong giáo dục đại học nhằm giải phóng và phát huy mọi nguồn lực cho sự phát
triển của nhà trường. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và triển khai mơ
hình 4 nhà: nhà nước - nhà trường - nhà khoa học và doanh nghiệp.



×