Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Khóa luận quyền con người và vấn đề giáo dục quyền con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.78 KB, 78 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
***

NGUYỄN HẢI YẾN

QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGHÀNH: TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH – 2015 – X

Hà Nội, 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
***

NGUYỄN HẢI YẾN

QUYỀN CON NGƢỜI VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC
QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGHÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy


Khóa: QH – 2015 – X

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thúy Vân

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
***
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện và chƣa
đƣợc công bố. Những trích dẫn trong khóa luận là trung thực, xuất xứ rõ ràng.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hải Yến


LỜI CẢM ƠN
***
Để có thể hồn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm
ơn chân thành đến giảng viên hƣớng dẫn của tôi là PGS.TS Nguyễn Thị Thúy
Vân. Cô giáo đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc định hƣớng lựa chọn đề tài và
nội dung, tìm kiếm và đọc tài liệu cũng nhƣ các thao tác làm việc cơ bản giúp tơi
hồn thiện hơn cả về kiến thức và kỹ năng.
Tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa
Triết học đã cung cấp những kiến thức nền để tơi có thể thực hiện đề tài này.
Mặc dù đã hồn thành, song bài Khóa luận tốt nghiệp của tơi khơng tránh
khỏi có những yếu điểm và thiếu sót, do vậy tôi rất mong nhận đƣợc những lời
đánh giá và góp ý từ phía các thầy giáo, cơ giáo và các bạn để bài Khóa luận tốt
nghiệp của tơi đƣợc hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hải Yến


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3
NỘI DUNG ......................................................................................................... 13
Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời
trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .............. 13
1.1: Khái niệm quyền con ngƣời, quyền công dân .......................................... 13
1.1.1: Khái niệm quyền con ngƣời................................................................ 13
1.1.2: Khái niệm quyền công dân ................................................................. 18
1.1.3: Quan hệ giữa quyền con ngƣời, quyền công dân ............................... 21
1.2: Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời ................................ 22
1.2.1: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời thời kỳ cổ đại ..................................... 22
1.2.2: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời trong thời kỳ cận – hiện đại ............... 25
1.3: Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời ....................................................... 32
1.3.1: Một số vấn đề chung về giáo dục quyền con ngƣời ........................... 32
1.3.2: Nội dung giáo dục quyền con ngƣời................................................... 37
1.3.3: Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay ............................................................ 40
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................... 45
Chƣơng 2: Thực trạng và một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao công tác

giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay................................................. 46
2.1: Thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.................... 46
2.1.1: Những thành tựu đã đạt đƣợc ............................................................. 46
2.1.2. Những hạn chế còn tồn tại .................................................................. 56
2.2: Những quan điểm chung và giải pháp về giáo dục quyền con ngƣời, quyền
công dân ở nƣớc ta hiện nay ............................................................................ 60
2.2.1: Những quan điểm của Đảng - Nhà nƣớc ta về giáo dục quyền con
ngƣời, quyền công dân .................................................................................. 60
2.2.2: Giải pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời quyền công dân ở
nƣớc ta hiện nay ............................................................................................ 61
1


TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................... 64
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 68

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con ngƣời là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã
hội dân chủ, văn minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời đã hình thành từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã hội nào,
trong bất cứ kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa nhận một cách đầy
đủ. Vì thế, quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu
tranh khơng ngừng của tồn nhân loại nhằm vƣơn tới những lý tƣởng, giải
phóng hồn tồn con ngƣời khỏi bất bình đẳng trong xã hội nhằm xây dựng một
xã hội thật sự công bằng, dân chủ và nhân đạo.

Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời đã trở thành một vấn đề triết
học, chính trị, pháp lý, đao đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở cấp độ quốc tế,
quyền con ngƣời đã trở thành mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng nhân
loại. Quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận là giá trị chính trị, đạo đức, pháp lý phổ
biến. Ở cấp độ quốc gia, quyền con ngƣời đang ngày càng đƣợc thừa nhận rộng
rãi. Tôn trọng, bảo đảm và thực thi quyền con ngƣời vừa đƣợc coi là điều kiện
vừa là mục tiêu phát triển của các nƣớc, khơng phân biệt chế độ chính trị hay
trình độ phát triển.
Vấn đề quyền con ngƣời có vai trị quan trọng nhƣ vậy, nên nhiều nƣớc
trên thế giới coi trọng việc giáo dục quyền con ngƣời nhằm làm cho mỗi con
ngƣời ý thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình biết bảo vệ quyền
của mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục
nhân quyền tại Viên (Thủ đô nƣớc Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho
việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng:
"Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng
phải biết tơn trọng những quyền của ngƣời khác", và đến 23/12/1994, Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc bằng Nghị quyết số 49/184 đã chính thức tuyên bố: "Thập
kỷ giáo dục nhân quyền bắt đầu từ 1/1/1995 đến 1/1/2004".
Nƣớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục quyền con ngƣời lại
3


càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập
với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền tồn cầu.
Thực hiện đƣợc điều đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hƣởng ứng, tham gia có hiệu
quả "Thập kỷ giáo dục nhân quyền" của Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ƣu điểm đã đạt đƣợc và làm rõ
những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời; đồng thời xác

định phƣơng hƣớng, nội dung, phƣơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục quyền
con ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Quyền con ngƣời và vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời là vấn đề có tính thời sự
và có liên quan mật thiết đến tình hình chính trị tồn cầu nên những nghiên cứu
về vấn đề quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời nhận đƣợc sự quan tâm
nghiên cứu của đơng đảo các nhà nghiên cứu trong và ngồi nƣớc. Có thể chia
những nghiên cứu này thành hai mảng nội dung chính sau:
* Những nghiên cứu về quyền con người
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về
quyền con ngƣời của nhiều học giả trong và ngoài nƣớc, tiêu biểu là cuốn sách
Quyền con ngƣời của Jacques Mourgon, giáo sƣ trƣờng đại học Khoa học Xã
hội Toulouse (Pháp). Bằng việc phân tích bản chất của con ngƣời và quyền con
ngƣời, tác giả khẳng định quyền con ngƣời là trung tâm của chính trị và trung
tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con ngƣời, nhƣng quyền con ngƣời
cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con ngƣời. Quyền con ngƣời là
"những đặc quyền" đƣợc các quy tắc điều khiển mà con ngƣời "giữ riêng" lấy
trong các quan hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Nhƣ vậy,
quyền con ngƣời trƣớc hết là các quyền cố hữu, tự nhiên con ngƣời sinh ra đã có
(cả thể xác và tƣ tƣởng) và các quyền này đƣợc sử dụng trong các quan hệ giữa
4


cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính quyền. Trên cơ sở khái niệm quyền con
ngƣời, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để bảo đảm, thực hiện
quyền con ngƣời nhƣ: sự công nhận quyền trong các điều ƣớc quốc tế về quyền
con ngƣời; sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế

kiểm soát các quyền nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức
thực thi quyền lực nhà nƣớc bảo đảm quyền con ngƣời và sự phụ thuộc của các
quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nƣớc.
Giáo sƣ Hoàng Nam Sâm, trƣờng đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung
Quốc trong bài "Khái niệm quyền con ngƣời trong truyền thống văn hóa Trung
Quốc" (2002) cho rằng: "Quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà con ngƣời
sinh ra đã đƣợc hƣởng, bao gồm trƣớc hết là quyền đƣợc sống và quyền đƣợc
phát triển; sau đó là các quyền khác" [67, tr.40], chẳng hạn nhƣ "quyền đƣợc
tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó quyền bình đẳng là quan trọng
nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi ngƣời có thể sống nhƣ một cá nhân
độc lập và quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời là bình đẳng, xét trên phƣơng
diện nhân phẩm" [67, tr.40]. Để có đƣợc một học thuyết về quyền con ngƣời, tác
giả cho rằng phải đƣợc thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về quyền con
ngƣời; thứ hai là tƣ tƣởng về quyền con ngƣời; thứ ba là quyền con ngƣời dƣới
góc độ pháp lý; thứ tƣ là khái niệm quyền con ngƣời và thứ năm là học thuyết về
quyền con ngƣời. Tác giả cũng khẳng định việc Trung Quốc thực hiện cải cách,
mở cửa đã đƣa sự phát triển về quyền con ngƣời sang một giai đoạn mới. Bằng
việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, các quyền con ngƣời
của ngƣời dân Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập
thể kết hợp hòa quyện với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lƣợng sản xuất, cải
thiện mức sống của ngƣời dân.
Bài viết "Thực tế quyền con ngƣời trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu
tranh vì quyền con ngƣời trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng
định: "Quyền con ngƣời là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới
định và thừa nhận xã hội mà con ngƣời giành đƣợc với tƣ cách là sự vật tồn tại
trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tƣ cách là ngƣời tham dự
5


giao lƣu xã hội" [28, tr.231]. Theo tác giả, quyền con ngƣời nằm sâu trong mối

quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội, do đó, quyền con ngƣời trƣớc hết là
quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển quyền con
ngƣời, sự cải thiện mối quan hệ quyền con ngƣời là quá trình lâu dài trong lịch
sử, tự do và bình đẳng trừu tƣợng không phải là thƣớc đo thông dụng đối với
quyền con ngƣời mà chỉ là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của quyền con
ngƣời mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc bảo đảm quyền con ngƣời
và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và biện chứng
với nhau, do đó, cần có cái nhìn tồn diện và khoa học về quyền con ngƣời cũng
nhƣ các cơ chế, thiết chế bảo vệ quyền con ngƣời.
Ở nƣớc ta, việc nghiên cứu quyền con ngƣời đƣợc bắt đầu từ cuối thập kỷ
80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thời gian này, các cơng trình nghiên cứu mới chỉ
là bƣớc đầu và chƣa đƣợc xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là
thời gian đánh dấu sự "bùng nổ" về hoạt động nghiên cứu quyền con ngƣời ở
Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu
quyền con ngƣời ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi bổ
sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thƣ về
Vấn đề quyền con ngƣời và quan điểm chủ trƣơng của Đảng ta. Hiến pháp 1992,
Hiến pháp của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm quyền con ngƣời
đƣợc quy định tại điều 50, thể hiện sự thay đổi mang tính bƣớc ngoặt trong nhận
thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự kiện này khẳng định việc đánh giá một cách
chính thức của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam với vấn đề quyền con ngƣời, tạo nền
tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức
thực hiện bảo đảm các quyền con ngƣời ở Việt Nam.
Trong Chƣơng trình "Con ngƣời, mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, quyền con ngƣời đã trở thành
đối tƣợng nghiên cứu cấp nhà nƣớc. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền
con ngƣời, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc", do Hoàng Văn
Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về quyền con
ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con ngƣời, lịch sử phát triển của quyền con ngƣời,
6



những nội dung cơ bản của quyền con ngƣời; thực trạng việc vi phạm quyền con
ngƣời trên thế giới cũng nhƣ các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời. Từ đó đến
nay, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nhiều học giả tập trung nghiên cứu với nhiều
cơng trình khoa học đƣợc cơng bố có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trên
hầu hết lĩnh vực của quyền con ngƣời, nhƣ đề tài khoa học cấp bộ "Quan điểm
C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con ngƣời", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997) ;
đề tài "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Quyền con ngƣời", Cao Đức Thái chủ nhiệm
(1998); đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con
ngƣời và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm,
đề tài "Tƣ tƣởng V.I.Lênin về quyền con ngƣời", Hoàng Mai Hƣơng chủ nhiệm
(2009); đề tài "Tƣ tƣởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý
cơ bản", Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) . Các cơng trình trên đã tập trung
phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời: nguồn gốc của
quyền con ngƣời, khái niệm quyền con ngƣời, các quan điểm, luận điểm khác
nhau về quyền con ngƣời trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin về
quyền con ngƣời; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời cũng nhƣ các điều
kiện cần thiết để bảo đảm quyền con ngƣời và khẳng định: quyền con ngƣời là
một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính giai cấp; nó là sản phẩm của
phƣơng thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nƣớc và pháp luật, đƣợc bảo vệ
bằng pháp luật; đƣợc thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Đây là những cơng trình đặt cơ sở phƣơng pháp luận cho việc triển
khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về quyền con ngƣời.
Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về quyền
con ngƣời đã đƣợc công bố nhƣ: "Quyền con ngƣời trong thế giới hiện đại", tác
giả Phạm Khiêm Ích và Hồng Văn Hảo chủ biên (1995) , sách "Tìm hiểu vấn
đề nhân quyền trong thế giới hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên; sách
tham khảo "Góp phần tìm hiểu quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Phạm Văn
Khánh; sách "Triết học chính trị về quyền con ngƣời" (2006) của tác giả Nguyễn

Văn Vĩnh; "Quyền con ngƣời, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội"
(2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, Tuyển tập tƣ
7


liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
"Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc 9 gia" (2011) của Hội
đồng Lý Luận Trung ƣơng, "Quyền con ngƣời, lý luận và thực tiễn" (2014) của
Viện nghiên cứu quyền con ngƣời,... Mặc dù cách tiếp cận và phân tích có khác
nhau, song các cơng trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái niệm
quyền con ngƣời, bản chất đặc trƣng của quyền con ngƣời, nội dung các quyền
cơ bản của con ngƣời cũng nhƣ các điều kiện, cơ chế bảo đảm quyền con
ngƣời...
Trên cơ sở các cơng trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn
giáo trình giảng dạy về quyền con ngƣời. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về
quyền con ngƣời" do Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con ngƣời" của Khoa luật, Đại học quốc gia (2009)... Mặc dù cách tiếp
cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung, các giáo trình này đều tập trung giới
thiệu về những vấn đề lý luận của quyền con ngƣời nhƣ: khái niệm quyền con
ngƣời; đặc trƣng cơ bản của quyền con ngƣời; nội dung cơ bản của quyền con
ngƣời; sự phát triển quyền con ngƣời trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về
quyền con ngƣời; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về quyền con ngƣời; quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con
ngƣời; phân tích các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm quyền con
ngƣời, trong đó nhấn mạnh "Ngày nay, quyền con ngƣời đã đƣợc quốc tế hóa về
nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là
sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con ngƣời. Tuy nhiên, việc bảo đảm
các quyền con ngƣời hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ quốc gia, trong
thẩm quyền pháp lý của các nhà nƣớc" [77, tr.126]. Vì vậy, các quốc gia đều có

nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền con ngƣời theo quy định
của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tơn trọng cơ chế giám
sát quốc tế và phải tuân thủ các công ƣớc mà quốc gia đã ký kết, gia nhập...
*Những nghiên cứu về giáo dục quyền con người

8


Với ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đối
với việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền nhƣ đã trình bày trên đây,
việc nghiên cứu về vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức,
các nhà nghiên cứu, các học giả, các chuyên gia trên thế giới và trong các quốc
gia, trong đó có Việt Nam.
Ở phạm vi quốc tế, các cơng trình nghiên cứu về giáo dục quyền con
ngƣời đáng kể nhất phải kể đến những tài liệu, hƣớng dẫn về giáo dục quyền con
ngƣời của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc nhƣ: Cuốn “Sử dụng ABC: giảng
dạy về quyền con ngƣời, các hoạt động thực tiễn cho các trƣờng phổ thông (cấp
I và cấp II)” xuất bản năm 2003 với nội dung giáo dục những kiến thức cơ bản,
sơ khai về nhân quyền cho học sinh cấp tiểu học và những hiểu biết ở mức bảo
vệ nhân quyền cho học sinh cấp trung học cơ sở; Năm 1999 Trung tâm quốc gia
về giáo dục pháp luật, thuộc Đại học Warwick, Anh đã xuất bản cuốn “Giảng
dạy nhân quyền” với nội dung lồng ghép giáo dục nhân quyền với giáo dục pháp
luật; Đến năm 2000, Hội đồng Anh xuất bản ba tập sách với nội dung về: Giáo
dục công dân và giáo dục nhân quyền.
Ở Việt Nam, trong vấn đề giáo dục quyền con ngƣời hiện nay vẫn chủ yếu
gắn với giáo dục pháp luật, do đó, có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều luận
văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề trên, có thể liệt kê những tác phẩm,
cơng trình nghiên cứu nhƣ: "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cƣờng pháp
chế xã hội chủ nghĩa", luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đƣờng; "Ý thức pháp
luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt

Nam)", luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân
dân" của Nguyễn Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức
pháp luật để tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con ngƣời mới"
của Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức
pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989); "Cơ
sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài khoa
học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc Trung tâm
Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo
9


dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp; "Tìm kiếm mơ
hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít ngƣời" đề
tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; "Thực trạng và
phƣơng hƣớng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nƣớc
ta hiện nay", luận văn Thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng…
Ở góc độ riêng về giáo dục quyền con ngƣời thời gian gần đây có một số
cơng trình nghiên cứu điển hình nhƣ: "Giáo dục nhân quyền hƣớng tới thế kỷ
XXI" của Tƣờng Duy Kiên (Tạp chí Thơng tin Khoa học thanh niên, số 4,
1997); Chuyền đề “Nghiên cứu giảng dạy về quyền con ngƣời” (Thông tin
Quyền con ngƣời, số 3, 2009); Chuyên khảo “Giáo dục quyền con ngƣời, những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (Viện khoa học
xã hội Việt Nam, năm 2010); Báo cáo khoa học tổng quan đề tài cấp cơ sở
“Giáo dục quyền con ngƣời_lý luận, thực tiễn Quốc tế và Việt Nam” do Ths.
Nguyễn Văn Tuấn làm chủ nhiệm đề tài (Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật
năm 2010)… Những cơng trình nghiên cứu trên là đóng góp to lớn cho nền giáo
dục quyền con ngƣời của Việt Nam.
Nhƣ vậy, trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời. Các cơng trình nghiên
cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời, từng

lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con ngƣời, về tổ chức và hoạt động của
chƣơng trình giáo dục về quyền con ngƣời… Vì thế, các cơng trình này là nguồn
tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và
giáo dục quyền con ngƣời, khóa luận bƣớc đầu khảo cứu thực trạng giáo dục
quyền con ngƣời ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm
tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận
10


Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về quyền con ngƣời và giáo dục
quyền con ngƣời.
Bƣớc đầu khảo sát thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện
nay.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục
quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1: Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về quyền con ngƣời và giáo dục
quyền con ngƣời hiện nay.
4.2: Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác
nhau, bao gồm: thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu
các vấn đề lý luận, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục về quyền
con ngƣời ở Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất, luận chứng một cách khoa học
phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giáo dục về quyền con ngƣời ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
5.1: Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Quyền con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời ở
Việt Nam hiện nay.
5.2: Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào nghiên cứu khái niệm quyền con ngƣời và lịch sử
phát triển của tƣ tƣởng về quyền con ngƣời, hoạt động giáo dục quyền con
ngƣời ở Việt Nam chủ yếu khảo cứu qua các chƣơng trình giáo dục ở bậc phổ
thông và đại học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Khóa luận góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề lý luận chung về quyền
con ngƣời và giáo dục quyền con ngƣời
11


Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những vấn đề có liên quan đến đề tài, đồng thời làm tài liệu tham khảo bổ ích
cho việc giảng dạy và nghiên cứu trong những bình diện có liên quan.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận đƣợc chia làm 2 chƣơng, 5 tiết.

12


NỘI DUNG
Chƣơng 1. Khái quát chung về quyền con ngƣời và giáo dục quyền con
ngƣời trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
1.1: Khái niệm quyền con người, quyền công dân

1.1.1: Khái niệm quyền con người
Nhận thức về quyền con ngƣời là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
xã hội loài ngƣời, là giá trị tinh thần quý giá của nền văn minh nhân loại. Khái
niệm “quyền con ngƣời” (Human Rights) xuất hiện đầu tiên ở phƣơng Tây thế
kỷ XVII - XVIII. Trong một số tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng nhƣ J.J.
Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v.. đã đề cập đến khái niệm này. Sau đó khái
niệm này đã đƣợc cụ thể hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý của một
số quốc gia nhƣ: Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về quyền con
ngƣời và quyền công dân ở Pháp năm 1789,v.v… Cuối cùng quyền con ngƣời
cũng trở thành vấn đề quốc tế mà các quốc gia cùng quan tâm và bảo hộ khi
hàng loạt các điều ƣớc quốc tế ghi nhận.
Khái niệm quyền con ngƣời có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dƣới dạng các
quyền tự nhiên của con ngƣời nhƣ quyền đƣợc sống... Dƣới chế độ chiếm hữu
nô lệ, ngƣời nô lệ khơng đƣợc coi là con ngƣời, khơng có và không đƣợc thừa
nhận các quyền con ngƣời. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một
bƣớc tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con ngƣời. Giai cấp tƣ
sản là giai cấp đầu tiên nêu ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tƣ tƣởng tự
do, bình đẳng, bác ái, cơng lý, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động để
tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền
con ngƣời, “quyền tƣ hữu thiêng liêng”. Khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên
đƣợc chính thức ghi trong các văn kiện quan trọng nhƣ Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ, Tuyên ngôn về quyền con ngƣời và quyền công dân của Pháp 1789, Tuyên
ngôn cộng sản 1848... Quyền con ngƣời (Nhân quyền) là những quyền tự nhiên
của con ngƣời và không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Trong
“Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, đã khẳng định: “…tất cả
mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng… tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể
13


xâm phạm đƣợc, trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do, và

quyền mƣu cầu hạnh phúc” [73, tr.15].
Nhƣ vậy, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 có thể đƣợc coi là sự xác
nhận chính thức, đầu tiên về mặt nhà nƣớc về quyền con ngƣời trong lịch sử
phát triển của quyền con ngƣời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã cho
rằng: Nƣớc Mỹ - đó là nơi: “Lần đầu tiên xuất hiện ý tƣởng về một nƣớc cộng
hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã đƣợc
công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng Châu Âu thế kỷ
XVIII” [53, tr.65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản hiến pháp của
Mỹ năm 1787.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng
trở nên bức xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của các quốc gia dân tộc trên
thế giới cũng nhƣ của toàn thể cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó, một tổ chức
Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản “Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc” ngày
24 -10 – 1945 với mục đích và nhiệm vụ chính là vì vấn đề con ngƣời trên phạm
vi tồn cầu. Sau 3 năm thành lập, tháng 12 năm 1948, Liên Hợp Quốc đã công
bố bản “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền”. Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện
quốc tế về nhân quyền đƣợc công bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về
quyền con ngƣời.
Tuy vậy giai cấp tƣ sản chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị,
mà chƣa chú trọng quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở và điều kiện quan
trọng để ngƣời lao động thốt khỏi đói nghèo và bị bóc lột. Cách mạng tháng 10
Nga đã tạo nên một phạm trù mới về quyền con ngƣời: đó là các quyền kinh tế,
văn hoá, xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, các nƣớc XHCN đã đi đầu
trong việc nêu bật các quyền dân tộc cơ bản nhƣ bộ phận thiết yếu của các
quyền tập thể, đƣa ra cách đề cập toàn diện và biện chứng hơn về quyền con
ngƣời. Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của loài ngƣời, nội dung các quyền
con ngƣời tiếp tục phát triển.
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng và bảo đảm quyền con ngƣời đã có một lịch
sử truyền thống lâu đời, gắn liền với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân
14



tộc. Tuy nhiên, vấn đề quyền con ngƣời mới thực sự đƣợc đề cao và xem trọng
cho đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lúc này vấn đề quyền
con ngƣời đã đƣợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia.
Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con ngƣời. Tiếp đó là các bản Hiến pháp
năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con
ngƣời, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ:
Nhà nƣớc Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách
nhiệm bảo đảm và khơng ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân. Đặc biệt khái niệm quyền con ngƣời lần đầu tiên đƣợc đƣợc đƣa vào Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) trong một chế định cụ thể.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, “quyền con ngƣời” là phạm trù
lịch sử có q trình hình thành, phát triển, phản ánh những quy luật vận động
khách quan của con ngƣời và là thành quả của quá trình đấu tranh lâu dài trong
lịch sử. Mỗi thời đại, nhân dân lao động và các dân tộc đều phải trải qua sự đấu
tranh, hy sinh cũng vì quyền con ngƣời. Vấn đề quyền con ngƣời luôn là trung
tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội và tiến bộ của nhân loại. Lịch sử phát triển
của xã hội lồi ngƣời tùy thuộc vào từng hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà
vấn đề quyền con ngƣời cũng đƣợc lý giải và thực hiện theo nhiều cấp độ khác
nhau.
Quan niệm thứ nhất bắt nguồn từ chỗ coi con ngƣời là một thực thể tự
nhiên, nên quyền con ngƣời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa là
quyền con ngƣời, quyền lợi của con ngƣời với tƣ cách là ngƣời, gắn liền với cá
nhân con ngƣời, không thể tách rời.
Quan điểm này đƣợc các đại biểu tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản ở thế kỷ
XVII, XVIII nhƣ Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra
trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên. Trƣờng phái này cho rằng, quyền tự
nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nƣớc. Xuất phát từ

quan điểm này, Jacques Mourgon (giáo sƣ đại học khoa học xã hội Toulouse)
đƣa ra định nghĩa: "Quyền con ngƣời là những đặc quyền đƣợc các quy tắc điều
15


khiển mà con ngƣời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và
với chính quyền" [42, tr. 12].
Quan niệm thứ hai lại chỉ đặt con ngƣời và quyền con ngƣời trong mối
quan hệ xã hội. Quan niệm này cho rằng, con ngƣời chỉ là một thực thể xã hội,
nên quyền của nó chỉ đƣợc xác định trong mối tƣơng quan với các thực thể xã
hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó đƣợc chế độ nhà nƣớc, pháp luật điều
chỉnh bảo vệ.
Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngƣời là một khái niệm
có tính lịch sử, đặt con ngƣời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con
ngƣời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con
ngƣời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột,
đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở của quyền con
ngƣời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do
chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
Quan niệm thứ ba là quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề
quyền con ngƣời. Xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời vừa là sản phẩm tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng con ngƣời:
"Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [60, tr. 12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngƣời là "động vật xã hội có
khả năng tái sinh ra con ngƣời, con ngƣời là động vật cao cấp nhất trong quá
trình tiến hóa” [60, tr. 855]. Do đó, về mặt này quyền con ngƣời trƣớc hết là một
thuộc tính tự nhiên. Quyền con ngƣời không phải là một "tặng vật", do giai cấp
thống trị ban phát thông qua nhà nƣớc mà quyền con ngƣời trong hình thức lịch
sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, đƣợc thể hiện ở quyền đƣợc sống,
quyền tự do, quyền đƣợc sáng tạo, phát triển, quyền đƣợc đối xử nhƣ con ngƣời,

xứng đáng với con ngƣời.
Xét về mặt xã hội, con ngƣời mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự
nhiên, nhƣng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con ngƣời đã sống
thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cƣơng thứ
VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
16


ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội" [60, tr. 21]. Do đó xét về khía cạnh xã
hội, thì quyền con ngƣời, ngay từ khi có xã hội lồi ngƣời, bên cạnh bản tính tự
nhiên cịn in đậm bản tính xã hội.
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nƣớc, đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bƣớc ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tƣơng quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con ngƣời. Đi kèm xã hội có
giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã
hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản
tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con ngƣời cũng tất yếu chịu sự
chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con ngƣời, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính con
ngƣời, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con ngƣời, sự
phát triển của lực lƣợng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Con ngƣời
càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền
con ngƣời ngày càng đƣợc mở rộng, ngày càng đƣợc đảm bảo bấy nhiêu.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời. Học
giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: "Quyền con ngƣời là các khả năng của con ngƣời
đƣợc đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi
phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng
quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt
động của mình và của ngƣời khác trên cơ sở pháp luật" [17, tr. 34]. Định nghĩa

này mới chỉ đề cập đến quyền con ngƣời với tƣ cách là phạm trù luật học.
Một định nghĩa đang đƣợc sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu
về quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con ngƣời) là
những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngƣời, với tƣ cách là thành
viên cộng đồng nhân loại, đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế" [31, tr. 10] .
Qua những phân tích trên đây có thể rút ra kết luận: Quyền con ngƣời là
những quyền không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào; đó là:
17


quyền sống, quyền tự do, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, quyền đƣợc bảo vệ
và bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền an ninh thân thể, quyền khơng bị hình phạt
tàn bạo và bất bình thƣờng…Đó cũng là những địi hỏi chính đáng về tự do và
những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần đƣợc đáp ứng của con ngƣời, không bị phá
hủy khi xã hội dân sự đƣợc thiết lập và khơng một xã hội hay một chính phủ nào
có thể xóa bỏ hoặc chuyển nhƣợng các quyền này. Nói cách khác, quyền con
ngƣời đóng vai trị “là cơ sở để xác định tính điều chỉnh tự định đoạt của con
ngƣời, khả năng độc lập của con ngƣời trong việc giải quyết các nhu cầu cá
nhân” [27, tr.21].
Nhƣ vậy, có thể hiểu quyền con ngƣời là một phạm trù tổng hợp, vừa là
"chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một
quá trình lịch sử lâu dài ln ln tiến hóa và phát triển". Quyền con ngƣời
"không thể tách rời", đồng thời cũng không hồn tồn phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con ngƣời là một tổng thể những quyền gắn
bó với nhau trong mối tƣơng quan biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền
của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền
của cá nhân đi đơi với nghĩa vụ đối với xã hội...
Nhƣ vậy, mặc dù cho đến nay vẫn cịn tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác
nhau về quyền con ngƣời, nhƣng rõ ràng rằng quyền con ngƣời là những giá trị

cao cả cần đƣợc tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, quyền con ngƣời khơng thể tách khỏi hịa bình, dân chủ
và phát triển.
1.1.2: Khái niệm quyền công dân
Quyền công dân, về nguồn gốc lịch sử nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tƣ sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tƣ sản đã
biến con ngƣời từ địa vị thần dân trong nhà nƣớc quân chủ sang địa vị công dân
trong nhà nƣớc cộng hịa. Nghĩa là khi đề cập đến khái niệm cơng dân là đề cập
đến một bộ phận con ngƣời, theo quy định của pháp luật với tƣ cách là những
thành viên bình đẳng trong nhà nƣớc, từ đó mà quyền con ngƣời đƣợc thừa nhận
một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhƣng quyền
18


công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền
con ngƣời, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc và mối
quan hệ đó đƣợc xác định thơng qua một chế định pháp luật, đặc biệt là chế định
quốc tịch.
Hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về quyền cơng dân:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì quyền công dân là: “Quyền của ngƣời
công dân đƣợc thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế văn hóa xã hội” [19, tr.1384].
Theo Tiến sĩ Nguễn Đình Lộc, “Quyền cơng dân – đó là sự thể chế hóa về
mặt nhà nƣớc bằng pháp luật địa vị con ngƣời trong khuôn khổ nhà nƣớc, là sự
thừa nhận trong chừng mực mà nhà nƣớc chấp nhận, địa vị con ngƣời của cá
nhân trong nhà nƣớc”. [64, tr.75]
Thạc sĩ Vũ Công Giao cho rằng: “Quyền công dân là tập hợp các quyền tự
nhiên đƣợc pháp luật của một nƣớc quy định, mà tất cả những ngƣời có chung
quốc tịch của nƣớc đó đƣợc hƣởng một cách bình đẳng”. [24, tr.21]
Các khái niệm trên tuy có sự diễn đạt khác nhau, nhƣng về bản chất, nội
dung đều xuất phát từ khái niệm về quyền công dân của C.Mác. Về vấn đề này

C.Mác cho rằng “Quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá
nhân con ngƣời với tƣ cách là thành viên xã hội công dân” [53, tr.14].
Nhƣ vậy, khái niệm công dân, quyền công dân ra đời sau quyền con
ngƣời, nó gắn liền và đƣợc sử dụng rộng rãi trong xã hội tƣ sản.
So với khái niệm quyền con ngƣời thì khái niệm quyền cơng dân mang
tính xác định hơn. Tuy nhiên quan niệm về quyền công dân của mỗi quốc gia là
khác nhau, và tùy thuộc vào thể chế chính trị, vào giai cấp cầm quyền trong xã
hội. Trƣớc dây ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con ngƣời ít khi đƣợc
nói đến nên mặc nhiên đƣợc hiểu rằng quyền con ngƣời và quyền công dân là
đồng nhất. Trong các văn kiện pháp lý (Hiến pháp, pháp luật) chỉ tồn tại thuật
ngữ quyền công dân. Ngay ở Việt Nam cũng vậy, trong các hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 đều chỉ đề cập đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của
công dân mà không đề cập đến vấn đề quyền con ngƣời. Chỉ đến Hiến pháp năm
19


1992, vấn đề quyền con ngƣời mới chính thức đƣợc đề cập đến với nội dung “Ở
nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngƣời về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội đƣợc tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân
và đƣợc quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50 – Hiến pháp năm 1992).
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 chỉ thừa nhận thuật ngữ "quyền con ngƣời"
thông qua quy định “quyền con ngƣời về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã
hội đƣợc thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50 nhƣng lại chƣa phân biệt
rạch ròi đƣợc quyền con ngƣời với quyền cơ bản của cơng dân. Khắc phục thiếu
sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con ngƣời” và
“quyền cơng dân”. Theo đó, quyền con ngƣời đƣợc quan niệm là quyền tự nhiên
vốn có của con ngƣời từ lúc sinh ra (kể cả đối với ngƣời quốc tịch nƣớc ngồi,
ngƣời khơng quốc tịch, ngƣời có quốc tịch Việt Nam đã bị tƣớc hoặc hạn chế
một số quyền công dân); cịn quyền cơng dân, trƣớc hết cũng là quyền con
ngƣời, nhƣng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý

của cơng dân trong quan hệ với nhà nƣớc. Để làm rõ sự khác biệt này, tham
khảo các công ƣớc Quốc tế về quyền con ngƣời và Hiến pháp của các nƣớc,
Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi ngƣời” khi thể hiện quyền con ngƣời và
dùng từ “công dân” khi quy định về quyền cơng dân. Bên cạnh đó, nhằm khắc
phục sự tùy tiện ra các quy định trong việc hạn chế quyền con ngƣời, quyền
công dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định ngun tắc “Quyền con ngƣời,
quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trƣờng hợp
cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, khơng ai đƣợc tùy tiện cắt xén, hạn
chế các quyền, ngoại trừ các trƣờng hợp cần thiết nói trên do Luật định. Điều
này xác lập nguyên tắc quyền con ngƣời, quyền công dân chỉ bị hạn chế bằng
Luật chứ không phải các văn bản dƣới luật: “Ở nƣớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam, các quyền con ngƣời, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội đƣợc cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật” (Điều 14- Hiến pháp năm 2013).

20


1.1.3: Quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân
Quyền con ngƣời là những quyền tự nhiên và xã hội của con ngƣời và
không bị tƣớc bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào, mọi ngƣời sinh ra đều
bình đẳng và đƣợc tạo hóa ban cho một số quyền không thể tƣớc bỏ, nhƣ quyền
sống, quyền đƣợc tƣ do và quyền mƣu cầu hạnh phúc.
Quyền con ngƣời chính là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác định quyền bình
đẳng, tự do trong các quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, cũng nhƣ giữa các dân tộc,
và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài ngƣời nhằm hƣớng tới làm chủ thiên
nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Đó là quyền tự nhiên của mỗi
ngƣời với tƣ cách là thực thể của tự nhiên và xã hội, không phân biệt quốc tịch,

màu da, ngơn ngữ và chính kiến,…đƣợc bảo đảm bằng pháp luật quốc tế, quốc
gia mà trƣớc hết là luật pháp quốc gia [24, tr. 32-35].
Quyền con ngƣời khơng chỉ bao qt quyền cơng dân mà cịn là quyền
của tất cả mọi ngƣời, không phân biệt quốc tịch, năng lực hành vi dân sự và
năng lực pháp luật. Đó cịn là quyền của quốc gia. Đặc biệt các quyền về kinh tế,
xã hội của ngƣời dân trong đó có quyền sở hữu tƣ nhân, quyền tự do kinh doanh,
đƣợc nhà nƣớc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện.
Quyền công dân là khả năng công dân thực hiện một hành vi nào đó theo
quy định của pháp luật một cách tự nguyện, tự do ý chí nhằm thỏa mãn những
nhu cầu và lợi ích của bản thân.
Khi nghiên cứu vấn đề “quyền con ngƣời” ta phải xem xét đầy đủ cả hai
khái niệm quyền con ngƣời và quyền cơng dân. Đây là hai khái niệm cơ bản, có
mối quan hệ biện chứng, mật thiết với nhau nhƣng cũng có sự độc lập nhất định
với nhau và cần đƣợc phân biệt rõ khi tiếp cận vấn đề này.
Khái niệm quyền con ngƣời là khái niệm rộng hơn so với khái niệm
quyền cơng dân. Nó khơng chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nƣớc
mà còn biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân con ngƣời với cộng đồng xã hội. Do
đó trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, quyền con ngƣời bao gồm toàn bộ
những quyền tự nhiên đƣợc xác định từ khi họ sinh ra và tồn tại suốt cuộc đời
21


×