Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Khóa luận sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã đông yên, huyện quốc oai, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.79 KB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

Kiều Thị Minh Châu

SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HĨA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN XÃ ĐƠNG N,
HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

Kiều Thị Minh Châu

SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HĨA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN XÃ ĐƠNG N,
HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy


Khóa học: QH-2015-X

Người hướng dẫn: TS. Phạm Quỳnh Chinh

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Phạm Quỳnh Chinh. Các tài liệu, tư liệu số liệu, dẫn
chứng được sử dụng trong khóa luận là trung thực, khách quan và có nguồn
gốc rõ ràng.
Nếu có bất kỳ vấn đề gì tơi xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019
Sinh viên

Kiều Thị Minh Châu


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài khóa luận này, trước tiên, em xin cảm ơn các Thầy,
các Cô trong khoa Triết học, Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội suốt bốn năm qua đã dày công dạy dỗ, truyền đạt
cho em những kiến thức, phương pháp, kỹ năng trong việc học tập, tìm hiểu,
hồn thiện bài khóa luận.
Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các vị cán bộ, công nhân viên công tác
tại Ủy ban nhân dân xã Đông Yên và đặc biệt là người nông dân tại xã Đông
Yên đã cung cấp tài liệu và hướng dẫn sử dụng số liệu phục vụ bài nghiên
cứu.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Phạm Quỳnh Chinh –

người Thầy vơ cùng tâm huyết và tận tình đã chỉ bảo, hướng dẫn, động viên
giúp em hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp này
Trong quá trình viết bài, do kiến thức của bản thân em cịn hạn hẹp cho
nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những
đóng góp ý kiến q báu của Thầy, Cơ để bài khóa luận của em được hồn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 06 năm 2019
Sinh viên

Kiều Thị Minh Châu


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
NỘI DUNG..................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HÓA,
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
ĐÔNG YÊN ............................................................................................... 12
1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa
tinh thần của người nơng dân .............................................................. 12
1.1.1.
thần

Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh
................................................................................................... 12

1.1.2.


Đặc điểm của giai cấp nơng dân Việt Nam .............................. 19

1.2. Khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đời sống
văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên ............................ 24
1.2.1.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ............................................ 24

1.2.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân ở
xã Đông Yên............................................................................................ 29
CHƯƠNG 2. SỰ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN CỦA
NGƯỜI NƠNG DÂN XÃ ĐÔNG YÊN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP .............................................................. 40
2.1. Thực trạng sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nơng
dân xã Đơng n hiện nay ........................................................................ 40
2.1.1. Sự biến đổi trong nhận thức, tư tưởng .......................................... 41
2.1.2. Sự biến đổi trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ. ........................................................................................................ 45
2.1.3. Sự biến đổi trong đạo đức, lối sống .............................................. 51
2.1.4. Sự biến đổi trong hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo. ............ 54
2.1.5. Sự biến đổi trong hoạt động văn hóa – văn nghệ, thể thao - giải trí.
................................................................................................................. 59
2.2. Nguyên nhân và một số giải pháp phát huy tích cực, hạn chế tiêu
cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân xã Đơng n
hiện nay. ..................................................................................................... 61
2.2.1 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần
của người nơng dân xã Đông Yên hiện nay ............................................ 61
1



2.2.2. Một số giải pháp phát huy tích cực và hạn chế tiêu cực trong đời
sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông Yên hiện nay ...... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 82

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH: cơng nghiệp hóa
HĐH: hiện đại hóa
NTM: nơng thơn mới
UBND: ủy ban nhân dân

3


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước có phần lớn dân số sống và làm việc tại khu vực

nông thôn nên việc nghiên cứu về nông dân và đời sống văn hóa tinh thần của
người nơng dân là một việc làm cần thiết và vô cùng quan trọng. Nó sẽ góp
phần thúc đẩy q trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH như hiện nay.
Đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân Việt Nam nhìn chung là

tổng hịa các hoạt động sản xuất, trao đổi và tiêu dùng các giá trị văn hóa và
cơ bản là văn hóa gốc nơng nghiệp trồng lúa nước. Vì vậy, nó mang nhiều nét
hài hịa với tự nhiên nhưng cũng rất đặc sắc, phong phú. Những năm gần đây
quá trình CNH – HĐH đất nước đã thúc đẩy kinh tế và văn hóa ở các vùng
nơng thơn Việt Nam tạo ra sự phát triển nhanh và mạnh, làm thay đổi mọi mặt
đời sống của người nông dân. Theo đó, các yếu tố văn hóa mới hình thành,
nét văn hóa truyền thống có nhiều biến đổi. Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh
thần của người nơng dân đã có sự thay đổi vượt bậc. Tuy nhiên, do sự tác
động từ nền kinh tế thị trường và sự xâm nhập nhanh chóng của lối sống đơ
thị gây ra một số tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của họ. Điều này
thể hiện rõ trong các lĩnh vực như: lĩnh vực nhận thức, lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, khoa học – công nghệ, lĩnh vực đạo đức - lối sống, lĩnh vực tơn giáo – tín
ngưỡng, lĩnh vực thể thao – giải trí,... Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu sự
biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân là một việc làm
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Đông Yên là một xã nằm phía Tây huyện Quốc Oai thuộc thành phố Hà
Nội là địa phương làm nông nghiệp truyền thống điển hình với 75% dân số
lao động chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, chăn ni. Khơng nằm ngồi xu
thế phát triển chung, những năm gần đây đời sống sản xuất kinh tế của người
nông dân xã Đông Yên gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Do vậy, đời sống
vật chất của người nông dân được đảm bảo, đời sống văn hóa tinh thần ngày
4


càng đa dạng. Song, bên cạnh đó cịn nhiều vấn đề nảy sinh, nổi cộm trong
việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân nơi
đây. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần
của người nơng dân xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội hiện
nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của tập
thể cũng như các nhà khoa học về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và sự
biến đổi trong đời sống văn hóa của người nơng dân điển hình là:
Tập thể nhiều tác giả (2008) trong cuốn Nông dân, nông thôn và nông
nghiệp- những vấn đề đang đặt ra, Nxb Tri thức. Nhóm tác giả đã tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau, nghiên cứu về vấn đề tam nơng. Điển hình là tác giả
Tương Lai từ cách tiếp cận xã hội học và căn cứ vào thực trạng ở vùng đồng
bằng sông Hồng nhấn mạnh các giải pháp gắn liền mục tiêu phát triển kinh tế
với phát triển xã hội. Vấn đề dân chủ cơ sở và nền tảng văn hóa nơng thơn
cũng được tác giả phân tích sâu sắc. Từ cách tiếp cận kinh tế học, tác giả Đào
Thế Tuấn và Đặng Kim Sơn đã đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế
nông thôn nhằm gắn kết một cách hữu cơ giữa phát triển công nghiệp và phát
triển nông nghiệp, giữa đô thị và nông thôn, giữa bảo hộ sản xuất nông nghiệp
và hội nhập kinh tế toàn cầu...
Tác giả Đặng Kim Sơn (2008) trong Kinh nghiệm quốc tế về nông
ngiệp, nông thôn trong q trình cơng nghiệp hóa, Nxb chính trị Quốc gia Hà
Nội. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích vấn đề nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân
trong q trình cơng nghiệp hóa nhiều nước trên thế giới như Pháp, Đài Loan,
Mỹ Latinh, Nhật Bản, Trung quốc,... Tác giả đã liên hệ vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn như vai trị của
nơng nghiệp trong cơng nghiệp hóa, vấn đề cơ cấu sản xuất, giải quyết các
vấn đề đất đai, lao động, mơi trường trong q trình CNH – HĐH đất nước.
5


Vũ Quang Hiển (chủ biên) (2013), Đảng với vấn đề nơng nghiệp, nơng
dân, nơng thơn (1930 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia. Là một trong bốn
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề tam nông được đánh giá cao. Nội
dung cuốn sách gồm 5 chương. Trong đó chương 1, nhóm tác giả đã đề cập
đến những quan điểm lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh về vấn đề nơng dân, nơng nghiệp và nơng thơn. Bên cạnh đó
các tác giả cũng nêu rõ tình hình nơng dân, nơng nghiệp và nơng thơn ở Việt
Nam trong thời kì thuộc địa. Đến chương 2 và chương 3, các tác giả giúp
người đọc hiểu rõ những chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề nông
dân, nông nghiệp và nông thôn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954) và ở miền ắc (1954-1975). Ở chương 4, nội dung chính là nêu
rõ quan điểm của Đảng về nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở miền Nam
(1954-1975). Chương 5, nhóm tác giả khép lại nội dung cuốn sách bằng vấn
đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và kh ng định
vấn đề tam nông trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự tiếp nối của lịch
sử.
Tác giả Quý Lâm - Kim Phượng (2014) trong Chính sách quốc gia về
đầu tư và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nxb Nông nghiệp.
Hai tác giả đã triển khai nội dung cuốn sách thành 9 phần. Gồm các nội dung
như, bộ tiêu chí quốc gia để đánh giá tiêu chuẩn nông thôn mới, quy chuẩn
quốc gia về quy hoạch xây dựng nơng thơn mới, tiêu chí xã hội hóa giáo dục
– đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, mơi trường đáp ứng u cầu nơng
thơn mới,... Từ đó cho người đọc thấy một bức tranh đầy đủ về những chính
sách của Đảng và Nhà nước để xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nông dân.
Tập thể tác giả gồm Đặng Kim Sơn, Đỗ Liên Hương, Phạm Thị Kim
Dung, Trần Công Thắng, Võ Thị Thanh Tâm (2014) trong Đổi mới chính
sách nơng nghiệp Việt Nam – bối cảnh, nhu cầu và triển vọng, Nxb chính trị
6


Quốc gia. Trình bày nội dung trong 6 chương về tình hình kinh tế nơng
nghiệp, nơng thơn Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Bên cạnh
đó, đề cập đến những cải cách, chính sách và cơng tác thi hành các chính sách

nơng nghiệp trong thời gian qua, phân tích những thách thức và cơ hội cho
phát triển nơng nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra những
đề xuất cho đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam theo hướng phát triển
bền vững.
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về đời sống
văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần như:
Trần Hữu Tòng (1998), Hỏi và đáp về văn hóa làng, gia đình văn hóa,
nếp sống văn hóa, tổ chức lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội. Tác phẩm được trình bày dưới dạng hỏi đáp, giải đáp tất cả những vấn đề
có liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn
hóa và tổ chức các lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai trị tun truyền,
hướng dẫn mọi người hiểu được bản chất, cách thực hiện những vấn đề đã
nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam. Trong cuốn sách này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học, tác giả
đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù của dân
tộc Việt Nam. Cuồn sách gồm 11 chương, trong đó 3 chương đầu khái quát cơ
bản về các khái niệm giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng của
lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền thống. Từ chương 4 đến
chương 10 tác giả tập trung phân tích 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì
nghĩa. Cách trình bày các phạm trù có hệ thống và mang tính khoa học với ý
nghĩa như một “bảng giá trị tinh thần” của người Việt.
Trương Công Thấm, Vũ Hải (biên soạn) (2012), Xây dựng đời sống
văn hóa nơng thơn mới, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội. Tác giả đã trình những
vấn đề của người nơng dân trong q trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt
7


nhấn mạnh cơng tác xây dựng văn hóa cấp cơ sở. Từ đó, cho đọc giả một hình

dung rõ nét về nhiệm vụ, việc làm cần thiết của các cấp chính quyền cũng như
người nơng dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa nơng thơn mới.
Phạm Quỳnh Chinh (2007), Đơ thị hóa và ảnh hưởng của nó đến xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành hà nội hiện nay, luận văn thạc sĩ
triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Tác giả dựa
trên cơ sở lý luận về đô thị hóa và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần chỉ ra
những ảnh hưởng của q trình đơ thị hóa đến đời sống văn hóa tinh thần ở
ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đời sống văn hóa tinh thần ở ngoại thành Hà Nội trước ảnh hưởng của đơ thị
hóa.
Lương Thị Thu Trang (2012), Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở
nơng thơn đồng bằng Bắc Bộ (nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), luận văn thạc sĩ xã hội học, trường Đại học khoa học
xã hội và nhân văn, Hà Nội. Từ những kết quả thu được từ cuộc khảo sát đời
sống văn hóa tinh thần ở xã Vũ Đồi, tác giả đã phân tích các quan điểm sống,
cách hưởng thụ văn hóa tinh thần, cách ứng xử với xã hội và sự biến đổi tâm
lý của họ trước những ảnh hưởng của q trình cơng nghiệp hóa – đơ thị hóa.
Tác giả cũng đưa ra một cái nhìn tổng quan về sự khác biệt của đời sống văn
hóa tinh thần giữa các nhóm dân cư ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay đang diễn
ra như thế nào.
Lê Minh Chi (2015), Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng
nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, LVTS Triết học, Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn. Tác giả triển khai nội dung thành hai chương, ở
chương một trình bày một số vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần trong xây dựng nơng thơn mới. Chương hai trình bày thực trạng và
giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong xây dựng nông thôn mới
ở Việt Nam hiện nay- qua khảo sát ở tỉnh Thanh Hóa.

8



Ngồi ra, có một số cơng trình nghiên cứu khác như: Lê Thị Anh, Ảnh
hưởng của văn hóa nước ngồi đến văn hóa Việt Nam giai đoạn hiện nay,
Tạp chí Cộng sản số ra ngày 5/12/2013. Chu Thái Thành, Xây dựng đời sống
văn hóa mới trong mỗi cộng đồng dân cư, Tạp chí Cộng sản số ra ngày
25/1/2010. Đỗ Thị Minh Thúy, Các chính sách nhằm tăng cường nguồn lực
và phương tiện cho hoạt động văn hóa ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn
hóa số 4. Nguyễn Thị Linh Giang, Để phong trào “toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, Tạp chí cộng
sản số ra ngày 18/4/2018,...
Nhìn chung, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh
thần của người nơng dân. Tuy nhiên, chưa có một bài nghiên cứu một cách hệ
thống về đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân ở xã Đơng n,
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Vì vậy, kế thừa những giá trị nghiên cứu
của các tác giả đi trước và dựa trên tình hình thực tế tại xã Đông Yên hiện
nay. Tác giả đã lựa chọn nghiên cứu cụ thể về những biến đổi trong đời sống
văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần. Từ đó, đưa ra những giải pháp góp phần
nâng cao chất lượng và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của
người nơng dân xã Đơng n.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh

thần của người nông dân và điều kiện địa tự nhiên, đặc điểm văn hóa của
người nơng dân ở xã Đơng n. Khóa luận làm rõ thực trạng và nguyên nhân
của sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân xã Đơng
n, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đời sống
văn hóa tinh thần của người nơng dân xã Đơng Yên hiện nay.

Nhiệm vụ:

9


Thứ nhất, đưa ra các quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa và đời sống
văn hóa tinh thần của người nông dân
Thứ hai, khái quát về điều kiện địa tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm
đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân xã Đông Yên
Thứ ba, làm rõ sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân
xã Đơng n hiện nay
Thứ tư, phân tích nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp phát huy tích cực
và hạn chế tiêu cực trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã
Đông Yên hiện nay.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã

Đông Yên, Quốc Oai, Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Sự biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của người
nơng dân xã Đơng n từ năm 2010 đến nay.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Khóa luận nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê

nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn
hóa, đời sống văn hóa, về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đời sống văn

hóa tinh thần của người nơng dân,... Khóa luận cũng tham khảo, kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các cơng trình trước đây.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp – phân tích, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh,...\

10


Ý nghĩa của khóa luận

6.

Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản
và sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người nông dân xã Đông
Yên.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, học tập của các đề tài liên quan đến người nông dân, nông
nghiệp nông thôn và đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân.
7.

Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

11



NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA, ĐỜI SỐNG VĂN HĨA, ĐỜI
SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN ĐƠNG N
1.1.

Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa

tinh thần của người nơng dân
1.1.1. Quan niệm về văn hóa, đời sống văn hóa, đời sống văn hóa tinh
thần
*Văn hóa
Văn hóa ra đời cùng với quá trình lao động, sản xuất của con người. Vì
vậy, ngay từ thời cổ đại khái niệm văn hóa đã xuất hiện và ngày càng hoàn
thiện hơn. Thời kỳ Trung quốc cổ đại “văn hóa” được hiểu là “văn trị” và
“giáo hóa”, nghĩa là dùng cái hay cái đẹp để cảm hóa, giáo dục con người,
làm cho trở nên có đạo đức hơn. Thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Khổng
Tử đã dùng thuật ngữ “hóa” nghĩa là cải biến, biến đổi và thuật ngữ “văn” có
nghĩa là những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, trong giao tiếp, ứng xử giữa
con người với con người. Từ đó, có thể hiểu văn hóa có nghĩa là sự bồi đắp,
cải biến, hướng con người đến những giá trị tốt đẹp hơn.
Văn hóa là khác biệt, văn hóa là đa dạng, văn hóa là hồn cốt của một dân
tộc. Nó là tất cả những hoạt động lao động, sáng tạo và cả những giá trị tinh
thần được sinh ra từ quá trình sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn với
nhiều cách tiếp cận khác nhau, trên nhiều lĩnh vực, nó liên quan đến mọi mặt
đời sống vật chất, đời sống tinh thần của con người và xã hội. Vì vậy, khái
niệm về văn hóa được tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong tác phẩm Những cơ sở triết học của thời đại - cội nguồn của thế kỷ XX
Sapovalop đã nhận định rằng văn hóa là một khái niệm khơng thích hợp với

những loại định nghĩa chỉ có một định nghĩa.

12


Tại Hội nghị liên chính phủ về chính sách văn hóa tại Venise năm 1970,
F. Mayor nguyên tổng giám đốc UNESCO cho rằng: Văn hóa là “tổng thể
sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong
quá khứ và hiện tại” [46, 798]. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành trên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu- những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Cịn nhà dân tộc văn hóa Anh E.

.

Taylor cho rằng: “Văn hóa hoặc văn minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm
trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực
thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là mọt thành viên của xã
hội”[46, 798]
Chủ nghĩa Mác - Lênin khi đề cập đến vấn đề văn hóa cho rằng con
người chính là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Theo nghĩa đó văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn, văn hóa là sự biểu
hiện năng lực bản chất con người. Quá trình nghiên cứu quy luật phát triển
của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khái quát quá trình hoạt động
xã hội cơ bản của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần, xét theo hình thái giá trị thì tương ứng với văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con
người được kết tinh trong các sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là những
sản phẩm lao động trí óc của con người được sáng tạo trong quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Đó là tổng thể các tư tưởng, lý luận và các giá trị

được sáng tạo trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người
được biểu hiện dưới dạng các hiện tượng tinh thần. Văn hóa tinh thần bao
gồm các giá trị trong hoạt động giáo dục, tư tưởng, tôn giáo, lễ hội,… mối
quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh là người đầu tiên đưa ra khái niệm
về văn hóa (năm 1938). Ơng cho rằng: “văn hóa là chỉ những học thuật tư
tưởng. Có lẽ gì văn hóa của các dân tộc lại khác nhau đến thế? Vì rằng cách
13


sinh hoạt của các dân tộc khơng giống nhau. Chính vì những điều kiện tự
nhiên về địa lí khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho
nên cách sinh hoạt cũng khác nhau vậy”. Ông còn kh ng định “nghiên cứu
xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương diện của một dân tộc nay
chuyển biến thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy vậy” [1;
10, 11]. Như vậy, tác giả Đào Duy Anh quan niệm dựa trên những điều kiện
khác nhau sẽ tạo nên nền văn hóa khơng giống nhau.
Kế thừa tất cả những quan điểm đó, trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam ln đề cao vị trí, vai trị của văn
hóa. Năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam, Đảng đã xác định văn hóa
là một trong ba mặt trận quan trọng của đất nước đồng hành cùng kinh tế và
chính trị. Đến Nghị Quyết Trung Ương 5, khóa VIII (1998) của Đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
lần đầu tiên văn hóa được đề cập đến trên phạm vi rộng lớn. Ngoài văn học,
nghệ thuật cịn có cả mơi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng đạo đức, lối
sống, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông
tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc
thiểu số, chính sách văn hóa đối với tơn giáo, hồn thiện thể chế văn hóa,…
Từ đó Đảng cộng sản Việt Nam đi đến kết luận: văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã

hội. Quan điểm này cho thấy góc độ tiếp cận văn hóa ở bề sâu bởi có những
giá trị do chính nó tạo nên. Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân cùng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Kh ng định những nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống và loại
dần những yếu tố không phù hợp nhằm tạo nên những điểm hợp lý cho nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện đổi mới của đất nước.
Tính đến nay, có hàng trăm ngàn định nghĩa về văn hóa, các định nghĩa
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất khi cho rằng:
Văn hóa là một dấu ấn đặc trưng cho xã hội loài người, khác về cơ bản với tổ
14


chức của xã hội động vật. Mọi văn hóa đều được hình thành và phát triển từ
các hoạt động lao động, sáng tạo của con người trong toàn bộ tiến trình lịch
sử của các dân tộc và tồn thể nhân loại. Văn hóa chỉ có ở con người và đó là
quá trình sáng tạo đặc trưng của con người, do con người và vì con người.
Văn hóa thường được phân chia thành hai dạng là văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tuy
nhiên, cách chia này chỉ mang tính tương đối. Trong một số trường hợp văn
hóa vật chất là dạng tồn tại, thể hiện, chất chứa trong nó các giá trị văn hóa
tinh thần, những giá trị thẩm mỹ, tốt đẹp mang đậm cá tính của người sáng
tạo ra các giá trị tinh thần dưới cái vỏ bọc của vật chất, ẩn chứa trong các sản
phẩm của văn hóa vật chất.
Kế thừa tất cả những quan điểm trên và dựa trên góc độ nghiên cứu của
chủ nghĩa xã hội khoa học, trong phạm vi của khóa luận, tác giả đồng tình với
quan điểm của Hồ Chí Minh khi kh ng định “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp

của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn” [29; 431]. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là một cái nhìn tồn
diện và sâu sắc về nguồn gốc, phạm vi và sự biểu hiện của văn hóa trong tồn
bộ đời sống sinh hoạt của con người. Nguồn gốc của văn hóa là do lẽ sinh tồn
và mục đích sống của con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải
tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người có được là cơ sở để hình thành
văn hóa. Với sự khắc nghiệt của mơi trường tự nhiên và tính quy luật nghiêm
khắc của môi trường xã hội buộc con người phải có sự sáng tạo, phải lao động
để tạo ra các giá trị văn hóa sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc.

15


*Đời sống văn hóa
Từ những năm 80, 90 của thế kỷ XX, trong các cơng trình nghiên cứu về
văn hóa cụm từ “Đời sống văn hóa” được sử dụng tương đối rộng rãi. Tiền
thân của cụm từ này là cụm từ “Đời sống mới”. Đây là tiêu đề của bài viết
dưới dạng hỏi - đáp của tác giả Tân Sinh - một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được công bố vào năm 1947. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhân
dân ta vùng lên làm cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh đuổi thực
dân Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân,
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (mồng 2 tháng 9 năm 1945).
Đây cũng là lúc cụm từ “Đời sống mới” xuất hiện trong văn kiện đường lối
của Đảng. Sau khi giành chính quyền nhân dân ta bắt tay vào xây dựng sự
nghiệp kiến quốc. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hóa lúc bấy giờ là diệt giặc
dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, diệt giặc đói, cổ
vũ tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách mạng,
chỉnh đốn sửa đổi lề thói sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà,
mỗi làng bản, mỗi đơn vị. Những nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo của Đảng

lần đầu tiên được thực hiện dưới chính quyền nhân dân cịn non trẻ. Trong
suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc chưa từng có những nhiệm vụ
nào như vậy cho nên gọi là xây dựng “Đời sống mới”.
Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta lúc bấy giờ còn thấp, hơn
90% người dân mù chữ nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay
cho từ “văn hóa” để cho dân dễ hiểu về xây đựng đời sống văn hóa. Cụm từ
“đời sống văn hóa” xuất hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng IV (1976) đoạn
viết: “Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hóa ở các vùng kinh tế mới,
các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở miền núi,
hải đảo” [15]. Cho đến Đại hội V (1982) Đảng ta đã xác định rõ hơn nhiệm
vụ xây dựng đời sống văn hóa và đặc biệt nhấn mạnh đời sống văn hóa ở cơ
sở, coi đó là chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược xây dựng văn hóa
và con người: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn
16


hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm
trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan,
trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời
sống văn hóa” [16]. Mỗi cá nhân có đời sống văn hóa riêng. Tuy nhiên, đời
sống văn hóa cá nhân khi đi theo cùng một xu hướng thì sẽ hình thành đời
sống văn hóa cộng đồng. Do vậy, sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở trở thành một phong trào phát triển sâu rộng trong các hộ gia đình, địa
bàn dân cư, đơn vị học tập, công tác, sản xuất tác động trực tiếp đến tư tưởng,
tình cảm, đạo đức và nhu cầu hương thụ, sáng tạo văn hóa trong đời sống của
mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó khái niệm đời sống văn hóa ngày một phổ biến
và sáng tỏ.
Năm 1987, cuốn sách Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã kh ng định: Đời sống văn hóa chính là những hành vi sống biểu

hiện một trình độ văn hố, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của
từng cá nhân, nhằm mục đích văn hóa hố tức là hồn thiện con người. Năm
2000, cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cộng
sản Việt Nam đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống
xã hội, bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể,
các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (bao gồm con
người và các dạng hoạt động văn hóa của nó)”[30, 268]. Năm 2007, cuốn Lý
luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao
gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật thể, cảnh quan văn hoá, văn hoá cá
nhân, văn hoá của các "tế bào" trong mỗi cộng đồng, từ đó đưa ra khái niệm:
“Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể
những yếu tố hoạt động văn hoá vật chất và tinh thần, những tác động qua lại
lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hố trong
cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối sống của con người”[32,
434]. Như vậy, có thể hiểu “đời sống văn hóa” là tất cả những hoạt động của
con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội
17


để hướng con người vươn lên theo quy luật, chuẩn mực của cái đúng, cái đẹp,
cái chân - thiện - mỹ đồng thời loại bỏ những biểu hiện tha hóa, tiêu cực trong
đời sống con người. Đời sống văn hóa là q trình diễn ra sự trao đổi thơng
qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Việc tiếp
thu các yếu tố văn hóa vào đời sống của con người không chỉ diễn ra một
chiều mà ln có mối quan hệ biện chứng. Các yếu tố văn hóa mà con người
tiếp thu sẽ có tác động trở lại vào chính mỗi đời sống cá nhân, đời sống vật
chất, đời sống tinh thần và đời sống xã hội. Nó góp phần điều chỉnh các hành
vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn lối đi tốt nhất
cho mình, giúp biến đổi mơi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn làm
ra những sản phẩm vật chất cho xã hội. Nó cũng sẽ tác động vào đời sống tinh

thần để con người thỏa mãn những nhu cầu chủ quan và đáp ứng những yêu
cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của cộng đồng, hình thành nên hệ
thống các giá trị chuẩn mực.
Qua việc nghiên cứu các khái niệm khác nhau về đời sống văn hóa, tác
giả đồng ý với quan niệm của Tác giả Trần Đức Ngôn trong tạp chí Lý luận
văn hóa khi cho rằng: “Đời sống văn hóa là kết quả của hoạt động tương tác
giữa con người với mơi trường văn hóa tạo nên diện mạo cũng như chiều sâu
của đời sống tinh thần con người, thể hiện chất lượng sống và góp phần hình
thành nhân cách”[31, 6].
*Đời sống văn hóa tinh thần
Đời sống văn hóa tinh thần là một bộ phận của đời sống văn hóa, nó bao
gồm tất cả các hoạt động lao động, sáng tạo, kế thừa, phát huy,... của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ở con người. Theo lẽ đó “Đời
sống văn hóa tinh thần là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao
đổi, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu
vào từng con người, từng cộng đồng người, trở thành yếu tố khăng khít của
tồn bộ cuộc sống, hoạt động và quan hệ con người đáp ứng nhu cầu văn hóa
tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên của mọi thành viên xã hội”[8; 15].
18


Đời sống tinh thần có cái hay, cái dở, có mặt tốt, mặt khơng tốt tuy nhiên khi
nói đến đời sống văn hóa tinh thần là để nhấn mạnh những nét đẹp có giá trị
nhằm hướng con người tới những giá trị cao đẹp của Chân - Thiện - Mỹ. Đời
sống văn hóa tinh thần là khái niệm đề cập đến chất lượng của đời sống tinh
thần.
Trên cơ sở đó, đời sống văn hóa tinh thần của người nơng dân chính là
tổng hịa sống động các hoạt động sản xuất, trao đổi, tiêu dùng các giá trị tinh
thần mà các giá trị tinh thần đó mang đặc trưng đời sống sản xuất nơng
nghiệp.

Dựa trên khái niệm, tiến trình vận động và phát triển, đời sống văn hóa
tinh thần lần lượt trải qua năm khâu gồm: nhu cầu văn hóa tinh thần, sản xuất
(sáng tạo) giá trị văn hóa tinh thần, bảo quản (lưu giữ) các giá trị văn hóa tinh
thần, trao đổi (giao tiếp) chuyển giao các giá trị văn hóa tinh thần, tiêu dùng
các giá trị văn hóa tinh thần. Bên cạnh đó, đời sống văn hóa tinh thần có thể
biểu hiện thơng qua các hoạt động như: hoạt động nhận thức, hoạt động giáo
dục- đào tạo, hoạt động tư tưởng, lối sống, hoạt động tơn giáo tín ngưỡng,
hoạt động lễ hội, hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí,...
1.1.2. Đặc điểm của giai cấp nơng dân Việt Nam
Nơng dân Việt Nam là giai cấp xã hội đặc biệt được hình thành trong
quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và quá trình phát triển của
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp nông dân tồn tại trong nhiều
phương thức sản xuất khác nhau. Với nền sản xuất nhỏ, sở hữu nhỏ về tư liệu
sản xuất, họ là những người sống ở nông thôn và chủ yếu làm nông nghiệp.
Bản thân người nông dân vừa là nhà sở hữu vừa là người lao động. Họ sở hữu
ruộng đất, canh tác trên chính mảnh đất đó có thể đủ hoặc khơng đủ ni sống
bản thân và gia đình họ, sản xuất ra lương thực, thực phẩm để cung cấp cho
xã hội, sản xuất ra công cụ lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Người nơng dân Việt Nam khơng xa lạ gì với hình ảnh “ Con trâu đi trước,
cái cày theo sau”. Nó phản ánh phương thức sản xuất nơng nghiệp có phần lạc
19


hậu, thơ sơ. Với tính chất cá thể, tự cấp, tự túc là chủ yếu đúng như C.Mác đã
nhận định: “Mảnh đất cỏn con, người nơng dân và gia đình anh ta, cạnh đó
lại một mảnh đất cỏn con khác, một nơng dân khác và một gia đình khác. Một
nhóm những đơn vị ấy tập hợp thành một làng, một nhóm làng tập hợp thành
tỉnh. Và có khi cả cái khối lớn dân tộc cũng được hình thành bằng cách đơn
giản cộng những đại lượng cùng tên lại, đại khác cũng giống như một cái bao
tải đựng những củ khoai tây hình thành một bao tải khoai tây vậy” [6; 264].

Tính chất cá thể đã tách biệt mỗi gia đình thành một đơn vị kinh tế độc lập,
rời rạc với phương thức sản xuất phân tán.
Vì vậy, người nơng dân khơng có sự liên kết chặt chẽ về kinh tế, tư
tưởng, tổ chức, vì vậy trong lịch sử, giai cấp nơng dân khơng có hệ tư tưởng
độc lập mà chủ yếu phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Người nông dân cũng không phải là một tập đoàn xã hội thống nhất. Trong sự
phát triển của lịch sử, tính chất xã hội và cơ cấu xã hội thay đổi theo từng loại
hình xã hội, các hình thái sản xuất, các phương thức sản xuất khác nhau.
Song, khơng thể phủ nhận vai trị của giai cấp nông dân trong lịch sử. Khi đề
cập đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân C. Mác và Ph. Ăngghen đã
kh ng định nông dân là người bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công
nhân. Các ông cũng nhấn mạnh vai trị của giai cấp nơng dân trong việc thực
hiện thắng lợi cuộc cách mạng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ công nhân – nông dân là cái gốc của cách mạng. Cho
đến nay, giai cấp nông dân ở nhiều quốc gia vẫn là lực lượng xã hội quan
trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước. Với những điều kiện quy
định nên bản chất của mình giai cấp nông dân Việt Nam bao gồm các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, Giai cấp nơng dân Việt Nam có phương thức sản xuất trồng
lúa nước là căn bản
Do điều kiện địa tự nhiên của Việt Nam với những vùng đồng bằng rộng
lớn, nằm trong khu vực Đơng Nam Á với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm,
20


mưa nhiều thích hợp cho việc trồng lúa nước. Mặc dù có “rừng vàng, biển
bạc” nhưng những người nơng dân nơi đây khơng dựa hồn tồn vào rừng và
biển, mà chủ yếu dựa vào việc làm nông nghiệp.
Với đồng bằng châu thổ phì nhiêu như đồng bằng Sơng Hồng và đồng
bằng sơng Cửu Long có truyền thống lúa nước lâu đời, lại có mật độ dân số

khá cao nên từ lâu cư dân nông nghiệp Việt Nam đã luôn tiến hành thâm canh
cây lúa và trồng hoa màu để đạt năng suất cao, giải quyết bài toán về mật độ
dân số và lương thực. Vì vậy, sản xuất lúa gạo làm lương thực chính đã trở
thành phương thức sản xuất và sinh sống truyền thống của hầu hết các làng xã
Việt Nam trong lịch sử. Khi nhắc đến văn hóa Việt Nam không thể không
nhắc đến làng xã và văn minh lúa nước với vai trò quan trọng đối với người
nông dân. Cả hai yếu tố này cùng quyết định đời sống nông nghiệp của người
nông dân ở nông thôn. Do đó, có thể thấy đặc trưng đầu tiên của người nông
dân được thể hiện trong lối sống, nếp nghĩ chính là sự trọng nơng, trọng kinh
nghiệm và rất thực tiễn. Chính điều này đã tạo nên tính ổn định, bền vững,
tính cố kết chặt chẽ, tính cộng đồng, tính hướng nội trong văn hóa làng Việt.
Thứ hai, nơng dân vừa là một giai cấp vừa không phải là một giai cấp.
Nông dân là một giai cấp bởi lẽ họ là những người có sở hữu tư liệu sản
xuất trong tay và là lực lượng hết sức đông đảo trong xã hội. Trong lịch sử,
giai cấp nông dân thể hiện vị trí và vai trị của mình thơng qua việc liên minh
với giai cấp cơng nhân để giải phóng chính mình và tồn xã hội khỏi ách áp
bức, bóc lột. Hiện nay, người nông dân lại tiếp tục kh ng định vị trí của mình
trong cơng cuộc đổi mới đất nước bằng cách CNH – HĐH nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao chất lượng đời sống giai cấp mình. Tuy nhiên họ lại là những
người tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, cụ thể là đất đai. Hơn nữa, các mảnh đất
do người nông dân sở hữu không tập trung ở một chỗ mà phân tán khắp nơi.
Đó là điều kiện chủ yếu hình thành nên tính manh mún, nhỏ lẻ trong cách
thức sản xuất và phương thức sinh sống của người nông dân.

21


×