TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH
Tiểu luận:
Triết học Mác - Lênin
Đề tài 3: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.
Giảng viên hướng dẫn:
TS. Phạm Văn Sinh
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Ngọc Lan
MSV: 11202024, khóa 12, lớp E-BBA 12.3
Hà Nội, năm 2020.
MỤC LỤC:
Phần I:
LỜI NÓI ĐẦU
Phần II:
NỘI DUNG
I.
II.
III.
Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1. Vật chất
2. Ý thức
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vật chất quyết định ý thức
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất
Ý nghĩa phương pháp luận
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất đối với thực
tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay:
1. Thực trạng nươc ta trước giai đoạn đổi mới
2. Những chủ trương, đường lối đổi mới đất nước và những thành tựu
đạt được:
Phần III:
KẾT LUẬN
PHẦN I:
LỜI NĨI ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng nhưng
dù đa dạng và phong phú đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức – có
rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác – Lênin là đúng và đầy đủ. Đó là: vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý
thức tác động trở lại vật chất.
Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh tế trì trệ,
một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận thức đúng và đầy đủ
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này được nhận thức đúng sau đổi mới
ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển từ nền kinh
tế cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “Phân tích quan
nhiệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Từ đó, rút ra ý
nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.”
PHẦN II:
NỘI DUNG
I.
Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
1. Vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo Lênin định nghĩa:"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thơng thường vì khái
niệm vật chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất
với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác, ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào
vật chất, phản ánh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật chất là
khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm trù triết học, là kết quả của sự
khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể,với những “hạt nhân cảm
tính”. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học khơng có những đặc tính cụ thể
có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm
siêu hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của
nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, khơng thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên ngồi và
khơng lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại khách quan.
Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của Chủ nghĩa duy tâm khách quan, “thượng
đế” của tôn giáo …Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở
đâu đó, trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ thể,
và do đó các các đối tượng vật chất có thật ,hiện thực đó có khả năng tác động vào
giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết được, hiểu được và nắm bắt
sự vật này. Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn
đề cơ bản của triết học.
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ
nhất của vật chất, vai trị quyết định của nó với vật chất, và mặt khác khẳng định khả
năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Nó khơng chỉ phân biệt chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩa
duy vật với nhị nguyên luận.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hồn tồn triệt để,nó
giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào vào các
dạng các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mơ. Nó giúp chúng ta có thái độ khách
quan trong suy nghĩ và hành động.
2. Ý thức:
Theo quan điểm của Mác: “Ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế
giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan”. Nguồn gốc của ý thức:
Nguồn gốc tự nhiên: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguồn
gốc tự nhiên của ý thức bao gồm 2 yếu tố không thể tách rời là bộ óc của con
người và sự tác động của thế giới bên ngồi lên bộ óc của con người.
Nguồn gốc xã hội: Điều kiện quan trọng nhất và trực tiếp ảnh hưởng đến sự ra
đời của ý thức bên cạnh nguồn gốc tự nhiên phải kể đến đó là những tiền đề,
nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học là
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính đảng trong triết
học, V.I. Lênin đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai nghìn
năm về trước. Những đảng phái đang đấu tranh với nhau, về thực chất, - mặc dù thực
chất đó bị che dấu bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi
đảng ngu xuẩn – là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.”
Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện chứng, luôn theo sát và kịp thời khái
quát thành những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm
duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt
triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa
chúng.
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, cịn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a. Vật chất quyết định ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người
cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một q trình phát triển,
tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự
nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một thuộc tính của bộ phận con
người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên
hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, cịn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, cịn ý thức là tính thứ hai. Vật
chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc
người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý
thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định
sự ra đời của cải vật chất có tư duy bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực
vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý
thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội –
lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. “Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức.” Ý thức chỉ là hình
ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và
chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội
dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới
văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là
“phản ánh tâm lý” như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự
vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là
thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có
tính cải biên thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong
đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo
trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất,
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người – một
sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức
– một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức
phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát
triển đã chứng minh điều đó.
Lồi người ngun thủy sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của
họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản
xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của
con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý
thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ
sở khái quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của
thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người.
Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần
thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thủy. Trong nền sản xuất tư bản,
tính chất xã hội hóa của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời,
mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển không ngừng lý luận khoa học của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở
vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến cùng
quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống
tinh thần cũng thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức
luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng “sự đối lập giữa
vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong
trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có
trước và cái gì có sau? Ngồi giới hạn đó, thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối
lập đó là tương đối” [Theo V.I. Lênin (1980), Toàn tập, t.18, Sđd tr. 173]. Ở đây, tính
tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực
thể vật chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chính nó.
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi
đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có
tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi
nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay
đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ
cho cuộc sống của con người. Cị tự bản than ý thức thì khơng thể biến đổi
được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu
biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp
và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý
thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực
lượng vật chất xã hội, thì có vai trị rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng.” [C.Mác và Ph.Ăngghen
(1995), Toàn tập, t. 1. Sđd. Tr. 580]
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo,
tiên đốn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý
luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ
góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh
vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi
nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
II.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó khơng thể
vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất để xác định, phải dựa vào các
điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu
quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm,
duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên khơng tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực
tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra nguyên tắc
phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch
mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền
đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không
làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức
sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng,
không được gán cho đối tượng cái mà nó khơng có. Văn kiện đại hội XII chủ trương
phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự
vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải
tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo;
phải coi trọng vai trị của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi
trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời,
phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý
chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện
nền văn minh trí tuệ, kinh tế trí thức, tồn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt
tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, chúng ta cịn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách
quan, khoa học không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.
III.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất đối với thực tiễn đổi mới
ở nước ta hiện nay:
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện
chứng.Trong mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Trong nhiều trường
hợp, nhân tố ý thức có tác dụng quyết định đến sự thành bại của hoạt động con người.
Điều này được thể hiện rõ trong tác động đối với đường lối, các chủ trương, chính
sách đổi mới kinh tế của Đảng. Song xét đến cùng, tác động của ý thức có tính tương
đối, có điều kiện. Vai trị tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian
nhất định và điều kiện cụ thể. Vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo qui
luật khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó, và nếu là tiêu cực, ý thức
sớm muộn sẽ bị đào thải. Mặt khác, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh, hơn nữa vai
trị của nó cịn tuỳ thuộc vào mức độ chính xác trong q trình phản ánh hiện thực. Do
vậy, xét tồn cục, ý thức chỉ có được nếu nó thâm nhập vào quần chúng và tổ chức
hoạt động. Nếu như chúng ta đưa nó vào những điều kiện và hồn cảnh cụ thể, thì
chúng ta có thể thấy rằng, giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính trị (biểu hiện
về ý thức) cũng có mối quan hệ rằng buộc với nhau. Bởi vì, chúng ta thấy rằng, tình
hình kinh tế của một nước là cơ sở, là quyết định, song chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế
của một nước giàu mạnh, phát triển nhưng chính trị không ổn định, đấu tranh giai cấp,
tôn giáo giữa các Đảng phái khác nhau.v.v…thì đất nước đó cũng khơng thể tồn tại
lâu dài được, cuộc sống của nhân dân tuy sung túc, đầy đủ nhưng luôn phải sống trong
cảnh lo âu, sợ hãi vì nội chiến. Do đó, nếu chính trị của một nước mà ổn định, tuy
nhiều Đảng khác nhau nhưng vẫn qui về một chính Đảng thống nhất đất nước, và
Đảng này vẫn đem lại sự yên ấm cho nhân dân, thì nếu đất nước đó giàu mạnh thì
cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, ngược lại nếu như nước đó kinh
tế kém phát triển và cho dù chính trị ổn định đến đâu thì cuộc sống của nhân dân sẽ
trở nên khó khăn và sẽ dẫn đến đảo chính, sự sụp đổ chính quyền để thay thế một
chính quyền mới đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân hơn.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi tuỳ theo từng hình thái kinh tế xã hội.
Con người trải qua năm hình thái xã hội: thời kỳ nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trình độ tổ chức quản lí và tính chất hiện đại của
nền sản xuất sẽ là nhân tố qui định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Sản xuất
vật chất cịn là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của
xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng, mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm
quan hệ chính trị, nhà nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, tơn giáo... đều
hình thành và biến đổi phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và sản xuất nhất định.
Trong xã hội ấy, theo Mác quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(quan hệ kinh tế) là quan hệ cơ bản nhất quyết định tất cả các quan hệ khác. Một khi
sản xuất phát triển, cách thức sản của con người thay đổi, năng suất lao động tăng,
mức sống được nâng cao thì các mối quan hệ và mọi mặt của đời sống xã hội cũng
thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia
vào quá trình phân hóa và hồn thiện các chức năng của con người, thoả mãn các nhu
cầu của con người và xã hội. Sản xuất vật chất, môi trường, tự nhiên, điều kiện xã
hội…địi hỏi thế lực, trí tuệ và nhân cách của con người phải phát triển thích ứng với
nó. Yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất là cho khoa học
kĩ thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội, là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng
sản xuất. Sự phong phú và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở
làm nảy sinh sự phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất, năng lực và tinh
thần của con người. Nói cho cùng thì trong hoạt động của con người, những nhu cầu
về vật chất (kinh tế) bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục
đích hoạt động bởi vì con người phải trước hết ăn mặc, ở, rồi mới nghĩ đến vui chơi,
giải trí. Hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự
nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét
đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những
điều kiện vật chất hiện có.
Nền kinh tế của mỗi nước là cơ sở để nước đó thực hiện những chủ trương, biện pháp
trong việc quản lí, đề ra những chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược phát triển
quân đội để đảm bảo trật tự an ninh và chủ quyền quốc gia. Căn cứ vào thực trạng của
nền kinh tế, các tư tưởng và chính sách đổi mới phát triển kinh tế được đưa ra phù hợp
và hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội, cũng đồng thời cho nhân dân.
Tác dụng ngược trở lại, thể chế chính trị (ý thức) của một nước cũng rất quan trọng
trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định là điều kiện tốt, tạo khơng khí n
ấm, thoải mái và tự do để mọi người, các công ty, các tổ chức, hoạt động trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội cống hiến và phát huy khả năng của mình để đem lại lợi ích
cho bản thân mình và lợi cho xã hội.
Nguyên lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật (Ở đây là nền kinh tế ) từ thực tế
khách quan, tránh chủ chủ nghĩa chủ quan, duy ý trí, đồng thời phát huy vai trò năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực chủ quan của con người (như hoạt động
kinh tế của nước ta, trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi
xướng đã chú trọng đến việc đề cao yếu tố con người, làm cho ý thức thay đổi mới
thâm nhập vào các cơ sở kinh tế, vào đông đảo quần chúng).
1. Thực trạng nước ta giai đoạn đổi mới:
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (từ cuối những năm 70 - giữa những năm 80 của thế kỷ
trước), do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do những sai lầm mang nặng tính chủ quan,
duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải tạo xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo một mơ hình cũ đã lỗi thời, cho nên chỉ
mấy năm sau khi hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thì đất nước đã lâm vào cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng. Sản xuất nơng - cơng nghiệp đình đốn. Lưu thơng, phân
phối ách tắc. Lạm phát ở mức ba con số. Đời sống của các tầng lớp nhân dân sa sút
chưa từng thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 - 15
ngày. Ở nông thơn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nơng dân thiếu ăn. Tiêu
cực xã hội lan rộng. Lịng dân khơng n. Tình hình diễn biến đến mức, vào khoảng
từ cuối năm 1985 đến cuối năm 1986, nghĩa là sau thất bại của cuộc tổng điều chỉnh
giá - lương - tiền (9-1985), đại đa số quần chúng nhân dân cảm thấy không thể tiếp tục
sống như cũ được nữa; đồng thời các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà
nước cũng thấy rõ không thể tiếp tục duy trì những chủ trương, chính sách đã lỗi thời,
hoặc chỉ thay đổi có tính chất chắp vá, nửa vời một số chính sách riêng lẻ nào đó thơi.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm
1976-1980 quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất vượt quá khả năng của
nền kinh tế, như năm 1975, phấn đấu đạt 20 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1
triệu ha khai hoang, 1 triệu 200 ha rừng mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn
xi măng... Đặc biệt là đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng,
đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hồn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam. Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp đã tác động xấu tới nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời sống của nhân
dân. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế đề ra chỉ đạt khoảng 50%-60% mức đề
ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình qn 1,5%,
cơng nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực
của sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra được các chủ trương
chính sách tồn diện về đổi mới, nhất là kinh tế. Trong năm 1981-1985 chúng ta chưa
kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lí kinh tế, lại phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu
thơng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế- xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhận
định: "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu,
tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm qui luật khách
quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghia, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần; cú lỳc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì quỏ lõu cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách
giá cả, tiền tệ, tiền lương". [Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội].
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ yếu nêu trên, cũng có những nguyên nhân
khách quan như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc tế...song chủ yếu là
do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm đó cùng với trì trệ trong cơng tác
tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (Ở đây là các chủ
trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy tác động qua lại
giữa kinh tế và chính trị trước khi có cơng cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải.
2. Những chủ trương, đường lối đổi mới đất nước và những thành tựu đạt được:
Trước tình hình diễn biến ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hội ở
nước ta, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến của
nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Trong đại hội lần thứ VI, Đảng đã
rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó có kinh nghiệm: phải ln xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tại Đại hội VI Đảng
ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích đúng nguyên nhân của tình hình
khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các định hướng mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, đã
thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu: tình hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hang hóa – tiền tệ. Trong quá trình
thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, ta đã đánh giá tình hình
chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc
đổi mới bước đầu hình thành nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy
động tốt hơn, tốc độ lạm phát được hạn chế; đời sống vật chất tinh thần của một bộ
phận nhân dân có phần được cải thiện so với trước đây thì mức khủng hoảng đã giảm
bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật chất thông
qua mối quan hệ kinh tế và chính trị. Nhờ có đường lối đổi mới, sản xuất phát triển,
đời sống của nhân dân nói chung được cải thiện, mức độ khủng hoảng đã giảm bớt, do
đó đã góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước, góp phần vào việc phát huy
dân chủ trong xã hội, không chủ quan với những thành tựu đã đạt được, Đại hội VII
đã chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là: lạm phát cịn
ở mức cao, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên…
Đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội dung đổi mới,
còn nhiều lúng túng và sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường...
Đặc biệt, Đại hội cũng xác định: "Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân và làm
việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,
coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị".
Như vậy, rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn phương
pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc
đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh vực chính
trị. Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước
đã đề ra mục tiêu tổng quát vào các mục tiêu cụ thể, những phương châm chỉ đạo
trong 5 năm 1991- 1995 đặc biệt đáng chú ý là phương châm kết hợp động lực kinh tế
với động lực chính trị tinh thần, phương châm tiếp tục đổi mới tồn diện và đồng bộ
đưa cơng tác đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác.
Với những chủ trương, đường lối đúng đắn, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ: khắc phục một bước rất quan trọng tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội khắc phúc được sự suy thoái, tốc độ tang trưởng khá và liên tục
trong ba năm. Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17.5% năm 1992 và
còn 5.2% năm 1993. Tổng sản lượng lương thực năm qua đã tang 26% so với năm
năm trước, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống đời sống của nhân dân, phát triển
ngành nghề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực
được giải quyết tốt. Sản xuất cơng nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình qn hàng
năm 13.3% (mức kế hoạch là 7.5% - 8.5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo
hướng đa dạng hóa và đa phương hóa, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở
rộng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm
1991 – 1995 đạt trên 17 tỷ USD (kế hoạch 12 - 15 tỷ USD), đảm bảo nhập các loại vật
tư thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện
cán cân thanh tốn thương mại. Khoa học cơng nghiệp có bước phát triển, đã tập trung
nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của
nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, lĩnh
vực văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện
một bước. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu
đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp. Và thực tế trong những năm qua với
những chính sách ngoại giao hợp lý, những chính sách chương trình phát triển kinh tế
chính trị xã hội, chúng ta đã đạt được những bước tiến rất quan trọng, bình thường hóa
quan hệ với Mỹ, là thành viên của khối ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á),
đặc biệt năm 1998 ta đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương) …. Từ chỗ bị bao vây cấm vận nay đã được bình thường
hóa được tất cả các nước lớn, có quan hệ ngoại giao với 167 quốc gia, quan hệ với
120 quốc gia đồng thời cân bằng quan hệ với các nước lớn, phát triển quan hệ tốt đẹp
với các nước láng giềng. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao, năm 1996 là 9.3%, năm 1987 là 8.2%, năm 1998
là 5.8% (do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực). Lạm phát
vẫn được giữ ở mức dưới 10%, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp vẫn đạt hai con số,
đời sống của nhân dân ngày càng được ổn định và nâng cao.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam ngày càng đúng đắn cũng nhờ vào Đảng đã ngày càng
nắm vững và vận dụng đúng đắn phương pháp luận triết học toàn diện Mác – Lênin.
Mối quan hệ biện chững giữa ý thức và vật chất được thể hiện thông qua mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị ngày càng rõ nét, đơn cử từ nạn đói năm 1945 và bây giờ Việt
Nam đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới. Cũng chính vì thế,
long tin tưởng của nhân dân ngày càng tăng cao. Ngồi ra cịn tăng trưởng về tổng sản
phẩm quốc dân, về tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, về xuất khẩu, …..
Đổi mới là q trình khó khan nhưng nhờ có chính sách và đường lối đúng đắn và có
sự tìm tịi học hỏi từ nền kinh tế tư bản của nhiều nước, cùng các diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước các địi hỏi lịng kiên
trì, giữ vững long tin, quyết tâm khắc phục khó khăn để thích ứng kịp thời với sự biến
đổi từng ngày, từng giờ phải có một cuộc sống năng động chủ quan kết hợp chặt chẽ
sự nhạy cảm giữa sự phát triển của khoa học kĩ thuật với tình hình chung của đất nước
ta hiện nay rõ ràng việc làm bền sự thống nhất giữa nhiều tình ý thức cách mạng và tri
thức khoa học là hết sức cấp bách và cần thiết. Bởi vì trí thức khoa học khoa học có
được hay khơng cũng nhờ lịng hiểu biết, trí thơng minh, ý trí quyết tâm học tập và
nhận thức khoa học. Ngược lại nếu trí thức khoa học phải phát huy được tác dụng
trong thực tế thỡ nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách mạng.
Người cán bộ kinh tế phải quán triệt sâu sắc và tận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là phương pháp luận toàn diện và phép biện
chứng duy vật vào việc nghiên cứu, đề xuất và áp dụng các chủ trương chính sách về
kinh tế, các phương pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài chính theo tinh thần đổi mới để
thúc đẩy nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, tránh
khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp cũng
có nghĩa là địi hỏi người làm cơng tác quản lý kinh tế chân chính phai năng động
sáng tạo, nhạy bén, nắm bắt được thực tế và quy luật vận động và phát triển của nó.
Tóm lại, với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua chúng ta hồn tồn có
cơ sở khẳng định công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện là hoàn
toàn đúng đắn và phù hợp với thực tế đất nước.
PHẦN III:
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trị quyết định đối với ý thức và là cái có
trước ý thức, nhưng ý thức lại có tính năng động tác động trở lại vật chất. Mối tác
động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiến của con người.
Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức đối với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực
nhận thức các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Trong thời kỳ đổi mới của nước ta khi chuyển nền kinh tế từ tập trung quan lieu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này, chúng ta đã giành
được một số thắng lợi to lớn tuy nhiên vẫn cịn một số thiếu sót, đặc biệt là khâu hành
động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện mới là một vấn đề thực
sự khó khăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mac, Lời tựa phê phán triết học pháp luật của Hêghen,
NXB
2. C.Mac, Tư Bản, quyển I, tập I, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1960
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin sử dụng trong các trường đại
học hệ khơng chun lý luận chính trị, NXB Bộ Giáo Dục Đào
Tạo
4. Tạp chí kinh tế
5. Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII
6. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
7. Tổng quan về xã hội Việt Nam trong quá trình đổi mới để
phát triển và hội nhập quốc tế, GS. TS. Phạm Xuân Nam,
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam