Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Kế toán và xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.97 KB, 31 trang )

Đề án môn học - Lê Hoài Nam
Lời mở đầu
Sau đại hội đảng VI, đất nớc ta đã bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới. Hơn 10
năm đã qua, về mặt kinh tế một cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã chuyển dần sang cơ
chế thị trờng. Chúng ta đã thu đợc những thành tựu kinh tế nhất định, nổi bật trong số
đó là tỷ lệ xuất khẩu đã tăng gấp 3 lần nhịp độ tăng trởng GDP, vợt qua ngỡng cửa
của một quốc gia kém phát triển về ngoại thơng. Thật đáng tự hào khi chúng ta là
một trong số những nớc đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hồ tiêu...; song
song nhng ngợc chiều với luồng nông phẩm và những hàng hoá chúng ta xuất khẩu
đợc là một luồng ngoại tệ lợi nhuận từ xuất đem lại.
Bên cạnh đó cơ chế mở cửa cũng dẫn đến tỷ lệ vốn đầu t nớc ngoài vào Việt
Nam ra tăng rõ rệt, biểu hiện là nhiều công ty liên doanh, các tổ chức hoặc doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã đợc thành lập và dữ một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế.
Thành công trong mặt ngoại thơng đặt ra một vấn đề lớn "Kế toán và xử lý
chênh lệch tỷ giá hối đoái" và đây cũng là nội dung chính của đề tài em chọn. Từ
việc tiếp thu những kiến thức đã học cùng với sự giúp đỡ trực tiếp của thầy giáo Trần
Quý Liên và một số sự tìm tòi tài liệu bổ sung, em xin nêu lên trong nội dung bài đề
án nững vấn đề xung quanh tỷ giá hối đoái, đặc biệt là vấn đề kế toán và xử lý chênh
lệch tỷ giá hối đoái trong điều kiện nớc ta hiện nay.
Đề tài gồm 2 phần:
- Phần I: Những vấn đề xung quanh tỷ giá hối đoái
- Phần II: Kế toán và xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái
Do hạn chế về thời gian cũng nh trình độ hiểu biết nên bài viết của em không
thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong có đợc sự chỉ bảo, sửa chữa góp ý tận tình
của thầy giáo hớng dẫn và các bạn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
Phần I: Những vấn đề xung quanh tỷ giá hối đoái
Chơng I: Tỷ giá hối đoái
I. Tỷ giá hối đoái là gì?


Tỷ giá hối đoái: là quan hệ tỷ lệ về giá trị giữa đồng tiền nớc này với nớc khác. Hay
nói khác đi tỷ giá là giá cả của một đơn vị của một đơn vị tiền tệ của một nớc tính bằng tiền
tệ của một nớc khác.
Thông thờng, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" đợc ngầm hiểu là số lợng đơn vị tiền nội tệ
cần thiết để mua đơn vị ngoại tệ. Riêng ở Mỹ và Anh thuật ngữ này đợc sử dụng theo nghĩa
ngợc lại. Số lợng đơn vị ngoại tệ (nớc ngoài) cần thiết để mua một đồng đôla hoặc một
đồng bảng.
ở Việt Nam, tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam đợc công bố theo thông lệ quốc tế số đơn
vị đồng Việt Nam (VND) cần thiết để mua một đơn vị tiền nớc ngoài chẳng hạn 15.468 đ/
USD.
Các tỷ giá hối đoái chủ yếu đợc xác nhận thông qua các lực lợng thị trờng của cung
và cầu tiền. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về tiền trên các thị trờng ngoại hối hoặc làm giảm
cung của nó đều có xu hớng làm cho giá trị quốc tế (tỷ giá hối đoái) của nó tăng lên và ng-
ợc lại. Nh vậy, những giao động của tỷ giá hối đoái là do sự dịch chuyển của các đờng cung
và cầu trên thị trờng ngoại hối. Và nh một phản ứng dây chuyền, những biến động của tỷ
giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế trong nớc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự dịch
chuyển các đờng cung và cầu trên thị trờng ngoại hối, trong đó có những nguyên nhân chủ
yếu là:
+ Cán cân thơng mại: trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập khẩu của một nớc
tăng thì đờng cung vẽ trên của nớc ấy sẽ dịch chuyển sang phía phải và ngợc lại. Nếu xuất
khẩu của nớc đó tăng thì đờng cầu về tiền của nớc đó sẽ dịch chuyển sang phải và ngợc lại.
+ Tỷ lệ lạm phát tơng đối: Nếu tỷ lệ lạm phát của một nớc cao hơn tỷ lệ lạm phát của
một nớc khác thì nớc đó sẽ cần nhiều tiền hơn để mua lợng tiền nhất định của nớc kia. Điều
này làm cho đờng cung tiền dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống.
+ Sự vận động của vốn: Khi ngời nớc ngoài mua tài sản tài chính, lãi suất có ảnh hởng
mạnh. Khi lãi suất của một nớc tăng lên một cách tơng đối so với nớc khác thì các tài sản
của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều ngời dân nớc ngoài muốn mua các tài sản ấy.
Điều này làm cho đờng cầu về tiền các nớc đó dịch sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái
của nó. Đây là một trong những ảnh hởng quan trọng nhất tới tỷ giá hối đoái ở các nớc phát
triển cao (đặc biệt là Mĩ).

Đề án môn học - Lê Hoài Nam
+ Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển các đờng cung và cầu
tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin
hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ đôla giá trị tiền tệ mỗi ngày.
II. Phân tích cơ chế tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái - thả nổi hay cố định?
Thả nổi? Trong một thế giới mà đồng tiền ngày càng cơ động hơn, các quốc gia
không thể nào vừa cố định tỷ giá hối đoái vừa giữ vững một chính sách tiền tệ độc lập các
quốc gia phải lựa chọn giữa một bên là niềm tin và sự ổn định mà tỷ giá có định đem lại với
một bên là sự kiểm soát độc lập với chính sách tiền tệ của mình do tỷ giá thả nổi mang lại.
Trớc đây, nhân tố quyết định trong sự lựa chọn của một quốc gia chính là sự nhạy cảm của
quốc gia đó đối với các cú sốc từ bên ngoài, chẳng hạn nh sự thay đổi bất ngờ trong giá
hàng hoá. Việc thả nổi đồng tiền sẽ cho phép quốc gia đó điều chỉnh để thích nghi trớc
những cú sốc từ bên ngoài thông qua tỷ giá hối đoái. ở các nớc có đồng tiền cố định thì giá
cả và tiền lơng trong nớc sẽ chịu sức ép nặng nề. Tuy nhiên, cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi
có một nhợc điểm lớn, đó là nó có thể đi chệch hớng đã định trớc và trở lên vô cùng mất ổn
định, nhất là khi có một khối lợng lớn vốn chảy vào hoặc chảy ra khỏi một quốc gia. Sự bất
ổn đó gây ra những cái giá phải trả về kinh tế thực sự. Hơn nữa tỷ giá thả nổi có thể làm suy
giảm niềm tin vào đồng tiền của các nhà đầu t, do đó làm cho việc chống lạm phát trở lên
khó khăn hơn. Xét theo bề ngoài của vấn đề, trong một thế giới có sự lu động của đồng vốn,
một tỷ giá hối đoái linh hoạt dờng nh là một lựa chọn khả thi. Đồng tiền thả nổi sẽ buộc các
công ty và các nhà đầu t phải phòng vệ trớc sự lên xuống giá cả thất thờng, sẽ không ru ngủ
họ với cảm giác ổn định giả tạo, và nó sẽ khiến cho các ngân hàng thận trọng hơn khi cho
vay. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ thì việc lựa chọn cơ chế tỉ giá hối đoái không rõ ràng, đơn
giản nh thế sự độc lập về tiền có vẻ là bề ngoài hơn là thật sự, ít ra là đối với các nớc đang
phát triển có hệ thống tài chính qui mô nhỏ, đơng đầu với sự hỗn loạn thị trờng bất ngờ, các
nền kinh tế mới nổi phụ thuộc vào đồng vốn nớc ngoài phải nâng lãi suất cao ngất trời để
giữ cho đồng tiền nớc mình không sụp đổ. Vấn đề lớn nhất đối với đồng tiền thả nổi chính
là những rủi ro do sự mất ổn định. Đối với các nền kinh tế mới nổi, các thị trờng tài chính
nhỏ bé đồng nghĩa với sự không ổn định tỷ giá hối đoái là một vấn đề về cấu trúc chứ

không phải là một vấn đề tạm thời. Nếu một quĩ tơng hỗ nào đó bất ngờ quyết định một
cuộc đầu t quan trọng thì tỷ giá hối đoái cuả quốc gia sẽ tăng nhanh. Khởi đầu cho một thời
kỳ tăng vọt không bền vững trong ngành bất động sản và ngân hàng, để lại những hậu quả
to lớn đối với các nhà xuất khẩu.
s
D
e (USD)/VNĐ
Q
0
Q
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
... Hay cố định tỷ giá? Các nhà kinh tế ủng hộ tỷ giá hối đoái thả nổi cũng nhận ra
những rủi ro do sự mất ổn định này gây ra. Họ cũng đã đề nghị các nền kinh tế mới nếu
không nên khuyến khích dòng chảy vào của đồng vốn ngắn hạn để hạn chế đến mức tối
thiểu sự mất ổn định tỷ giá hối đoái. ít nhất là đối với các nớc có nền tài chính còn nhỏ bé,
tỷ giá hối đoái thả nổi chỉ khả thi về lâu về dài một khi tốc độ hội nhập thị trờng vốn đợc
chậm lại.
Một số nhà kinh tế khác lập luận rằng tỷ giá hối đoái thả nổi không đem lại hiệu quả
cho các nền kinh tế nhỏ mới nổi. Họ cho rằng tỷ giá hối đoái đựơc ràng buộc chặt chẽ sẽ có
hiệu quả hơn và đề nghị các nền kinh tế nhỏ mới nổi lên tìm kiếm sự an toàn tài chính và sự
ổn định tiền tệ về "qui mô" và về "tính đa dạng". Khi đề cập đến "tính đa dạng" họ muốn đề
cập đến một mức độ sở hữu nớc ngoài thích hợp trong khu vực tài chính, còn "qui mô" ở
đây là muốn nói đến việc liên kết với các đồng tiền trong khu vực. Họ cho rằng các nớc mới
nổi nên nối kết đồng tiền của mình với đồng tiền hàng đầu của khu vực, chẳng hạn nh đồng
đôla với các quốc gia ở Châu Mỹ. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau,
gắn chặt đồng tiền với đồng đôla trong một biên độ hẹp là một lựa chọn khá hợp lý.
HồngKông và Argentina (hai quốc gia áp dụng chế độ này) đã chứng tỏ đợc rằng họ có thể
chịu đựng đợc những dao động lớn trong niềm tin của các nhà đầu t. Sở dĩ nh thế là vì việc
gắn chặt đồng tiền với đồng đôla đòi hỏi ngành ngân hàng phải thận trọng hơn và khuyến
khích sở hữu nớc ngoài trong khu vực tài chính. Một bớc đi mạnh mẽ hơn là sử dụng đồng

tiên chung. Các quốc gia riêng lẻ có thể góp đồng tiền của mình để tạo thành đồng tiền
chung mới (nh các nớc châu âu đã làm).
Nh vậy rõ ràng ở đây đã phải có sự lựa chọn: lựa chọn giữa hội nhập và quyền tự chủ
quốc gia. Những quốc gia tham gia vào liên minh khu vực sẽ phải từ bỏ quên tự chủ của
mình để đổi lấy hội nhập. Ngợc lại, những quốc gia thả nổi tỷ giá hối đoái sẽ giữ vững
quyền tự chủ nhng thờng phải đánh đổi lại bằng sự hạn chế trong hội nhập toàn cầu.
2. Sẽ có một cơ chế tỷ giá chung?
Nh vậy, thả nổi tỷ giá cho phép quốc gia theo đổi chính sách tiền tệ và một số chính
sách kinh tế vĩ mô khác đã đợc xác định trớc vì họ không phải dùng nó để bảo vệ tỷ giá hối
đoái. Tuy nhiên thị trờng có thể đẩy đồng tiền thấp dới xa giá trị thực sự của nó dẫn đến đổi
lạm phát về chi phí lớn cho dịch vụ nợ hoặc ở mức quá cao, gây tổn thất cho khả năng
quốc gia và gây thâm hụt lớn cho cán cân thơng mại. Cố định tỷ giá hối đoái có thể tránh đ-
ợc những vấn đề này nếu các nhà chức trách có thể thiết lập thành công tỷ giá ở mức bền
vững và làm cho thị trờng tin ở khả năng là họ sẽ giữ đợc cho nó ở mức đó. Hơn nữa cố
định tỷ giá hối đoái có thể làm giảm các chi phí giao dịch trong thơng mại quốc tế và đầu t.
Ngoài ra, tỷ giá hối đoái cố định có thể cung cấp một mỏ neo hữu dụng cho việc ổn định
giá cả bởi việc nối một quốc gia nhỏp với nền kinh tế thế giới (đặc biệt là với một quốc gia
lớn và giá cả tơng đối ổn định nh Mỹ và Đức).
Tuy nhiên, nếu chính phủ không có khả năng giữ tỷ giá hối đoái ở mức bền vững thì
các luồng vốn t nhân có thể đổ vào nh rút ra rất nhanh gây ra áp lực phá giá lớn. Một cuộc
bảo vệ thành công tỷ giá hối đoái có thể phải trả giá rất đắt, đòi hỏi quốc gia phải nâng cao
lãi suất và nh vậy làm chậm lại tốc độ tăng trởng kinh tế. Trong nền kinh tế thế giới hiện đại
với những luồng vốn t nhân khổng lồ, các nhà kinh tế ngày càng đi đến quan điểm thống
nhất là các quốc gia chỉ có thể đợc hởng lợi từ chế độ tỷ giá cố định bằng hai cách: Kiểm
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
soát hối đoái ngặt nghèo để trực tiếp giới hạn tác hại của đầu t t nhân, hoặc đa ra những
cam kết đáng tin cậy để làm thị trờng tin rằng nó vẫn sẽ đứng vững dù có các cuộc tiến
công đầu cơ dai dẳng và mạnh mẽ.
Cho đến nay, những gì đã xảy ra với nền kinh tế các nớc cho thấy rằng hệ thống tài
chính quốc tế lại đang nằm trong môi trờng của một thế giới với cơ chế tỷ giá thả nổi lai có

quá nhiều biến động và một cơ chế tỷ giá ấn định lại quá dễ dàng bị tổn thơng bởi sức ép
đầu cơ.
Trong điều kiện phát triển một nền kinh tế mở cửa, thì chính sách tỷ giá tiền tệ luôn là
một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm của đời sống kinh tế xã hội. Chính sách
điều tiết tỷ giá theo kiểu chết cứng, ổn định hay thả nổi hoàn toàn đều có tác động tích cực
và tiêu cực. (Trong đó tiêu cực nhiều hơn đến mục tiêu mà nó muốn hớng tới nói riêng và
đến sự ổn định của nền kinh tế nói chung. Điều quan trọng là phải đặt chính sách tỷ giá
trong sự thống nhất đồng bộ với các chính sách và định hớng phát triển chung của nền kinh
tế, cũng nh cần đợc điều chỉnh linh hoạt, kịp thời theo những biến động thị trờng dựa vào
các quan hệ cung cầu ở trong và ngoài nớc sao cho các cân bằng vĩ mô (xuất - nhập khẩu,
tỷ giá - lãi suất - thuế quan; tỷ giá - giá cả nội địa...) luôn đợc hài hoà và duy trì theo hớng
tích cực. Có lẽ đã đến lúc cái chung chính sách tỷ giá bản tệ của một nớc đợc "séo cố định
vào đồng tiền của một nứoc khác dù là mạnh nhất, vì nó biến chính phủ của nớc đó thành tù
binh của chính mình, cũng tựa nh khi áp dụng chính sách thả nổi hoàn toàn tỷ giá - tức là áp
dụng công cụ của một nền kinh tế thị trờng phát triển hoàn hảo, vào một nền kinh tế cha
thực sự hoàn thiện.
Vậy đâu là một giải pháp "an toàn nhng hiệu quả" cho Việt Nam, điều này phải xuất
phát từ chính thực tiễn và định hớng phát triển của nền kinh tế. Cho dù còn tồn tại nhiều ý
kiến khác nhau, sự bất đồng trong quan điểm trong chính sách tỷ giá hối đoái thì chúng ta
cũng không thể phủ nhận một điều rằng: Tỷ giá hối đoái là một công cụ quan trọng - thậm
chí là một vũ khí lơi hai trong thơng mại và vận hành nền kinh tế. Trên thế giới chúng ta đã
đợc thấy vai trò của tỷ giá trong cuộc chiến tranh thơng mại hết sức khốc liệt giữa Mỹ -
Nhật - Tây Âu. Vẫn biết tỷ giá hối đoái là một vấn đề nhạy cảm. Nhng cụ thể ra thì sự nhạy
cảm đó đợc biểu hiện khi nào. Câu trả lời ở đây là: Không phải lúc nào chúng ta cũng có đ-
ợc tất cả những điều kiện thuận lợi cho việc thực thi một chính sách tỷ giá mà ngày hôm
nay đợc coi là hoàn toàn hợp lý. Một sự lên giá đồng tiền đột phá trong quan hệ th-
ơng mại, hay một sự mất giá đồng loạt của những đồng tiền trong khu vực, hay những xáo
trộn trong bản thân nền kinh tế của mỗi nớc... đều đỏi hỏi phải có đợc những phản ứng tích
cực trong chính sách về tỷ giá. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng mở cửa
hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng bỏng và đợc nhiều ngời

quan tâm. Chính sách tỷ giá đã đợc nhà nớc ta sử dụng nh một công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô. Trong thực tế cho thấy tại những thời điểm khác nhau, nếu không có quyết sách về tỷ
giá kịp thời, phù hợp sẽ gây ảnh hởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu t trong nớc, làm
thâm hụt cán cân thơng mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm
vụ cuả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công những mục tiêu và nhiệm vụ
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Và khi đã đặt mình vào hoàn cảnh
"Sự đã rồi" thì mọi giải pháp đa ra chỉ còn mang tính chất tình thế hay buông trôi để rồi
hứng chịu tất cả.
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
Chơng II. Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Thật ra, việc xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với chính sách tiền tệ là cần
thiết đối với tất cả mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, nhằm bảo vệ và đảm bảo lợi ích cho riêng
mình. Việt Nam quan tâm đến mối quan hệ trên cũng không nằm ngoài hai mục đích này.
Vấn đề chúng ta cần tìm hiểu ở đây là đối với một nền kinh tế nhỏ bé và non yếu nh của
Việt Nam trong xu hớng hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, những đe doạ tiềm ẩn có thể
đến từ đâu cũng nh những mục tiêu, quên lợi gì Việt Nam cần phải đảm bảo trong chiến lợc
phát triển kinh tế của mình? Một cách tốt nhất để xem xét vấn đề này là xuất phát từ chính
thực tiễn những gì đã xảy ra đối với nền kinh tế các nớc trong khu vực - những nớc có
những nét tơng đồng Việt Nam trong định hớng phát triển kinh tế ổn định, bền vững hớng
vào xuất khẩu.
I. Trong điều kiện khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Đầu tiên chúng ta sẽ xem xét đến việc bảo vệ một đồng tiền đang phải chịu sức ép
nặng nề. Trong trờng hợp này việc thắt chặt chính sách tiền tệ nói chung là cần thiết. Đối
với các nhà đầu t, mức lãi suất cao hơn sẽ làm tăng lợi nhuận danh nghĩa từ các tài sản đợc
tính bằng giá trị đồng tiền này, và làm cho việc đầu t trở lên tốn kém hơn do việc tăng chi
phí khi đi vay tiền. Một chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn có thể sẽ hỗ trợ cho tỷ giá hối đoái
bằng cách giảm bớt những dự báo về lạm phát trong tơng lai, và nhờ thế cũng giảm bớt
những dự báo về sự mất giá của đồng tiền. Một sự đối phó mạnh mẽ đối với sức ép tiền tệ
cũng làm giảm bớt rủi ro vỡ nợ cho dân chúng trong nớc khi đi vay bằng ngoại tệ. Nhng
nh thế không có nghĩa là việc thắt chặt chính sách tiền tệ đợc coi nh sự đối phó với sức ep

lên đồng tiền. Chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm tăng gánh nợ của những ngời đi vay bằng
đồng nội tệ, điều này có thể gây áp lực lên tỷ giá hối đoái khi các nhà đầu t phải chịu rủi ro
tín dụng cao hơn và vì thế, dẫn đến một mức bù đến rủi ro cũng cao hơn cho chính đồng
tiền đó. Nh vậy khi một chính sách tiền tệ đợc thắt chặt hơn, sẽ có những ảnh hởng xấu hơn
trong trờng hợp những nền kinh tế có khối lợng nợ bằng đồng nội tệ tơng đối lớn, hoặc khi
do có những vấn đề về mức độ tín nhiệm, những mức lãi suất cao buộc phải duy trì trong
một thời gian dài. Hơn nữa những mức tăng lãi suất dờng nh không đủ để tạo ra một sự hỗ
trợ lâu dài cho tỷ giá hối đoái, khi có thể có những mâu thuẫn lớn giữa tỷ giá hối đoái về
các nguyên tắc kinh tế cơ bản, hoặc trong bối cảnh những nền kinh tế mà các mức lãi suất
cao không bền vững, dù trong bất kỳ thời điểm nào.
Điểm qua một số nớc, ta thấy những nớc thi hành chủ trơng tăng quá cao lãi suất
trong lúc đồng tiền mất giá mạnh (nh Thái Lan, Hàn Quốc) đã gặp khó khăn nhiều hơn so
với những nớc chủ trơng phối hợp chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất (Trung Quốc,
Malaixia). Việc Trung Quốc liên tục hạ lãi suất đã giúp nớc này duy trì tốc độ tăng trởng
cao trong điều kiện không phá giá đồng nhân dân tệ. Một trong những lý do khiến Thái Lan
gặp khó khăn là do đồng tiền đợc định giá quá cao và cân phải có sự thay đổi tỷ giá hối
đoái. Tuy nhiên sự xiết chặt chính sách tiền tệ phải đi kèm với những điều chỉnh hợp lý về
tỷ giá hối đoái.
II. Trong định hớng phát triển kinh tế hớng về xuất khẩu.
ổn định tỷ giá luôn là một tiền đề quan trọng để cho các nhà đầu t an tâm, ít lo ngại
rủi ro hối đoái. Nhng ổn định không có nghĩa là neo chặt tỷ giá hối đoái ở một mức cố định
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
kéo dài quá lâu, không còn phù hợp với các thông số khác của nền kinh tế. Chúng ta phải
thờng xuyên xử lý mối quan hệ giữa 3 thông số cơ bản: tỷ lệ lạm phát, lãi suất và tỷ giá hối
đoái. Điều này có thể đợc thực hiện thông qua một loạt các thông số khác nh: khả năng dự
trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, chênh lệch về
lạm phát giữa các nớc, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái tự do và chính thức... Thi hành chính
sách tỷ giá sao cho vừa thúc đẩy xuất khẩu với t cách là động lực mạnh nhất của tăng trởng
kinh tế, vừa không phá vỡ các mục tiêu mà chính sách lãi suất thị trờng đang hớng tới (đảm
bảo tính lành mạnh của môi trờng kinh doanh thị trờng, tạo khả năng huy động tiết kiệm

nội địa lớn, xác lập nguyên tắc khách quan để nguồn vốn đợc phân phối chủ yếu cho các dự
án đầu t hiệu quả cao - tiết kiệm vốn và tận dụng thế mạnh lao động, tạo vòng tuyến vững
chắc ngăn chặn gia tăng lạm phát. Trong khi vốn duy trì đợc mức đầu t cao. Thực ra theo
nguyên lý thông thờng của kinh tế học, hai mục tiêu này của chính sách tỷ giá là đối nghịch
nhau. Song trên thực tế không phải là có cách để xử lý thành công tính đối nghịch này. Cụ
thể, Đối với các nền kinh tế Đông á trong giai đoạn 1960 - 1990 đều theo đuổi chính sách
tỷ giá không đánh giá cao đồng tiền tệ. Định hớng chính sách đó nhằm đảm bảo cho tỷ giá
giữ đợc vai trò thúc đẩy xuất khẩu. Nhng để không gây ra tình trạng bất ổn định trong hệ
thống tiền tệ, việc điều chỉnh tỷ giá theo hớng "mềm hoá" không diễn ra thờng xuyên,
không thuần tuý do thị trờng quyết định. Nhà nớc chủ động can thiệp vào quá trình chính
sách này là đặc điểm nổi bật của cách điều hành và sử dụng công cụ tỷ giá nhằm mục tiêu
phát triển. Một số nớc chủ trơng tiến hành phá giá sau từng quãng thời gian dù dài (Đài
Loan) một số nớc lại lựa chọn hớng ổn định tỷ giá lâu dài trên cơ sở thiết lập mức tỷ giá
"xuất phát" đủ mềm, tức là có khả năng thúc đẩy xuất khẩu trong nhiều năm (Thái Lan).
Dù là khác nhau song hớng tiếp cập ở đây là thống nhất: tỷ giá phải thoả mãn một số yêu
cầu nh tính thị trờng, duy trì sức cạnh tranh xuất khẩu của tỷ giá, đảm bảo cân bằng giữa
sức mua đối nội (đo qua lãi suất) và sức mua đối ngoại (đo trực tiếp qua tỷ giá) của đồng
nội tệ.
Nh vậy vấn đề cốt lõi ở đây là làm sao cân bằng đợc xu hớng tác động ngợc chiều
giữa chính sách lãi suất và chính sách tỷ giá hối đoái một cách tích cực. Việc kết hợp chính
sách lãi suất và chính sách tỷ giá - hai thành tố chủ yếu nhất của chính sách tiền tệ - theo h-
ớng tao nên trục cốt lõi đảm bảo phối hợp các chính sách vĩ mô để cùng hớng đến mục tiêu
chung: Phát triển bền vững hớng mạnh đến xuất khẩu.
Trên đây, chúng ta đã xem xét tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác. Rõ ràng, xem xét mối quan hệ này là cực kỳ quan trọng. Nó sẽ hớng
cho chúng ta một cách tiếp cận logic và có khoa học trong việc thực hiện những mục tiêu
kinh tế của đất nớc. Tuy nhiên, thế vốn cha đủ để có thể đạt đợc thành công. Việc nhận
thức này lại phải xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế của Việt Nam. Với một nền kinh tế dễ bị
tổn thơng với một đồng tiền cha có khả năng chuyển đổi, hệ thống ngân hàng yếu kém và
các doanh nghiệp nhà nớc làm ăn thua lỗ, một cơ cấu sản xuất và một cơ cấu hàng xuất

khẩu luôn gây ra những áp lực lớn đối với việc phá gía đồng Việt Nam, thì việc có những
điều chỉnh linh hoạt kịp thời trong tỷ giá là một điều vô cùng quan trọng. Theo dõi sự giao
động của tỷ giá trong những năm qua có thể dễ dàng thấy rằng bằng cách phá giá từng bớc
đồng Việt nam, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đang tạo ra những biện pháp
khuyến khích cho dịch chuyển cơ cấu sản xuất hớng đến xuất khẩu, đồng thời tạo nên
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
những điều kiện thuận lợi thực hiện từng bớc quá trình tự do hoá tài khoản vãng lai tiến tới
hội nhập.
Chúng ta sẽ điểm lại toàn bộ quá trình diễn biến của tỷ giá hối đoái trong vòng 10
năm qua để thâý rằng đó đã là những bớc đi vô cùng cần thiết tạo động lực phát triển kinh
tế, đồng thời chúng ta sẽ có đợc một định hớng về tỷ giá hối đoái cho tơng lai.
Chơng III: sự phát triển của Tỷ giá hối đoái Việt Nam
I. Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam.
Giai đoạn 1955 - 1989, mặc dù nhiều nớc trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả
nổi về thả nổi có quản lý, nhng các nớc trong hệ thống XHCN (trong đó có Việt Nam) với
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nớc luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh
tế, lại là chế độ tỷ giá cố định. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) nhà nớc còn đa
ra hai loại tỷ giá khác là: tỷ giá phi mậu dịch về tỷ giá kết toán nội bộ. Nh vậy chế độ tỷ giá
ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thông tỷ giá này đã gây không ít
khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nớc trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ kinh tế
đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi
mới cơ chế tỷ giá trở thành vấn đề cấp bách, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà n-
ớc bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bớc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, chuyển dần sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Tỷ giá hối đoái
cũng có những cách đặc biệt:
Tháng 3/1989: Nhà nớc công bố chính thức xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi
chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thơng. Tỷ giá chính thức đợc NHNN công bố căn
cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất. CCTT tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trờng tự do và giá
vàng trên thị trờng quốc tế và trong nớc. Trên cơ sở tỷ giá này, các NHTM xây dựng một tỷ
giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày có biên độ giao động cho phép. Nhìn chung,

những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trờng ngoại hối, xoá
bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên tỷ giá trên thị trờng vẫn biến động mạnh, mà điển hình là cơn sốc tỷ giá
vào cuối năm 1991. (1USD = 13.000đ) nguyên nhân chính làm cho USD tăng giá là do ảnh
hởng của tình hình CCTT quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát
nặng nề ở Việt Nam.
Nhằm thúc đẩy thị trờng giao dịch ngoại tệ chính thức, NHNN đã hình thành một sàn
giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối tháng 8/1991 tại Hà Nội vào tháng
11/1991. NHNN đã qui định biên độ giao dịch tối đa so với tỷ giá chính thức và đợc
NHNN công bố là 10,5%. Tuy nhiên do sự không hiệu quả của hai sàn giao dịch này, nên
ngày 14 - 10 - 1994. NHNN đã ra quyết định số 204/QĐ - NHNN hình thành một thị trờng
liên ngân hàng cho các giao dịch ngoại hối thay cho 2 sàn giao dịch cũ. NHNN vẫn tiếp tục
qui định biên độ giao dịch tỷ giá mua và bán là 10,5%, kết quả của những biện pháp cải
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
cách này là hết sức khả quan, hầu hết các NHTM lớn đều tham gia vào thị trờng liên ngân
hàng cùng với lợng giao dịch trung bình một ngày khoảng 3 triệu USD.
Năm 1996, mức thâm hụt cán cân thơng mại ở nớc ta lên đến 4 tỷ USD, mức thâm
hụt cán cân thơng mại ở nớc ta đến 4 tỷ USD, tỷ lệ nhập siêu so với GDP lên đến 16%, cao
gần rỡi so với các nớc có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu USD tăng tạo sức ép
giảm giá VND. Do vậy, NHNN đã mở rộng biên độ giao động của tỷ giá từ 0,5% trớc đây
lên 4% và vào tháng 2/1997 biên độ này là 5% bên canh đó tỷ giá chính thức cũng đợc
nâng dần lên. Nhìn chung, từ đầu năm 1997 tỷ giá USD/NVD liên tục tăng lên, không còn
ổn định nh thời gian từ 1993 - 1996. Ngày 2/7/1997, ngòi nổ của cuộc khủng hoảng tiền
Châu á bắt đầu phát ra từ Thái Lan, là một nớc trong cùng khu vực, Việt Nam cũng bị ảnh
hởng đến tình hình buôn bán, thanh toán và kể cả về tâm lý. Ngày 13/10/1997, NHNN
quyết định nới rộng biên độ tỷ giá mua bán ngoại tệ lên 10% so với tỷ giá chính thức. Cầu
ngoại tệ trên thị trờng rất cao nên hầu nh khu vực mua bán ngoại tệ của các NHTM thờng
xuyên bán sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhng giá trên thị trờng tự do còn cao hơn
nhiều (có lúc lên đến 14000 đ/1USD).
Đứng trớc tình hình này, những tháng đầu năm 1998, NHNN đã đa ra một loạt các

biện pháp nhằm ổn định thị trờng, đặc biệt là hai lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần 1, ngày
16/12/1998 nâng tỷ giá từ 11.175đ/1USD lên 11.800đ/1USD làm tỷ giá giao dịch của
NHTM xấp xỉ với tỉ giá trên thị trờng tự do lên 2, ngày 07/8/1998 tỷ giá chính thức đợc
nâng từ 11.888đ/1USD lên 12.998đ/USD tăng 16,3%. Bên cạnh đó biên độ giao dịch ngoại
tệ cũng đợc thu hẹp lại còn 7% chứ không phải là 10% nh trớc đây nữa. Việc làm này đã
làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trờng tự do và tỷ giá của các NHTM.
Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trờng này thờng xuyên xấp xỉ
nhau. Và gần đây nhất vào đầu năm 1999, NHNN để đa ra những biện pháp cải cách chính
sách điều hành tỷ giá mạnh mẽ do những áp lực giảm sút sức cạnh tranh trong thơng mại
quốc tế, mà nguyên nhân chính là từ cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đem lại. Do
những áp lực tạo ra từ việc định giá tỷ giá quá cao, NHNN lần này đã đa ra những cải cách
có tính chất mạnh mẽ hơn: xoá bỏ tỷ giá chính thức đợc công bố bởi NHNN hàng ngày,
thay vào đó NHNN đã tôn trọng qui luật hoạt động của thị trờng hơn, thông qua việc qui
định các NHTM chỉ đợc phép giao dịch ngoại tệ trên biên độ 10,1% so với tỷ giá đóng cửa
của thị trờng liên ngân hàng của ngày giao dịch cần thiết. Quyết định này đợc công bố bằng
hai quyết định số 64,65/1999/QĐ - NHNH vào ngày 25/2/1999.
II. Vài suy nghĩ về cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam.
Nh vậy, cải cách chính sách điều hành tỉ giá tại Việt Nam có thể đợc chia làm hai thời
kỳ chính: 1. Cho đến tháng 8/1991, NHNN vốn điều chỉnh tỷ giá chính thức trong biên độ
10 đến 20% của thị trờng chợ đen; 2. Từ ngày 9/1991 cho đến nay, NHNN đã để tỷ giá hối
đoái đợc định đoạt trên thị trờng liên ngân hàng. Phải thừa nhận rằng thời gian qua, NHNN
Việt Nam đã đa ra những bớc đi thích hợp trong việc điều chỉnh tỷ giá và đã gặt hái đợc
những thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trờng ngoại tệ, góp phần
tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy rất rõ những u
điểm nổi bật của những cải cách tỷ giá đó là:
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
Thứ nhất, tỷ giá NHNN công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trờng
liên ngân hàng, điều này phản ánh tỷ giá đợc hình thành khách quan hơn, phản ánh đúng
hơn cung - cầu ngoại tệ trên thị trờng. Trớc đây, mặc dù vẫn nói: tỷ giá chính thức của
NHNN công bố cũng đợc căn cứ vào giá thị trờng tự do, tình hình cung và cầu về ngoại tệ.

Song nó vẫn có cái gì đó thật mơ hồ, mang nặng tính chủ quan nhiều hơn. Chúng ta có thể
thấy rõ điều này khi nhìn vào những biến động tỷ giá của các NHTM:
Ngày (năm 1998) 21/2 27/2 28/2 2/3 5/3 9/3
Tỷ giá chính thức 11.803 11.804 11.801 11.790 11.798 11.803
Tỷ giá của NHTM 12.983 12.984 12.981 12.979 12.978 12.983
Một loạt các con số trên cho thấy tỷ giá của các NHTM luôn bám sát mứ trần cao
nhất mà NHNN cho phép (giá công bố chính thức x 110%), thậm chí tỷ giá chính thức chỉ
cần thay đổi một đồng thì tỷ giá của các NHTM cũng bám theo. Lý do ở đây là: Vợt thì
không đợc phép, nhng thấp hơn mức trần thì các NHTM cũng không thể chấp nhận đợc.
Điều này chứng tỏ có cái gì đó thật là gò bó, cứng nhắc, khó có thể chấp nhận đối với cơ
chế tỷ giá hiện hữu. Còn một khi tỷ giá công bố chính là tỷ giá hình thành trên thị trờng liên
ngân hàng, thì sẽ thật nhẹ nhàng, các NHTM không còn phải phòng thủ nữa, bởi tỷ giá này
chính là điểm gặp gỡ giữa cung và cầu ngoại tệ của các ngân hàng.
Thứ ba, trớc đây, do tỷ giá NHNN công bố cứng nhắc, không thực sự phản ánh, quan
hệ cung cầu nên nếu thấy giá mua ngoại tệ của các ngân hàng thấp thì các doanh nghiệp
mang ngoại tệ ra thị trờng tự do bán - ngợc lại nếu mua ngoại tệ của ngân hàng quá khó
khăn thì mua trên thị trờng tự do. Vì thế, chỉ cần có những biến động nhỏ trong nền kinh tế
cũng đủ tác động để mở ra một khoảng cách giữa tỷ giá của thị trờng tự do và tỷ giá của các
NHTM. Nhng với cơ chế điều hành mới, tỷ giá mà NHNN công bố, bác bỏ nó xuất phát từ
cung cầu ngoại tệ giữa các ngân hàng nên nó sẽ gần gũi hơn với tỷ giá thị trờng tự do và nh
vậy những biến động để có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trờng tự do và tỷ giá của
các NHTM sẽ khó có thể xảy ra hơn.
Thứ ba, với cơ chế điều hành tỷ giá trớc đây, vì NHNN muốn giữ ổn định, không thay
đổi, trong khi đó khả năng cung ứng ngoại tệ của NHNN cũng nh các NHTM thấp nên nhu
cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng thờng xuyên không đợc đáp ứng, điều này đã làm
cho nhiều doanh nghiệp phải lao đao khi phải đối mặt với các nhu cầu thanh toán đến hạn
với nớc ngoài. Còn với cơ chế điều hành tỷ giá nh hiện nay thì bản thân tỷ giá tự nmó đã đ-
ợc điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu của các doanh
nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và vị trí đó cung và cầu đều đợc thoả mãn.
Thứ t, khi tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần nhà nớc điều chỉnh

tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nền, nhất là khi tỷ giá không đợc điều chỉnh thờng
xuyên , đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bớc nhảy đột ngột, ngời ta bắt đầu nghi ngờ về một
chủ trơng nào đó, lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế mà bị dao động, tình trạng đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Nhng với cơ chế mới, tỷ giá đợc hình thành theo
quan hệ cung cầu, để giữ tỷ giá ổn định hay điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, NHNN
chỉ việc điều chỉnh cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và nh
vâỵ tất cả đều hết sức tự nhiên, giảm bớt tâm lý hoang mang dao động.
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
Thứ năm, trong cơ chế mới, tỷ giá không phải là đợc điều chỉnh mà là đợc hình thành
trên thị trờng, rõ ràng là nó mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn và vì thế nó phù hợp với thông lệ
quốc tế, góp phần tăng cờng sự hoà nhập của nền kinh tế nớc ta vào cộng đồng kinh tế thế
giới.
Từ những điểm nêu trên cho thấy cơ chế điều hành tỷ giá mới của NHNN không chỉ
khắc phục đợc những hạn chế của cơ chế cũ mà còn hết sức phù hợp với một nền kinh tế
mở nh điều kiện của nớc ta hiện nay.
Nh vậy Việt Nam đã chuyển đổi từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá neo, dựa
trên cơ sở biến động của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng. Thông qua thời gian nói trên (từ
năm 1991 đến nay) chế độ điều hành tỷ giá của Việt Nam nh vậy là tơng đối hợp lý. Tuy
nhiên để chế độ mới về điều hành tỷ giá có thể thực sự phát huy tác dụng cần thiết phải có
những giải pháp kèm theo.
III. Những giải pháp kèm theo nhằm hỗ trợ cho chính sách tỷ giá
hiện nay.
1. NHNN phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh.
Đây là giải pháp mà từ trớc tới nay chúng ta vẫn rất quan tâm. Tuy nhiên mỗi giai
đoạn nó mang ý nghĩa có phần khác nhau. Trớc đây tỷ giá là do NHNN định ra công bố, nó
còn mang nặng tính chất hành chính cho nên nó có tác động đến cung cầu nhiều hơn so với
sự tác động của cung - cầu đến với nó. Cung cầu có thể thay đổi, song tỷ giá vẫn có thể giữ
nguyên nh cũ (nếu NHNN thấy nh vậy là cần thiết) vì thế, có những lúc dự trữ ngoại tệ của
ta rất mỏng manh những tỷ giá danh nghĩa vẫn không hề bị biến động. Với cơ chế mới về
điều hành tỷ giá thì mọi vấn đề lại không phải nh vậy, khi cung cầu ngoại tệ trên thị trờng

thay đổi thì tỷ giá trên thị trờng sẽ thay đổi nếu NHNN muốn giữ tỷ giá ổn định thì buộc
phải can thiệp. Nếu cung lớn hơn cầu, NHNN chỉ việc tung VNĐ ra mua ngoại tệ, làm tăng
nguồn dự trữ ngoại tệ của NHNN. Nhng ngợc lại, nhu cầu ngoại tệ lại cao hơn cung ngoại
tệ, (khả năng này xảy ra nhiều hơn, thì không còn cách nào khác, để giữ tỷ giá, NHNN
buộc phải tung ngoại tệ ra bán. Song không chỉ nh vậy, dự trữ ngoại tệ còn cần phải đủ
mạnh để sẵn sàng đối phó với những âm mu kích động yếu tố đầu cơ trên thị trờng. Bài học
của Thái Lan còn đó, một số ngân hàng và công ty tài chính nớc ngoài đã lợi dụng sự mất
ổn định kinh tế và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Thái Lan để thực hiện các giao dịch
đầu cơ châm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng và làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm
trọng. Nếu dự trữ ngoại tệ của NHNN không đủ mạnh để can thiệp trong những lúc cần
thiết từ hoặc là lai phải quay lại điểm xuất phát của nó - dùng biện pháp hành chính để giữ
tỷ giá, hoặc là thả nổi cho tỷ giá tự nó trôi nổi trên thị trờng.
2. Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ ràng buộc khá chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hớng
giảm thì ngời ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất, nếu lãi suất có xu hớng giảm thì ngợc lại,
ngời ta lại quan tâm đến tỷ giá. Các hành vi bán - mua - gửi - rút ngoại tệ hơn quan hệ xoắn
xuýt với nhau và nó sẽ tạo ra dòng chuyển giữa VND và ngoại tệ. Dù vậy quan hệ đến tỷ
giá thì không thể không quan tâm đến lãi suất và ngợc lại. Thực tế cũng đã cho chúng ta
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
thấy rõ điều này: Những tháng đầu năm 1997 diễn biến của tỷ giá, của lãi suất hoàn toàn
có lợi cho sự chuyển dịch của VND thành USD. hay trong năm 1998, việc điều chỉnh tỷ giá
lên 16% làm cho lợi tức dự tính của việc giữ ngoại tệ tăng hơn so với lợi tức dự tính của việc
giữ VNĐ đã dẫn đến việc chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ làm ảnh hởng tới nguồn vốn
khá dụng VND của các tổ chức tín dụng. Nhu cầu gần gũi ngoại tệ đã tạo ra sức mua giá trị
trên thị trờng, cầu ngoại tệ tăng lên và vì vậy tỷ giá có xu hớng bị đẩy lên. Nh vậy tình trạng
đó không những làm giảm khả năng mua ngoại tệ của các ngân hàng mà thậm chí còn làm
cho NHNN phải tung dự trữ ngoại tệ ra để giữ tỷ giá. Chính vì lẽ đó nên phải quan tâm đến
mối quan hệ giữa lãi suât và tỷ giá. Chúng ta đã có một bớc tiến trong việc xác định tỷ giá
trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng làm cơ sở xác định giá mua, bán ngoại tệ của NHTM
đồng thời xác định lãi suất trên thị trờng lên ngân hàng làm cơ sở để NHTM xác định lãi

suất cho vay và tiền gửi của mình.
3. Các cơ chế quản lý ngoại hối đợc hoàn chỉnh hơn.
- Quản lý nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp một cách có hiệu quả mà đồng thời
không làm giảm tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc chi tiêu đối với những món
nhỏ, không cần trình báo.
- Quan tâm hơn đến nguồn ngoại tệ đang đợc dùng để buôn bán bất hợp pháp, ngăn
chặn hiện tợng chảy máu ngoại tệ, có biện pháp xử lý thích đáng những trờng hợp vi phạm
chế độ quản lý ngoại hối...
- Tất cả các nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý đều phải đáp ứng đầy đủ.
- Chú ý đến những biện pháp tạo sự tiện ích để khuyến khích và khơi tăng nguồn thu
kiều hối.
Tóm lại, mỗi giai đoạn khác nhau, nhà nớc có thể đa ra một số cơ chế tỷ giá khác
nhau và các giai đoạn khác nhau về quản lý ngoại hối. Tuy nhiên giai đoạn nào cũng vậy
luôn có những yếu tố cơ bản xuyên suốt, cần phải nắm bắt cho đợc những yếu tố đó để có
thể đa ra một chính sách thực sự bao quát và phù hợp. Trên cơ sở đó, nhà nớc có thể kiểm
soát đợc các luồng di chuyển ngoại tệ, thu hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ ổn định tỷ
giá, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và khắc phục tình trạng đôla hoá trong nền kinh
tế.
IV. Chính sách tỷ giá trớc những thách thức đe doạ hiện tại và
định hớng cho tơng lai.
Xét cho những mục tiêu ngắn hạn trớc mắt , một chính sách quản lý tỷ giá hối đoái
nh hiện nay là phù hợp - điều này đợc thể hiện qua một loạt các phân tích mà chúng ta đã
đề cập ở trên. Tuy nhiên việc sử dụng chính sách tỷ giá neo (và trong tơng lai khi mà thực
hiện đợc việc tiến hành tự do hoá hoàn toàn tài khoản vốn, tạo tiền đề cho việc thực thi điều
hành chế độ tỷ giá thả nổi) thì việc điều hành vĩ mô tại Việt Nam cùng vốn phải rất nhiều
khó khăn mà thách thức lớn nhất lại chính là lạm phát. Bởi vì trong điều kiện thị trờng lao
động cứng nhắc nh của Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam thì phơng pháp tối u để chính
phủ gây những cú huých mạnh mẽ thúc đẩy khu vực t nhân phát triển là thông qua phá giá.
Bởi vì bằng cách thực hiện phá giá, chính phủ có thể nhận ra sự giảm đi trong tỷ lệ tiền lơng
thực (là tỷ lệ tiền lơng sau khi đợc điều chỉnh so với tỷ lệ lạm phát) và vì vậy tăng đợc việc

Đề án môn học - Lê Hoài Nam
làm và sự bùng nổ trong sản lợng. Giai đoạn lạm phát cao là một vấn đề đợc lu tâm hàng
đầu (1989 - 1994 trong quản lý vĩ mô thì chế độ tỷ giá cố định thực sự là một công cụ điều
hành kinh tế vĩ mô đáng tin cậy. Bởi vì chế độ tỷ giá cố định đòi hỏi phải thiết lập những
qui tắc không đợc phép vi phạm giữa khu vực tài chính công (chi tiêu ngân sách) , và khu
vực tiền tệ (hoạt động ngân hàng trung ơng). Nguyên tắc này nêu rõ không đợc phép in tiền
để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, chỉ khi nào nguyên tắc này đợc giữ vững thì khi đấy chế
độ điều hành tỷ giá cố định mới phát huy đợc vai trò của nó. Bởi vì dới chế độ tỷ giá cố
định thì bất kỳ việc u tiên nào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách đều có thể làm suy yếu dự
trữ ngoại tệ quốc gia, trong trờng hợp thâm hụt ngân sách mà dai dẳng nh hiện nay thì khả
năng không có dự trữ ngoại tệ là điều không thể tránh khỏi, nếu Việt Nam cứ tiếp tục duy
trì chế độ tỷ giá cố định. Trong môi trờng vĩ mô vẫn còn bấp bênh nh trong giai đoạn hiện
nay, thì chế độ tỷ giá cố định hay chế độ tỷ giá cao (dựa trên sự biến động của tỷ giá liên
ngân hàng) mà Việt Nam đang theo đuổi và sẽ rất có khả năng bị sụp đổ sau một cú sốc do
tâm lý lo sợ phá giá và sự quay trở lại của lạm phát cao của c dân và các tổ chức kinh tế,
nên buộc họ phải chuyển tiền của mình vào đầu cơ ngoại tệ. Trong tơng lai, từ nay đến năm
2010, khi Việt Nam có thể thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ tự do trên tài khoản vãng lai và
tiến tới cả trên tài khoản vốn (tức là cho phép các luồng vốn luân chuyển tự do trong nền
kinh tế) thì việc quản lý tỷ giá không còn là một nhiệm vụ đơn gianả với các nhà quản lý vĩ
mô. Bởi vì trong những trờng hợp tỷ giá không đạt đến mức cân bằng thì các nhà đầu t rất
có thể nhằm vào các hoạt động đầu cơ ồ ạt nhằm bảo vệ tài sản của họ khỏi bị mất giá.
Một khía cạnh khác, mặc dù các nhà quản lý tiền tệ Việt nam cho rằng chế độ tỷ giá
của Việt Nam là chế độ tỷ giá của Việt Nam là chế độ không bản vị bất cứ một đồng ngoại
tệ nào, nhng trong thực tế của nền kinh tế thì thực chất chế độ tỷ giá của đồng Việt Nam là
một chế độ bản vị đồng đôla Mỹ. Bởi vì 96,9% trong thanh toán cán cân thanh toán của
Việt Nam là bằng đồng đôla Mỹ. Do đó đòi hỏi dự trữ ngoại tệ của NHNN, thanh toán
trong thơng mại quốc tế, các chính sách quản lý nợ nớc ngoài cũng nh việc huy động đầu t
trực tiếp nớc ngoài... tại Việt Nam đều phải đợc xác định trên cơ sở đồng đôla Mỹ.
Cùng với tỷ lệ lạm phát trong nớc cao và việc tăng giá đồng Việt Nam vào giữa năm
1995 so với các đồng tiền mạnh khác, đặc biệt là đồng Yên Nhật, đồng DM, tuy nhiên vẫn

giữ một phần số rất cao so với đồng đôla Mỹ, nên đã có kết quả là chính sách tỷ giá của
Việt Nam có xu hớng đánh giá quá cao tỷ giá thuế của đồng Việt Nam so với đồng đôla
Mỹ trong một thời gian dài. Chính sự đánh giá cao này là một nhân tố quan trọng góp phần
làm chậm tốc độ xuất khẩu và thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài. Trong thực tế Việt Nam
có khá nhiều liên kết cùng với các khu vực khác trên thế giới trong lĩnh vực thơng mại và
đầu t nớc ngoài. Điều đó thể hiện việc ổn định tỷ giá hối đoái nh trong giai đoạn hiện nay
thông qua đồng đôla Mỹ không phải là một chế độ quản lý tỷ giá hợp lý. Không phải Mỹ
mà là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và các nớc ASEAN mới là những đối tác thơng
mại chính của Việt Nam. Từ cơ cấu thơng mại này có thể dễ dàng nhận thấy để ổn định hoá
tỷ giá và duy trì đợc một chế độ tỷ giá hợp lý trong tơng lai từ nay cho đến năm 2010 thì
Việt Nam nên tìm ra một rổ tiền tệ tối u trong đó không chỉ có đồng đôla Mỹ mà còn có cả
đồng Yên Nhật, đồng Euro và các đồng tiền khu vực. Hay nói cách khác, Việt Nam cũng
nh các nớc ASEAN khác cần tạo nên một đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao trong khu
vực, bởi vì tỷ lệ đầu t và thơng mại của Việt Nam và các nớc trong khu vực là rất lớn. Bằng
cách làm nh vậy Việt Nam và các nớc ASEAN sẽ có thể tránh đợc những rủi ro do biến
Đề án môn học - Lê Hoài Nam
động tỷ giá gây ra, đồng thời cũng giảm thiểu đợc mức độ ảnh hởng của các nền kinh tế
công nghiệp khi các nớc này thay đổi chính sách vĩ mô của nó.
V. Những giải pháp cho những vấn đề cần tiếp tục trong tơng lai.
Trong tơng lai, để có thể gia nhập APEC và WTO thì một trong những điều kiện tiên
quyết là phải hình thành đợc khả năng chuyển đổi tiền tệ trên tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn. Để duy trì cán cân thanh toán bền vững, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh
tế thì Việt Nam phải buộc từng bớc thực hiện việc tự do hoá các giao dịch ngoại hối và các
luồng chu chuyển vốn. Mà muốn quá trình này đợc thực hiện thành công thì chính sách tỷ
giá của Việt nam cũng phải đợc chuyển đổi cho phù hợp với các chính sách đổi mới kinh
tế. Tuy nhiên nó cũng có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng, mà cụ thể là tạo ra
những luồng chu chuyển vốn chảy vào và chảy ra khỏi nền kinh tế một cách nhanh chóng
và hiệu quả là làm cho tỷ giá của Việt Nam trở lên mất ổn định. Chỉ bằng cách hình thành
một chế độ điều hành tỷ giá mềm dẻo linh hoạt dựa trên một số các ngoại tệ có tính toán
kỹ đến quan hệ với thanh toán quốc tế, đầu t trực tiếp nớc ngoài, vay nợ nớc ngoài, dự trữ

ngoại tệ... thì nền kinh tế Việt Nam mới duy trì đợc sự ổn định bền vững.
Rõ ràng nếu xét theo định hớng lâu dài thì một chế độ điều hành tỷ giá nh hiện nay
của NHNN là bất hợp lý, không có tác dụng hỗ trợ đối với cán cân thanh toán tại Việt Nam.
Để có thể sửa đổi những vấn đề này thì một số mặt sau cần phải đợc giải quyết.
- Cần tôn trọng qui luật thị trờng hơn bằng cách từng bớc để thị trờng cân đối cung
cầu ngoại tệ và giá của ngoại tệ (tỷ giá). NHNN chỉ can thiệp vào thị trờng ngoại hối khi thị
trờng có những biến động tiêu cực do các hành vi đầu cơ tạo ra.
- Từng bớc tạo lộ trình cần thiết để tiến đến tự do hoá tài khoản vãng lai và tài khoản
vốn, và song song với quá trình này là việc chuyển đổi chế độ tỷ giá neo sang chế độ tỷ giá
thả nổi. Để thực hiện đợc các điều kiện trên thì phải có đợc một nền kinh tế đủ "mở" với thế
giới. Nói cách khác việc điều hành chế độ tỷ giá phải phù hợp với trình độ phát triển và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế.
- Tỷ giá ở Việt Nam thực sự là một chế độ bén vị đôla Mỹ, trong khi đó cơ cấu thanh
toán và đầu t nớc ngoài và nợ thì tỷ trọng đôla Mỹ không phải có một quyền số thống trị.
Nh vậy tỷ giá mà NHNN đặt ra cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay không phải là tỷ
giá thực. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một rổ tiền tệ hợp lý trên cơ sở mối quan hệ thơng
mại, đầu t và vay nợ.
- Việc phá giá tại Việt Nam cho đến nay vẫn cha tạo ra đợc những tác động hoá, các
cú sốc đối với cán cân thanh toán, bởi vì giữa tỷ giá và cán cân thanh toán có mối quan hệ
không chặt chẽ, nên những động thái trong việc thay đổi chính sách tỷ giá cha có đủ tiềm
lực và lực để tạo lên những vụ nổ lớn đối với cán cân thanh toán, và những tác động chỉ có
ý nghĩa trong một thời gian tơng đối ngắn.
- Bên cạnh việc thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, thì cũng cần phải có những chính
sách đồng bộ nh: thực hiện tự do hoá thơng mại, từng bớc hạ và xoá hàng rào thuế quan,
khuyến khích các ngành sản xuấta hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và hớng đến xuất
khẩu, lành mạnh hoá hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến thanh
toán quốc tế và kiểm soát các giao dịch ngoại tệ.

×