Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Đảng bộ quỳnh lưu với công tác xây dựng đảng trong giai đoạn 2005 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.44 KB, 35 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quỳnh Lưu là một huyện ở phía bắc tỉnh Nghệ An, nằm ở thế “Nam
Thanh - Bắc Nghệ”. Nơi đây với địa hình phong phú, đa dạng, có biển, có rừng,
giao thơng đi lại thuận tiện, nhân dân ở huyện Quỳnh Lưu sớm hình thành tình
cảm yêu quê hương, đất nước, cần cù, hiếu học, kiên cường đấu tranh vượt mọi
khó khăn thử thách để trường tồn và làm đẹp quê hương.
Đảng bộ Quỳnh Lưu - một tổ chức Đảng ra đời sớm, vinh dự cùng năm,
cùng tuổi với Đảng Cộng sản Việt Nam, từ những con em ưu tú sớm giác ngộ,
sớm giao lưu thời cuộc, trở thành những Đảng viên Cộng sản đầu tiên của
huyện, khơi ngòi nổ đấu tranh cách mạng. Các đồng chí đó đã kiên cường, bất
khuất vào tù ra tội, đổ máu hi sinh, đã đào tạo lớp Đảng viên chúng ta vào cuộc
chiến đấu liên tục qua nhiều thời kì, qua nhiều thử thách sống cịn, đối mặt với
nhiều kẻ thù tàn bạo, đi đến lãnh đạo nhân dân nổi lên cướp chính quyền sớm
nhất trong tỉnh và xây dựng xã hội mới.
Trong thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, bên cạnh những
ảnh hưởng tích cực thì có rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực đã làm suy thoái đạo
đức của một số cán bộ Đảng viên. Với lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền
của một số cán bộ Đảng viên đã làm nhân dân mất lịng tin vào Đảng. Vì vậy, là
một sinh viên chuyên ngành khoa Giáo dục Chính Trị, ý thức được vai trò và
tầm quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển Đảng. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, để giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế thì phải đặt
vấn đề xây dựng Đảng lên hàng đầu. Nên phải giữ cho Đảng ln trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức đảm bảo cho Đảng làm tròn trách
nhiệm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kì đổi mới.
Vì vậy, cùng với nhân dịp kỉ niệm 80 năm lịch sử Đảng bộ Quỳnh Lưu
và Đảng cộng sản Việt Nam, nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Đảng bộ
Quỳnh Lưu với công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn 2005 – 2010 ” làm
đề tài nghiên cứu cho mình với mong muốn đóng góp một phần nhỏ sự hiểu
1



biết của mình cho sự nghiệp xây dựng Đảng và phát triển kinh tế - Xã hội ở quê
hương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài :
Về vấn đề : “Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu và công tác xây dựng Đảng
trong giai đoạn (2005-2010)” cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu
chun sâu, và chỉ có trong cuốn sách về Quỳnh Lưu, ví dụ như :
a. Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (1930-2000)
b. Trong các báo cáo chính trị, các nghị quyết, các bản tổng kết của Đảng
uỷ cũng có đánh giá tình hình xây dựng Đảng hàng năm nhưng bằng dưới dạng
sơ lược.
3. Đối tượng nghiên cứu :
Tiểu luận “Đảng bộ Quỳnh Lưu với công tác xây dựng Đảng trong
giai đoạn (2005-2010)” nhằm đi sâu vào tìm hiểu về công tác xây dựng Đảng
bộ huyện Quỳnh Lưu trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Với lý do đó bài tiểu luận sẽ tập trung tìm hiểu những quan điểm lý luận
chung của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây
dựng Đảng, tiếp đó tiểu luận trình bày thực tiễn xây dựng Đảng ở huyện Quỳnh
Lưu trong giai đoạn 2005 – 2010
Cuối cùng tiểu luận sẽ trình bày một số phương hướng xây dựng Đảng
trong giai đoạn 2010 – 2015.
4. Phưong pháp nghiên cứu :
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài “Đảng bộ Quỳnh Lưu
với công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn (2005-2010)” tôi đã sử dụng các
phương pháp sau :
*Phương pháp logíc.
*Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu
*Phương pháp đối chiếu so sánh...
* Phương pháp toạ đàm, trao đổi với giáo viên hướng dẫn
5. Bố cục đề tài :

2


Ngồi phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung được chia làm hai
chương :
Chương I: Quan điểm, lý luận chung về công tác xây dựng Đảng
Chương II: Đảng bộ Quỳnh Lưu với công tác xây dựng Đảng trong giai
đoạn (2005-2010).

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM, LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐẢNG
1.1. Lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây
dựng Đảng
1.1.1. Lý luận Mác – Lênin về công tác xây dựng Đảng
Lý luận về Đảng cộng sản là một bộ phận cấu thành chủ nghĩa cộng sản
trong học thuyết Mác - Lênin. Học thuyết đó chỉ ra những quy luật về sự ra đời
của Đảng, những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nhằm cải tạo xã
hội cũ theo tinh thần cách mạng và xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.
Mác - Ănghen là người đầu tiên nêu lên những tư tưởng về Đảng cộng
sản. Hai ơng đã có những luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của giai
cấp vơ sản, là những người đầu tiên có những luận điểm khoa học về vai trò sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cách mạng thế giới.
Theo Mác - Ănghen, giai cấp cơng nhân có sứ mệnh là người đào mồ
chôn chủ nghĩa tư bản, là người sáng tạo ra xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Hai ông chỉ ra rằng : Giai cấp tư sản tạo ra những người

đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai
cấp vô sản là tất yếu như nhau ( Trích Tun Ngơn Đảng Cộng Sản,C.Mác và
Ph.Ănghen tồn tập, tập 4, tr 557, Nxb Chính Trị Quốc Gia ).
Thời kì C.Mác và Ph.Ănghen, do điều kiện và hồn cảnh lịch sử lúc bấy
giờ cịn nhiều hạn chế, các Đảng cộng sản chưa phát triển, nên hai ông chưa có
điều kiện nghiên cứu, xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về xây dựng Đảng.
Tuy vậy, trong khi nêu lên những quan điểm của giai cấp vô sản, C.Mác và
Ph.Ănghen cũng đã đặt cở sở xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Trong Tun Ngơn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ănghen đã trình
bày khơng những quan điểm lí luận chung, mà cịn nêu rõ mục đích, nhiệm vụ
của Đảng, những cơ sở của những chiến lược và sách lược đấu tranh cách
4


mạng. Đó là những một kiểu mẫu quan trọng trong xây dựng Đảng và trong
chính trị.
Về mặt tư tưởng, trong Tuyên Ngôn của Đảng cộng sản, hai ông đã xác
định rõ lập trường quan điểm của giai cấp vô sản, thẳng tay bác bỏ mọi tư
tưởng thù địch của hệ tư tưởng giai cấp vơ sản, bóc trần những quan điểm lí
luận của giai cấp tư sản. Hai ơng vạch trần tính chất sai lầm, dối trá của những
tư tưởng tư sản, phong kiến, tiểu tư sản, tôn giáo và những tư tưởng phản động
khoác áo xã hội chủ nghĩa ( Chương Văn hoá xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa ).
Những luận điểm chủ yếu của C.Mác và Ph.Ănghen về vấn đề xây dựng
đảng được thể hiện trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Dẫu chưa thể coi là
thật sự hoàn chỉnh, nhưng về cơ bản đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ sự phát
triển của phong trào công nhân quốc tế và chuẩn bị điều kiện cho việc tổ chức
hàng loạt Đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới. Với ý nghĩa đó Tun
Ngơn Đảng cộng sản, đúng như Lênin nhận định : “ Tinh thần của nó, đến bây
giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy tồn thể giai cấp vơ sản có tổ chức và đang chiến

đấu của thế giới văn minh ” [ Lênin (1974), Toàn tập, tập 2,Tr 10, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva.]
Lênin là người kế thừa và sáng tạo những luận điểm của Mác - Ănghen
về Đảng vô sản, xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về Đảng cách mạng của
giai cấp công nhân - Đảng của những người Bônsêvich Nga do Lênin sáng lập
là Đảng kiểu mới đầu tiên. Và Lênin ln nhắc nhở với các chính Đảng vơ sản
rằng : “Cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng
sản đã quan liêu hóa, khơng trung thực và những người men - sê – vích, tuy
“bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới, nhưng trong tâm hồn thì vẫn là
những người men – sê – vích” [ Lênin (1978), Tồn tập, tập 4,tr19 Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva ].
Lý luận xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin được xây dựng thành một hệ
thống lý luận hoàn chỉnh và chặt chẽ với nội dung cơ bản :
5


Một là : Theo Lênin mỗi Đảng mang tính chất của một giai cấp nhất
định. Chính Đảng ra đời trong xã hội có đấu tranh giai cấp phát triển đến một
trình độ nhất định, và chính Đảng là người lãnh đạo chính trị của một giai cấp.
Theo đó, Đảng Cộng sản xét về tính chất giai cấp đó là Đảng của giai cấp công
nhân, Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa khoa học và phong
trào công nhân.
Hai là : Lênin cho rằng : Cơ sở tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng là chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa đó là một hệ thống lý luận khoa học về
cách mạng, là kết quả của sự phát triển có tính quy luật của những tư tưởng tiên
tiến trong xã hội. Chủ nghĩa Mác có sức sống mãnh liệt bởi : Bản chất, linh hồn
sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể
Ba là : Về nguyên lý tổ chức của Đảng, Lênin chỉ ra rằng:
- Chỉ Đảng nào được lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm vai trò chiến sỹ tiên phong. Đảng giữ tiên phong trên lĩnh vực lý luận, tổ

chức, chính trị.
- Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong hệ thống các tổ chức chính trị
của nền chun chính vơ sản.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng.
- Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm
minh, tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển của Đảng.
- Đảng phải giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết
đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, chủ quan, xa rời thực tế,
xa rời quần chúng. Sự liên hệ quần chúng một cách chặt chẽ sẽ tạo nên một sức
mạnh trong Đảng.
- Đảng Cộng sản là Đảng của chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Đảng xây dựng
và tổ chức hoạt động trên nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng cách mạng
của giai cấp cơng nhân. Đảng phải làm trịn nhiệm vụ quốc tế của mình.
Đặc biệt, trong nhiệm vụ xây dựng các chính đảng vơ sản trở thành lực
lượng vững mạnh, lãnh tụ V.I. Lênin đã dạy chúng ta rằng “… Giai cấp vô sản
6


có thể trở thành – và tất nhiên sẻ trở thành – một lực lượng vơ địch, chỉ là vì
một lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở
những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của
tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai cấp
công nhân” [ Lênin, V.I (1978), Toàn tập, tập 17, tr.152, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva]
Học thuyết Mác - Lênin về xây dựng Đảng cách mạng của giai cấp cơng
nhân có một ý nghĩa vơ cùng to lớn. Thực tế lịch sử cho thấy khi Đảng của giai
cấp công nhân nắm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự
nghiệp cách mạng sẽ giành được thắng lợi. Còn ngược lại, khi Đảng vi phạm
những nguyên lý về Đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân thì Đảng đó sẽ
phạm sai lầm dẫn đến những khó khăn, thất bại cho cách mạng, thậm chí sẽ tiêu

vong. Cho đến nay, có thể khẳng định rằng khơng có một tư tưởng có thể thay
thế được học thuyết Mác - Lênin về Đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng và
rèn luyện Đảng ta thành một Đảng chân chính. Những luận điểm tư tưởng của
Người để lại là một hệ thống hoàn chỉnh và đúng đắn. Trong những hệ thống tư
tưởng đó có tư tưởng về xây dựng Đảng. Ngày nay, Đảng ta đang thực hiện
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng thực chất là thực hiện theo tư
tưởng vĩ đại của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng là sự vận dụng đúng đắn đầy
sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Khi
người đến thăm và nói chuyện với Hội nghị tổng kết cơng tác xây dựng chi bộ
“Bốn tốt”, trực tiếp giảng bài cho lớp huấn luyện Đảng viên mới, hàng năm đến
ngày kỉ niệm thành lập Đảng, người thường viết bài nhắc nhở cán bộ Đảng viên
về đạo đức cách mạng. Trả lời câu hỏi thế nào là chi bộ “Bốn tốt”, Người nói
tóm tắt là : Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc phải liên hệ chặt chẽ với
quần chúng, nội bộ thật đoàn kết ; chấp hành tốt đường lối chính sách của
7


Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu ; một lòng một dạ phục vụ nhân dân,
thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ; [Hồ Chí
Minh, tồn tập, tập 12 , trang 77, (1966-1969) xuất bản lần thứ 2, Nxb chính trị
quốc gia Hà Nội – 2000].
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, người Đảng viên tốt là người : ‘‘ không
được phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là suốt đời làm cách mạng phấn
đấu cho tổ quốc, hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản đến thắng lợi hoàn toàn trên tổ quốc ta và trên thế giới’’ ( Tr 93).
Theo Người, người Đảng viên tốt cịn phải có năng lực để hoàn tốt nhiệm vụ
sản xuất và chiến đấu. Muốn thế, người Đảng viên phải chịu khó học tập văn

hố, kĩ thuật và nghiệp vụ : ‘‘ làm nghề gì cũng phải học vậy làm cách mạng
cũng phải học’’ Người Đảng viên phải có đạo đức phải tự giáo dục hàng ngày
là người sống có tình nghĩa‘‘hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin là phải sống với nhau
có tình nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau khơng có tình nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin được’’ (tr 554).
Muốn tu dưỡng trở thành người Đảng viên tốt, chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ phải ‘‘ nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân’’, vì ‘‘do
cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn sa vào tham ơ, hủ hố lãng phí
xa hoa…cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tổ chức, tính kĩ
luật, kém tinh thần trách nhiệm,…làm hại đến đạo đức cách mạng của nhân
dân’’ (tr 438 - 439).
Từ rất sớm người nhắc nhở chúng ta ‘‘ một dân tộc, một Đảng và mỗi
con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn dược mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân ’’ ( Tr.557 – 558 ). Lời cảnh tỉnh
đó vẫn đang nóng hổi tính thời sự đối với chúng ta trong thách thức của cuộc
sống hôm nay. Theo Người, lấy “ gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo
dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng
các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới’’ ( Tr.550 ).
8


Theo chủ tịch Hồ Chí Minh để chỉnh đốn lại Đảng thì việc cần làm trước
tiên là “ làm cho mỗi Đảng viên, mỗi Đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
trịn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.
Làm được như vậy, thì cơng việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất
định thắng lợi ” ( Tr.503 )
Người ln nhấn mạnh đến các yếu tố chính trị - tinh thần để góp phần
mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam : Sự đồn kết nhất trí trong Đảng,
việc thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình, tình đồng chí u thương lẫn

nhau … Đặc biệt Người nhấn mạnh vai trị đạo đức cách mạng, vì “ Đảng ta là
một Đảng cầm quyền, mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân
dân ” ( Tr.498 )
Trong di chúc của người luôn thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với việc “
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau ” , người đề nghị Đảng và chính phủ
cần phải lựa chọn những người ưu tú trong số những chiến sỹ trẻ tuổi và thanh
niên xung phong, cử họ đi học để đào tạo họ thành đội quân chủ lực trong công
cuộc xây dựng thắng lợi Chủ nghĩa xã hội ở nước ta [ Hồ Chí Minh – tồn

tập, tập 12, Tr.504 ( 1966 – 1969 ) xuất bản lần thứ 2, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội – 2000]
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng được thể hiện trên ba
mặt : chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Về chính trị : Theo Hồ Chí Minh Đảng phải có đường lối chính trị đúng
đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống khó khăn và phức tạp,
bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai đoạn cách mạng khác nhau, Đảng phải kiên
định mục tiêu lâu dài, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời Đảng
phải có đường lối đúng đắn về biện pháp, tập hợp được lực lượng của tồn dân,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp
chiến thắng của cách mạng.
9


Đối với công tác tổ chức : Đảng phải là một tổ chức chính trị trong sạch
vững manh, một tổ chức chiến đáu kiên cường, khi đánh thì trăm người như
một. Đội ngũ cán bộ Đảng viên trong tổ chức phải ln tu dưỡng đạo đức, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, năng lực luôn nâng câo, cán bộ phải gắn bó
máu thịt với dân, giám hy sinh, xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và

của dân tộc, tổ chức Đảng phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, phải lấy việc
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ
Đảng và tồn Đảng.
Về tư tưởng : Đảng phải ln quán triệt tư tưởng chủ nghixa Mác –
Lênin về xây dựng Đảng. Tư tưởng cách mạng phải triệt để, tư tưởng cách
mạng tiến cơng, ln đề phịng và khắc phục kịp thời những sai lệch, chống cơ
hội xét lại, chống giáo điều bảo thủ, biết dự báo kịp thời mọi chiều hướng có
thể xẩy ra. Tư tưởng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng, lấy thực
tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo hịên thực Việt Nam làm mục tiêu
để vận dụng sáng tạo và phát triênr chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại để làm
những thắng lợi cho cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng,
là nhân tố quyết định thành bại cho cách mạng.
Từ khi Đảng ra đời cho đến nay, trải qua bao biến thiên của lịch sử, Đảng
ta vẫn đứng vững và lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự thắng lợi đó là do Đảng ta ln có chủ trương, đường lối đúng đắn dưới ánh
sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Người về xây dựng
Đảng.
Ngày nay, trước những đổi thay của thời cuộc, Đảng ta đang thực hiện
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng để xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng vẫn soi sáng cho Đảng ta trong công cuộc xây dựng Đảng hôm nay
và ngày mai.
10


1.2 Quan điểm của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ
đổi mới
Từ ngày ra đời, Đảng đạo nhân dân ta làm nên thằng lợi cách mạng

Tháng 8 năm 1945. Đảng ta từ đây trở thành Đảng cầm quyền, tiếp đến cuộc
kháng chiến thần thánh đánh Pháp và chống Mỹ gần 30 năm. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, dân tộc ta đã ghi vào lịch sử thời đại nhiều trang sử anh hùng của
một dân tộc trong thế kỷ XX.
Từ năm 1976, cả nước quá độ lên xã hội chủ nghĩa, Đảng ta lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng mới mẻ nhưng cũng không kém phần thử thách gian nan.
Cách mạng nước ta sau 10 năm (1976 - 1986) sự nghịêp quá độ lên xã hội chủ
nghĩa của nước ta đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đảng ta đã tìm nguyên
nhân để khắc phục, bản thân Đảng cũng nhìn lại mình một cách tồn diện và
nghiêm túc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986 của Đảng khởi xướng sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự nghiệp đổi mới một tất yếu đặt ra là Đảng phải đối mới trên các lĩnh
vực xây dựng Đảng. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội thứ VI, Đảng phải
đổi mới tư duy, dổi mới cán bộ, ban chấp hành Trung ương đã từng bước lần
lượt cụ thể hố.
Ngày 11/9/1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về cuộc vận động: Làm
trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước.
Cùng với những biến động phức tạp của tình hình trong nước và thế giới Ban
chấp hành Trung ương khoá VI đã triệu tập Hội nghị lần thứ mười ra Nghị
quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”. Hội nghị lần thứ mười của
Ban chấp hành Trung ương khoá VI đã thống nhất lại quan điểm có tính ngun
tắc trong sự nghiệp đổi mới mà thực chất là uốn nắn những lệch lạc trong nhận
thức, tư tưởng của một số cán bộ Đảng viên. Những quan điểm có tính chất
ngun tắc đó là: Đổi mới nhưng không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, đổi mới nhưng không phải là rời bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, đổi mới
phương thức tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ
11


xã hội chủ nghĩa. Phải xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị tư tưởng

và tổ chức để đủ sức lãnh đạo tồn dân vượt qua khó khăn thử thách, vươn lên
ngang tầm với những đòi hỏi rất cao của công cuộc đổi mới, thực hiện tốt việc
xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ mười khoá VI của Ban Chấp hành
Trung ương đã đề ra những nhiệm vụ về công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng
trên ba mặt: Tư tưởng – chính trị - tổ chức góp phần quyết định cho thắng lợi
kế hoạch 5 năm (1986-1990). Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII được
triệu tập vào tháng 6/1996. Một trong những bài học chủ yếu Đại hội rút ra là:
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng Đảng vẫn là nhiệm vụ then
chốt.
Nhằm thực hiện nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị BCHTW sáu ( lần 2 )
khố VIII của Đảng đã vạch rõ tính cấp bách của công tác xây dựng Đảng trong
giai đoạn hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp cơ bản chỉ đạo trong
nguyên tắc, nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng từ Trung ương
đến cơ sở đảm bảo cho Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng góp phần đưa sự
nghiệp đổi mới giành thắng lợi.

12


CHƯƠNG II: ĐẢNG BỘ HUYỆN QUỲNH LƯU VỚI CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN (2005-2010)
2.1. Công tác xây dựng Đảng ở Quỳnh Lưu trước năm 2005
2.1.1.Sơ lược về sự ra đời của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, mở
rộng chính sách xâm chiếm thuộc địa. Năm 1858, tại bờ biển Đà Nẵng, thực
dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược nước ta biến nước ta từ một nước phong
kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Đứng trước hồn cảnh đó, hồ cùng vào phong trào chống Pháp của cả
tỉnh Nghệ An và của cả nước, nhân dân Quỳnh Lưu đã đứng lên với khí thế bất

khuất trong hàng chục năm rịng để chống lại triều đình phong kiến và thực dân
Pháp.
Cùng với sự phát triển của phong trào yêu nước và dân chủ theo khuynh
hướng tư sản thì phong trào cơng nhân, nơng dân chống lại chế độ bóc lột của
địa chủ, thực dân lần lượt diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Song chưa có
một tổ chức cách mạng với đường lối đúng đắn, nên phong trào lần lượt bị thất
bại. Giữa lúc đường lối cứu nước đang khủng hoảng bế tắc thì năm 1920 tại
Đại hội Đảng xã hội Pháp họp ở Tua. Đảng cộng sản Pháp được thành lập và
Nguyễn Ái Quốc trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp và là người cộng
sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt
động của người. Từ đây các tổ chức yêu nước lần lượt ra đời.
Từ năm 1920 trở đi, Nguyễn Ái Quốc bước vào một q trình chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm
1925, với tư cách là cán bộ của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã lập ra tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiền thân của Đảng Công sản Việt
Nam tập hợp những thanh niên Việt Nam yêu nước để đào tạo, rèn luyện họ trở
về nước hoạt động. Một số được cử sang Liên Xô đê học tập.
Tại Trung Quốc, Hồ Học Lãm đã xuất dương sang và trở thành cơ sở
quan trọng của Nguyễn Ái Quốc và tổ chức thanh niên. Hồ Tùng Mậu cùng
13


một số người lập ra một tổ chức yêu nước Tâm Tâm Xã, tập hợp những người
Việt Nam yêu nước trên đất Trung Quốc. Hồ Tùng Mậu đã liên hệ đựơc với
Nguyễn Ái Quốc trở thành trợ thủ đắc lực của Người.
Năm 1926, Thái Văn Đắc, một đảng viên Tân Việt của Nghệ An (quê Hà
Tĩnh) ra dạy học trường tiểu học Quỳnh Lưu ở huyện lỵ Tiên Yên (nay là
Quỳnh Bá) đã liên hệ với một số người thành lập tổ chức Tân Việt đầu tiên ở
Quỳnh Lưu với những Đảng viên đầu tiên như : Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn
Nhật Tiến, Phạm Tam Phiệt...từ tổ chức này, địa bàn tuyên truyền hoạt động

của Tân Việt được mở rrộng và tác động đến tinh thần yêu nước của thanh niên.
Cuối năm 1928, ở Quỳnh Lưu có 8 cơ sở của Tân Việt với 28 đảng viên.
Từ năm 1927, tổ chức Thanh niên cũng đã có tổ chức ở Quỳnh Lưu do Dương
Đình Thuý, Nguyễn Hữu Giảng... liên lạc với Chu Trang, Chu Huệ là hai cán
bộ của tổ chức Thanh niên ở tổng Hoàng Trường (nay là Diễn Châu) về hoạt
động ở vùng Quỳnh Giang, Quỳnh Diễn, đứng ra tổ chức. Các cơ sở này đã
phát triển ra toàn huyện và đựơc huấn luyện thêm do có tài liệu ở trên gửi
xuống, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bắt đầu thâm nhập vào thanh niên. Số hội
viên của tổ chức này đến năm 1927 có hơn 20 người (ở xã Thượng Yên, Sơn
Hải, Quỳnh Đôi, Quỳnh Hồng, Quỳnh Phương..)
Như vậy, từ năm 1927 trở đi, ở Quỳnh Lưu có hai tổ chức cách mạng có
xu hướng cộng sản. Hai tổ chức này lập ra các tổ chức quần chúng : Thanh
niên, phụ nữ, nhóm khuyến học, nhóm cứu tế... để giáo dục, giác ngộ cách
mạng tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, vận động quần chúng ra đấu tranh.
Năm 1929, tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Bắc Kỳ đã cử
Nguyễn Phong Sắc, Trần Văn Cung vào Nghệ An liên lạc với Võ Mai để phát
triển cơ sở, sau đó đã lập ra Kỳ Bộ Đơng Dương Cộng sản Đảng ở Trung kỳ và
ra báo Bônsêvich.
Tháng 7/1929, Nguyễn Hữu Giảng ( Quỳnh Hồng) lãnh đạo các tổ chức
thanh niên ở huyện và Dương Văn Lan (Quỳnh Đôi) liên hệ được với tổ chức
Đông Dương Cộng sản Đảng ở Diễn Châu, đồng thời một số giáo viên đang
14


dạy học ở Thanh Hố và Nam Định cũng tìm cách liên lạc về quê để tiến tới
thành lập tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở huyện Quỳnh Lưu.
Công việc chuẩn bị đang được tiến hành khẩn trương thì ngày 21/8/1929,
Nguyễn Hữu Giảng và một số đồng chí khác bị bắt.
Ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng, Trung Quốc,Nguyễn Quốc thay mặt
Quốc tế Cộng sản chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam để

thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.Sau đó khơng lâu Đảng bộ ở tỉnh Nghệ An
cũng thành lập.Các sự liện này đã thúc đẩy mạnh mẽ 2 tổ chức cách mạng là
Tân Vitj và thanh niên ở Quỳnh Lưu đi đến thống nhất với nhau thành tổ chức
cộng sản.
Đầu năm 1930, Nguyễn Hữu Giảng ra khỏi tù liền bắt tay ngay vào việc
vận động thành lập Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu. Nguyễn Hữu Giảng đã liên lạc
với Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam ở Vinh và Diễn Châu. Đồng thời gặp
gỡ Nguyễn Đức Mậu, giáo viên,một trong những người lãnh đạo Tân Việt trước
đây ở Thanh Sơn (Sơn Hải) và Đào Quang, một người lãnh đạo tổ chức Thanh
niên trước đây ở Quỳnh Thuận để triệu tập những người trung kiên trong hai tổ
chức Thanh niên và Tân Việt ở huyện chuẩn bị mở Hội nghị thành lập Đảng bộ
Đảng Cộng Sản.
Ngày 20/4/1930, tại Thanh Sơn (Sơn Hải) đã diễn ra Hội nghị hai tổ
chức cách mạng của huyện. Hội nghị có thuận lợi là các thành viên tuy thuộc
hai tổ chức nhưng đều cùng một chí hướng và bạn bè của nhau. Sau khi nghe
thông báo về hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như việc thành lập Đảng bộ tỉnh Nghệ
An,Hội nghị quyết định thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện
Quỳnh Lưu.
Hội nghị thông qua phương hướng hoạt động của Đảng bộ. Ban chấp
hành lâm thời gồm 5 người :Nguyễn Đức Mậu (Bí thư) các uỷ viên : Nguyễn
Hữu Giảng, Đào Quang, Nguyễn Xuân Đào, Hoàng Văn Hợp, Hội nghị tán
thành tuyển chọn những ngươi ưu tú của hai tổ chức Tân Việt và Thanh niên để
15


kết nập vào Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị nhất trí ra tờ báo “Lao động”
để tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin cho Đảng viên và nhân dân, hướng dẫn
nhân dân chống chế độ thực dân- phong kiến.
Đầu tháng 5/1930, Huyện uỷ lâm thời Quỳnh Lưu đã họp dưới sự chủ trì

của bí thư Nguyễn Đức Mậu. Hội nghị quyết định xây dựng, củng cố và mở
rộng tổ chức Đảng ra tồn huyện, đẩy mạnh cơng tác tun truyền của Đảng và
hướng dẫn nhân dân đấu tranh, tuyển lựa những người tích cực để kết nạp vào
Đảng, đồng thời phân công từng uỷ viên về các địa bàn trong huyện thành lập
các chi bộ và chỉ đạo đấu tranh.
Sau Hội nghị, đồng chí Nguyễn Đức Mậu về vùng Sơn Hải, Quỳnh
Thuận,...tập hơp những chiến sĩ cách mạng ưu tú lập ra 2 chi bộ vào tháng
5/1930 vởi hơn 10 Đảng viên. Đồng chí Nguyễn Hữu Giảng về vùng Quỳnh
Yên, Quỳnh Hồng tổ chức được 2 chi bộ với 10 Đảng viên. Các đồng chí khác
đều toả về các xã kiên trì tổ chức thành lâpl chi bộ. Chỉ trong hơn một tháng,
huyện Quỳnh Lưu đã có 5 chi bộ Đảng với tổng số 41 Đảng viên.Vượt qua
nhiều khó khăn gian khổ, bất chấp sự rình rập của kẻ thù, nhất là bọn hương lý
ở làng xã, những đồng chí ban chầp hành lâm thời của Đảng bộ huyện đã xây
dựng đã xây dựng nhiều cơ sở Đảng ở những vùng trọng yếu. Những người
được kết nạp vào Đảng là những người ưu tú hầu hềt từ 2 tổ chức Thanh niên
và Tân Việt. Họ là những nhân tố tích cực thúc đẩy các phong trào chống đề
quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay nhân dân, xây
dựng chế độ mới để đi tới xã hội cộng sản.
Sự ra đời của Đảng bộ Quỳnh Lưu đã đánh dấu một bước ngoặt đối với
phong trào cách mạng của huyện : Từ đây các phong trào đấu tranh đúng
hướng theo con đường cách mạng mà lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã vạch ra.
Đồng thời, phong trào cách mạng của huyện được hồ chung khí thế và đóng
góp phần tích cực vào phong trào cách mạng của tỉnh Nghệ An và của cả nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

16


Đảng bộ Quỳnh Lưu ra đời đã ghi một mốc lớn về sự thống nhất ý chí và
hành động của những người yêu nước và cách mạng của huyện. Đây là hạt

nhân cho sự đoàn kết, thống nhất các lực lượng các tầng lớp nhân dân trong địa
bàn huyện nhằm đấu tranh vì mục tiêu chung: Giành độc lập, tự do cho tổ
quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
Sự thành lập Đảng bộ huyện đã tạo ra một sức mạnh mới cho các cuộc
đấu tranh của quần chúng nhân dân có tổ chức chặt chẽ hơn, kỹ luật hơn và với
phương pháp phù hợp hơn.
Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu là một trong những Đảng bộ ra đời sớm (chỉ
sau hơn 2 tháng kể từ khi Đảng cộng sản Việt Nam thành lập). Điều đó chứng
tỏ rằng, phong trào cách mạng ở huyện phát triển cao, điển hình là đã phát triển
được 2 tổ chức Thanh niển và Tân Việt – hai tổ chức tiền thân Đảng bộ của
huyện. Sự ra đời của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu ngày 20/4/1930 là kết quả
tổng hợp tất yếu của một quá trình đấu tranh bền bỉ, anh dũng của nhân dân
lao động, của quá trình chủ nghĩa Mác- Lênin truyền bá vào Quỳnh Lưu và
của ý thức nhanh nhạy , tinh thần đầy trách nhiệm của một số đồng chí trung
kiên trong hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt của huyện.
2.1.2. Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu với công tác xây dựng Đảng trước
năm 2005
Cũng như nhân dân cả nước và toàn tỉnh Nghệ An, cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, với truyền thống bất khuất, nhân dân Quỳnh Lưu đã liên tục đứng
lên hưởng ứng các phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ nhằm thực hiện mục
tiêu độc lập và dân cày có ruộng, song mọi cố gắng đó đều thất bại. Từ năm
1930, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, trực tiếp là của Đảng bộ huyện, nhân dân Quỳnh
Lưu từng bước đưa cuộc đấu tranh của mình đi đến thắng lợi, ước mơ nhân dân
dần trở thành hiện thực.
Dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ Trung Kỳ và tỉnh uỷ Nghệ An, hồ mình vào
khơng khí chung cả nước. Nhân dân Nghệ An đã đứng dậy chống thực dân
17



Pháp xâm lược trong giai đoạn từ năm 1945 – 1954. Quỳnh Lưu là một trong
những huyện giành được chính quyền rất sớm, sớm 2 ngày so với thủ đô Hà
Nội ( ngày 19/8/1945 ) và sớm 4 ngày so với tỉnh lị Vinh ( 21/8/1945 )
Với sự thắng lợi đó nhân dân Quỳnh Lưu đã bước vào thời kỳ mới đi lên
Chủ Nghĩa xã hội. trong thời kỳ từ năm 1945 – 1954 nhân dân Quỳnh Lưu đã
bảo vệ vững chắc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hậu phương, góp phần xứng
đáng vào thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
Tiếp nối những chặng đường lịch sử vẻ vang trước đó, trong thời kỳ
1954 – 2000 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Lưu đã phấn đấu
mạnh mẽ, liên tục đạt được nhiều kỳ tích mới trong cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ quê hương.
Trong những năm 1954 – 1965, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã lãnh đạo
nhân dân ra sức tranh thủ điều kiện hồ bình, hàn gắn vết thương chiến tranh,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ
nghĩa xã hội, với nhiều kết quả mới, làm cho bộ mặt huyện có nhiều chuyển
biến sâu sắc trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh,
quốc phòng.
Đặc biệt là những năm 1965 – 1975, Quỳnh Lưu đã nỗ lực xây dựng
kinh tế, phát triển văn hố kiên cường đánh trả khơng qn, hải qn Mỹ, bảo
đảm giao thông vận tải, chi viện to lớn sức người sức của cho tiền tuyến, góp
phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ Quốc
Đất nước thống nhất, với 4.470 liệt sỹ; thương - bệnh binh 3.326 người;
trong đó (98 thương bệnh binh nặng); 67.000 tham gia lực lượng vũ trang, điều
động hàng nghìn người đi thanh niên xung phong, dân công; đã được Đảng và
Nhà nước tặng 15.500 huân chương các loại; trong đó 10 tập thể và 15 cá nhân
đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang,

18



123 bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Các số liệu trên thể hiện cống hiến của Đảng
bộ và nhân dân huyện Quỳnh Lưu cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Thời kỳ 1975 – 1985 cùng với nhân dân cả nước, trong phạm vi một
huyện của tỉnh Nghệ An nhân dân Quỳnh Lưu đã hăng hái tiến lên sản xuất lớn,
xây dựng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những khó khăn trong sản xuất và đời
sống nhân dân do cơ chế quan liêu bao cấp gây ra.
Thời kỳ 1986 – 1996 Đảng bộ lãnh đạo nhân dân ra sức giữ vững chính
trị, tiến hành cơng cuộc đổi mới, xố bỏ cơ chế kế họach hoá tập trung, quan
liêu bao cấp, hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước đưa
Quỳnh Lưu ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ năm 1996 đến nay, trong điều kiện lịch sử mới, cán bộ, Đảng viên và
nhân dân Quỳnh Lưu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên giành
những thành tựu to lớn về mọi mặt, đưa sự nghiệp xây dựng quê hương tiến lên
vững chắc. Đặc biệt là cuối thế kỷ XX đã tạo được một số mặt đột phá quan
trọng, tạo dựng cơ sở vật chất và tiềm lực kinh tế - xã hội, kinh nghiệm lãnh
đạo của Đảng bộ để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, từng
bước đưa Quỳnh Lưu thoát khỏi huyện nghèo để vượt lên thành huyện giàu
mạnh của tỉnh.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đó Quỳnh Lưu vẫn cịn những tồn
tại, yếu kém và tổn thất, hy sinh do thiên tai, chiến tranh, cùng với những trận
bão, lụt, hạn hán triền miên, gây nên những tổn thất nặng nề về kinh tế - xã hội.
Là những lối sống theo đồng tiền, chạy theo lợi ích trước mắt, những tư tưởng,
phong tục tập quán bảo thủ, lạc hậu níu kéo sự tiến bộ của xã hội; là cơ chế
quản lý kinh tế quan liêu bao cấp kéo dài, hạn chế sự sáng tạo và ý chí làm chủ
của người lao động, là những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị
trường.
Khơng coi nhẹ những khó khăn hạn chế và cả những sai lầm, không lãng

quên những tổn thất, mất mát, hy sinh, song với những thắng lợi, những thành
19


tựu nổi bật lên trong chiều dài lịch sử 80 năm đó, khẳng định rằng, con đường
mà nhân dân Quỳnh Lưu đã đi qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện từ năm
1930 đến nay là đúng đắn và vẻ vang. Tiếp nối sự nghiệp đó, trong chặng
đường tới, Quỳnh Lưu sẽ vượt qua những trở ngại, vươn lên tầm cao mới, xứng
đáng với truyền thống, là Đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh của Đảng bộ
Nghệ An trong thời kỳ thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố q
hương.
2.2. Cơng tác xây dựng Đảng ở huyện Quỳnh Lưu trong giai đoạn
( 2005 – 2010 )
Xây dựng chỉnh đốn Đảng là vấn đề có ý nghĩa then chốt và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho Đảng vững mạnh, trong
sạch, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng. Nhận thức được vai trị và tầm
quan trọng đó, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã biết quán triệt đường lối, chủ
trương các quan điểm của Đảng nhằm xây dựng Đảng bộ Quỳnh Lưu thành
một Đảng bộ mạnh, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, lãnh
đạo thành công sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở huyện Quỳnh Lưu.
Nhằm xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
trong giai đoạn mới. Thực hiện hiệu quả cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng và tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng củng cố lịng tin trong
nhân dân, cơng tác xây dựng Đảng được xúc tiến mạnh mẽ. Trong những năm
2005 – 2010, công tác xây dựng Đảng được thực hiện một cách sâu sắc, toàn
diện trên nhiều lĩnh vực.
Ngày 16/7/2010 Đại hội Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XXVI,
nhiệm kỳ 2010-2015 đã kiểm điểm công tác thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ khoá XXV, nhiệm kỳ 2005-2010:
2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị tư tưởng:

Chủ động nắm bắt thơng tin và dư luận xã hội các tài liệu ngồi luồng và
có biện pháp xử lý kịp thời hơn, nên đã góp phần định hướng tư tưởng trong
cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Quán triệt, triển khai chủ trương Nghị Quyết
20


của Đảng nghiêm túc, chất lượng, gắn việc thảo luận viết thu hoạch cá nhân với
góp ý xây dựng chương trình hành động và kiểm tra, sơ tổng kết. Tổ chức triển
khai có kết quả “cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, sinh hoạt thời sự ở huyện và hầu hết cơ sở đảm bảo chất lượng bản tin
Quỳnh Lưu ra đều kỳ và có bước cải tiến về chất lượng. Đã xây dựng được
trang thông tin điện tử “Quynhluuonline.com.vn” nhằm tăng cường thông tin,
tuyên truyền và giới thiệu hình ảnh của huyện đến bạn đọc. Chỉ đạo biên soạn
lịch sử truyền thống của các Đảng bộ xã, thị trấn, các cơ quan, các đơn vị; tổ
chức tốt việc tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện trọng đại của đất
nước, của huyện. Công tác tư tưởng đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của
huyện và ngày càng được coi trọng và tăng cường, đã góp phần quan trọng xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, khẳng định và bảo vệ đường lối của Đảng và
Nhà nước, từ đó tiếp tục củng cố sự thống nhất trong toàn Đảng bộ và sự đồng
thuận trong xã hội.
2.2.2. Công tác tổ chức:
Bộ máy cán bộ các cấp được củng cố, kiện toàn và thay thế kịp thời.
Thành lập các tổ chức cơ sở tạo chuyển biến rõ nét, nhiều Đảng bộ yếu kém,
khó khăn vươn lên vững mạnh. Chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống chính trị
ở vùng đặc thù, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ được tăng cường.
Đã thành lập mới 12 chi bộ ở nông thôn, tiếp nhận 04 chi bộ từ Đảng bộ doanh
nghiệp và Đảng bộ Bưu điện tỉnh Nghệ An chuyển về. Phân loại tổ chức Đảng
2009: 76 tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đạt 73.8%, 08 cơ sở tổ
chức hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 7.8%; 19 đơn vị hồn thành nhiệm vụ
chiếm 18.4%.

Cơng tác đào tạo, quy hoạch bồi dưỡng cán bộ được thực hiện nghiêm
túc nề nếp. Đã xây dựng quy hoạch cán bộ A1, A2, A3 giai đoạn 2010- 2015,
cử đi đào tạo trung cấp, cử nhân chính trị và trung cấp, đại học chuyên môn.
Thạc sỹ ở tỉnh và Trung ương là 17 đồng chí và tồn huyện là 536 đồng chí, tổ
chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, lý luận chính trị cho trên 80.000 lượt học
21


viên. Đến năm 2010 bình qn mỗi xã đã có 7,02 cán bộ có trình độ đại học; đã
điều động 12 đồng chí ( trong đó có 3 đồng chí xuống cơ sở, 6 đồng chí từ sở
lên huyện. Trình độ, năng lực, trách nhiệm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ
được giao. Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ gắn với kiểm tra, nhận xét,
phân loại nên nhận thức tinh thần trách nhiệm của Đảng viên có nhiều tiến bộ,
phân loại Đảng viên năm 2009: đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ 79,9%; Đã kết
nạp được 2113 Đảng viên; bình quân mỗi năm kết nạp được 528 Đảng viên /
719 chi bộ đạt 77%. Thực hiện tương đối tốt cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ.
2.2.3 Cơng tác kiểm tra, giám sát
Thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và Uỷ ban kiểm
tra, tập trung kiểm tra những vấn đề trọng tâm, trong điểm, bức xúc như: quản
lý đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản, công tác tổ chức cán bộ. Trong nhiệm kỳ
cấp uỷ huyện và cơ sở đã kiểm tra được 963 lượt Đảng viên và 1407 lượt tổ
chức Đảng. Trong đó, ban thường vụ huyện kiểm tra 76 Đảng viên, 85 tổ chức,
cấp uỷ cơ sở kiểm tra được 887 Đảng viên, 1.322 tổ chức. Sau kiểm tra đã xử
lý kỷ luật 11 tổ chức Đảng, ( trong đó cảnh cáo 4, khiển trách 7, tiến hành kỷ
luật 287 Đảng viên trong đó khiển trách 96, cảnh cáo 109, cách chức 14 và khai
trừ 68 Đảng viên).
Ban Thường vụ huyện đã phân cơng các đồng chí Uỷ viên Ban thường
vụ, cấp uỷ viên chịu trách nhiệm giám sát đơn vị được phân công phụ trách. Từ
năm 2007 đến nay, đã giám sát được 262 tổ chức cơ sở Đảng, 9 phòng, ban cấp
huyện và 202 Đảng viên ( Trong đó cấp huyện giám sát 36 tổ chức và 16 Đảng

viên, cấp uỷ cơ sở giám sát 235 tổ chức và 186 Đảng viên). Đồng thời, triển
khai giám sát chuyên đề đối với 28 tổ chức Đảng và 24 Đảng viên trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chỉ thị, Nghị quyết, chính sách pháp luật
của nhà nước, việc triển khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Kết luận của cuộc kiểm tra được thực hiện, hiệu lực các cuộc kiểm tra
giám sát tốt hơn.

22


Uỷ ban kiểm tra các cấp đã tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ
chức Đảng và Đảng viên, xử lý vi phạm sau khi thanh tra, kiểm tra. Làm tốt
công tác kiểm tra các tổ chức Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kiểm tra thu chi Đảng phí, giải quyết đơn thư khiếu tố của Đảng viên, từ đó
ý thức trách nhiệm, tính kỷ cương, kỷ luật, lề lối, tác phong làm việc của cán
bộ, Đảng viên được nâng lên, số vụ việc, số cán bộ, Đảng viên vi phạm giảm
đáng kể.
2.2.4 Công tác dân vận
Có nhiều chủ trương về cơng tác dân vận hợp lịng dân nhất là cơng tác
vận động đồng bào có đạo, đồng bào dân tộc thiểu số nên đã khơi dậy được
phong trào cách mạng quần chúng thường xuyên, đều khắp. Việc quán triệt
triển khai thực hiện sơ kết các chủ trương, nghị quyết về công tác dân vận được
tổ chức kịp thời, công tác vận động quần chúng đã thực sự bám công việc
hướng về địa bàn dân cư, đi vào từng gia đình, từng đối tượng với nội dung
trọng tâm là hướng dẫn nhân dân sản xuất, xây dựng đời sống mới, thực hiện
theo cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
và thực hiện quy chế dân chủ. Cấp uỷ, chính quyền các cấp gắn với nhiệm vụ
kinh tế - xã hội đã thực sự đầu tư, chăm lo và có nhiều biện pháp vận động để
nhân dân tự giác, sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Phong trào tồn dân ra qn
làm giao thơng thủy lợi ngày 15 và 16 hàng năm được đảm bảo, duy trì chất

lượng. Đặc biệt, phong trào giúp đồng bào dân tộc xoá nhà tranh tre dột nát,
xây nhà văn hoá, xây dựng lưới điện sinh hoạt cho nhân dân đã có ý nghĩa kinh
tế - chính trị sâu sắc. Đồng thời, đã thực hiện xuất sắc các cuộc ủng hộ do tỉnh
và Trung ương phát động, cuộc vận động giúp đỡ gia đình nghèo, đơn vị khó
khăn theo kế hoạch 47/KH của ban chỉ đạo huyện. Phong trào thi đua “ Dân
vận khéo” được quan tâm triển khai thực hiện có hiệu quả, đã xây dựng được
4.100 mơ hình điển hình trên các lĩnh vực. Cơng tác dân vận của chính quyền
chuyển biến tốt.

23


2.2.5.Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tổ chức thực hiện kịp thời có hiệu quả cuộc vận động “ Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo được chuyển biến tích cực về
nhận thức và hành động trong cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, đồn thể các cấp nhận thức ngày càng đúng đắn hơn mục
đích, yêu cầu và sự cần thiết thực hiện cuộc vận động. Từ đó đã tăng cường
hơn công tác xây dựng Đảng, xây dựng đạo đức, lối sống cán bộ, Đảng viên và
xây dựng nền tảng đạo đức xã hội; cơng tác phịng chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí có nhiều chuyển biến; cán bộ Đảng viên, đoàn
viên, hội viên tự giác đăng ký làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nên
tạo sự chuyển biến nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đoàn kết trong
Đảng bộ và đội ngũ cán bộ các cấp, tạo sự nhất trí, đồng thuận trong các tầng
lớp nhân dân, sức phấn đấu vượt qua những khó khăn, thách thức, hồn thành
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Có được những thành tích và kết quả trong nhiệm kỳ 2005 - 2010 là nhờ
vào sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp thường xuyên của Tỉnh uỷ, Hội
đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh; sự hỗ trợ giúp đỡ có hiệu quả của các ban
ngành cấp tỉnh và trung ương. Các cấp uỷ Đảng đã phát huy được vai trò lãnh

đạo trước yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ năng động, đoàn kết thống nhất cao;
nhanh nhạy nắm bắt và vận dụng đúng đắn các Nghị quyết, chỉ thị cấp trên và
đề ra các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp kịp thời, hữu hiệu. Cấp uỷ Đảng,
chính quyền các cấp đã tăng cường chỉ đạo và thực hiện các chương trình trọng
tâm, nghị quyết Đại hội, sớm cụ thể hoá và ban hành các đế án, chương trình
hành động cụ thể sát với điều kiện cụ thể để tổ chức thực hiện. Nhân dân cần
cụ, nhạy bén, sáng tạo phát huy được truyền thống cách mạng, văn hoá trong sự
nghiệp xây dựng và đổi mới quê hương. Bên cạnh những thành tựu đạt được
trong công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ 2005 – 2010, Đảng bộ Quỳnh Lưu cịn
có nhiều hạn chế cần khắc phục. Những hạn chế đó được thể hiện trên một số
nét như sau:
24


Một là: Cơng tác lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền một số lĩnh vực chưa
quyết liệt. Phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của một số cấp uỷ, chính
quyền cơ sở đang nặng về hành chính, thiếu cụ thể hoá và kiên quyết, chưa theo
kịp với yêu cầu phát triển.
Hai là: Một số cán bộ các phòng, ban ngành cấp huyện hạn chế về năng
lực, trách nhiệm, tác phong, lề lối làm việc chậm đổi mới, chưa thực sự bám
việc và sâu sát với cơ sở. Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, kinh doanh
giỏi, năng động, có kinh nghiệm đáp ứng với cơ chế thị trường nhất là cán bộ
quản lý doanh nghiệp.
Ba là: Một số cấp uỷ chưa thật sự quan tâm công tác chăm lo tư tưởng,
quản lý cán bộ chưa tốt. Một số cán bộ thiếu tinh thần phấn đấu trong học tập
rèn luyện, trong đổi mới phương pháp công tác, bảo thủ, chủ quan.
Bốn là: Công tác phát triển Đảng viên, quản lý Đảng viên ở một số cơ sở
chưa được quan tâm đúng mức, còn nặng về số lượng. Tinh thần phê bình và
phê bình cịn hạn chế và năng nề.
Năm là: Một số cơ sở Đảng chưa thật chủ động trong việc giải quyết

những vấn đề bức xúc mà quần chúng nhân dân đang địi hỏi, cịn có biểu hiện
tránh né, đùn đẩy.
.

25


×