Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đường lối xây dựng chính trị của đảng giai đoạn 1996 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.22 KB, 18 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành tốt đề tài , tơi xin chân thành cảm ơn giảng viên.
TS. Nguyễn Văn Trung người đã trực tiếp hướng dẫn tôi từ lúc nhận đề
tài cho đến khi hoàn thành.
Tuy nhiên, do hạn chế nguồn tài liệu, cũng như khả năng tìm hiểu nghiên
cứu của bản thân nên khi thực hiện đề tài sẽ khơng tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Kính mong sự chỉ dẫn, góp ý xây dựng của thầy để đề tài được hồn
chỉnh hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc thầy dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp cao quý.

Em xin chân thành cảm ơn !

Sinh viên

Lê Hữu Huề

1


A. MỞ ĐẦU

1 ,Lý do chon đề tài.
Xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan của
công cuộc đổi mới. Ngày từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã
chủ trương: “ Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi
mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” nhằm từng bước
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. giới
trong thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp khó lường và có


những vấn đề cấp bách phức tạp xẩy ra đứng trước tình hình đó .Đảng và nhà
nước ln chú trọng vạch ra đường lối xây dựng chính trị để đáp ứng cho tình
hình mới. tiếp tục phát triển đưa đất nước ngày càng phát triển.tạo ra một hệ
thống chính tri ổn định về mọi mặt đưa đất nước ngày càng đi lên,chính trị là
nịng cốt định hướng cho phát triển kinh tế xã hội.
Thế kỷ XXI đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng nhiều
thách thức.vì thế xây dựng một hệ thống chính tri hồn chỉnh nước ta đã có
nhửng bước phát triển vượt bậc trên nhiều lỉnh vực chính tri khinh tế văn hóa.
Chúng ta có lợi thế rất lớn, tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Tuy nhiên
chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và phức tạp,cần phải có sự đồn
kết của tồn đảng tồn dân cả hệ thống chính tri và sự đồn kết của toàn dân tộc
với mục tiêu xây dựng một nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mục đích cơ
bản là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ văn minh, Đảng và Nhà
nước Việt Nam tiếp tục xây dựng đường lối chính tri độc lập, tự chủ, Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới vì
hịa bình cùng hợp tác phát triển mổi bên đều có lợi.tuy nhiên tình hình chính trị
xã hội ngày càng phúc tạp,tệ nạn xã hội ngày càng tăng nguy cơ đói nghèo, tụt

2


hậu ngày càng cao.Trước tình hình đó đảng và nhà nươc phải khơng ngừng đổi
mới để đáp ứng tình hình của đất nước ổn định và phát triển. Việt Nam nổ lực
phat triển tạo được lòng tin của nhân dân vào sự lảnh đạo của đảng bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị
ở Việt Nam cho thấy đây là một quá trình đầy gian nan, thử thách và xung đột
giữa những lề thói cũ với những cái mới. Song để đưa đất nước vượt qua thời kỳ
khủng hoảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì, từng bước đổi mới hệ thống
chính trị, giữ vững nguyên tắc, vững vàng đối phó với những xu hướng nóng
vội, sao chép rập khn máy móc mơ hình của nước ngồi, giữ vững quyền lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, duy trì sự ổn định của đất nước.
Qua quá trình xây dựng và đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam đã và đang phát triển theo
hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
quyền lực của các cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của các cơ quan
nhà nước, củng cố Đảng , bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát
huy bản sắc dân tộc .Qua đó ta thấy được vai trị quan trọng và cần thiết của
việc xây dựng đường lối chính tri của đảng giai đoạn 1996 đến naỵ đó là lý do
tôi chon đề tài.” Đường lối xây dựng chính trị của đảng giai đoạn 1996 đến
nay " nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn sáng tạo của Đảng sau gần 20
năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cập nhật những vấn đề lý luận đặt
ra hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng
- Quá trình nhận thức và xác định đường lơi xây dựng chính tri của Đảng
từ 1996 đến nay.
-Việc thực hiện chủ trương xây dựng chính trị của Đảng trong giai đoạn
này.

3


- Kinh nghiệm lịch sử của Đảng trong việc xác định đường chính trị và tổ
chức triển khai thực hiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Bối cảnh quốc tế và trong nước, trong đó có chiến lược của các nuớc lớn
ảnh hưởng đến q trình xây dựng đường lối chính tri của Đảng trong giai đoạn
1996 đến nay.
- Việc thực hiện đường lối xây dựng chính trị và những thành cơng bước
đầu trong q trình thực hiện.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài có mục đích:
Thơng qua q trình xác định đường lối chính tri. Đổi mới tồn diện đất
nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách cho phù
hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập với cộng đồng quốc tế
vì hồ bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
- Từ mục đích đó bài tập có nhiệm vụ:
+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự hình thành đường lối xây dựng chính
trị theo đường lối đổi mới
+ Trình bày giai đoạn phát triển của đường lối xây dựng hệ thống chinh
trị, cái mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách của đất
nước 1996 đến nay.
+ Thơng qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ
trương "độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá" quan hệ quốc tế là quyết
sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm
thực hiện đường lối chính trị năm 1996.

4


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài lấy cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.Theo phương pháp luận sử học, đồng
thời dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với
so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật những thắng lợi trong đường lối xây dựng
chính trị của Đảng gần 20 năm qua.
5. Kết cấu của đề tài
A. Mở đầu.

B. Nội dung
Chương 1: Khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới xây
dựng hệ thống chính trị
1.1.

Khái niệm

1.2.

Cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương 2:
2.1. Quá trình hình thành đường lối xây dựng chính trị của Đảng giai đoạn
1996 đến nay.
C. Kết luận.
D. Danh mục tham khảo.
6. Tên đề tài : Đường lối xây dựng chính trị của Đảng giai đoạn 1996
đến nay.

5


B. NỘI DUNG
Chương 1.
Khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới xây dựng hệ
thống chính trị
1.1.khái niệm.
Chính trị là “những vấn đề về tổ chức và điểu khiển bộ máy nhà nước
trong nội bộ một nước và quan hệ về mặt nhà nước giữa các nước với nhau. Nó
bao hàm các vấn đề về chế độ nhà nước, quản lý đát nước, lãnh đạo các giai cấp,

đấu tranh đảng phái… Những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ
qua lại của các giai cấp biểu hiện ra trong chính trị.
Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các
mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của
toàn xã hội. Đây là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Thực chất, chính trị là mối
quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên
trong xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung
(quyền lực xã hội), gọi là quyền lực chính trị.
Trong các cơng việc chung của xã hội thì cơng việc của nhà nước chiếm
vị trí quan trọng hàng đầu. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế ln
ln muốn giành lấy vai trị thực hiện các cơng việc chung để xác lập và duy trì
địa vị thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho
rằng, thực chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay
quanh vấn đề giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, chính trị khơng chỉ bao gồm các công việc của nhà nước. Xã
hội muốn tồn tại và phát triển thì cịn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải quyết
như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các phương án
giải quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp nắm quyền...
Vì vậy, bên cạnh nhà nước trong xã hội còn tồn tại các tổ chức chính trị khác
6


Hệ thống chính trị ,là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội
bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị bao gồm tồn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để
thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.Trong chế độ dân
chủ, các thành viên của xã hội cũng như các tổ chức xã hội đều được tham gia ở

mức độ nhất định hoạt động chính trị. Nhưng khơng phải vì thế mà các tổ chức
xã hội đó đều được gọi là các tổ chức chính trị. Chỉ những tổ chức được lập ra
chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị thì mới gọi là tổ chức chính trị. Tổ chức
chính trị có thể thực hiện các hoạt động khác nhưng đó khơng phải nhiệm vụ cơ
bản của nó.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực
hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định.Hệ thống chính
trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các
đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã
hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai
cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, nhà nước
nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống
chính trị mang bản chất giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực
chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống
chính trị.

7


1.2.Cơ sở lý luận và thực tiễn
Việc xây dựng và đổi mới chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ trước
hết phải xuất phát từ tính chất xã hội của con đường phát triển đất nước mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
đổi mới chính trị là nhằm tạo ra sự phù hợp của hệ thống chính trị với sự lựa
chọn chính trị về con đường phát triển của đất nước. Sự đổi mới đó sẽ làm cho
hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoạt động
có hiệu quả, bảo đảm cho sự lựa chọn con đường phát triển của đất nước đi đến

thắng lợi. Đây cũng chính là điều kiện bảo đảm nền tảng của tư tưởng đổi mới ở
nước ta là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm có tính
ngun tắc việc vận dụng phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Xây dựng chính trị ở
nước ta, do đó, xuất phát từ thực tiễn của hệ thống chính trị đã tỏ ra yếu kém,
khơng đáp ứng được yêu cầu của cách mạng. Những phân tích, đánh giá một
cách khách quan, chi tiết về những yếu kém đó được Đảng ta dựa trên cơ sở
Thực tiễn cách mạng địi hỏi mà hệ thống chính trị khơng đáp ứng được thì phải
xem lại những yếu kém trong hệ thống chính trị. Vấn đề này thuộc về sự vận
dụng của Đảng ta trong việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn. Đảng ta đã:
Thẳng thắn thừa nhận rằng, trước những biến động và thử thách của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động tư tưởng và tổ chức của Đảng đã
không theo kịp yêu cầu của cách mạng. Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn
nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới cơng tác cán bộ... Phong cách lãnh đạo và lề lối
làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói khơng đi đơi với việc làm... Về
mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đồn thể
phình ra quá lớn, chồng chéo và phân tán.
Như vậy, để đi đến quyết định xây dựng và đổi mới chính trị ở nước ta,
Đảng ta biết lấy lấy cơ sơ lý luân và thực tiển làm nền tảng, đó là địi hỏi tất yếu
của cơng cuộc xây dựng. Để giải đáp được câu hỏi đó phải có cái nhìn tồn diện,

8


cụ thể trên cơ sở thực tiễn của hệ thống chính trị, đồng thời phải tránh thái độ
nơn nóng lẫn sự trì trệ trong quá trình xem xét vấn đề.Chủ trương của Đảng ta
về xây dựng và đổi mới toàn diện hệ thống chính trị của nước ta là quyết định
duy nhất đúng đắn. Quyết định đó phản ánh đúng thực trạng cần đổi mới của
tồn bộ hệ thống chính trị. Xây dựng tồn diện hệ thống chính trị cịn bao gồm
đổi mới từ tổ chức, phong cách, lề lối làm việc... nhằm làm cho các bộ phận cấu

thành hệ thống chính trị nói riêng và tồn bộ hệ thống chính trị nói chung hoạt
động có hiệu quả, đáp ứng sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhưng với tư cách là hạt nhân của hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh
đạo hệ thống chính trị thì mỗi sự đổi mới của Đảng đều trực tiếp chi phối đến
các bộ phận cịn lại của hệ thống chính trị. Hơn nữa, với tư cách là đội tiên
phong của cách mạng, xây dựng và đổi mới của Đảng xét về mặt nguyên tắc,
Đảng phải tiên phong trong việc tự đổi mới, chỉnh đốn mình, làm cơ sở cho
Đảng lãnh đạo đổi mới nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.Đổi mới chính
trị ở nước ta khơng phải chỉ dừng lại ở chỗ để hệ thống chính trị vận hành tốt
hơn, mà mục đích cao cả của nó được quy định bởi lý tưởng của Đảng ta là vì
hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, xây dựng chính trị ở nước ta phải làm thế nào
để một là, nhân dân tự giác tham gia hoạt động đó. "Chính trị phải là việc của
nhân dân" Cũng bởi vì: "Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con
người". Hai là, để nhân dân thực sự phát huy quyền dân chủ của mình, trở thành
người chủ của mọi quá trình xã hội. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bởi sự
lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng chính trị ở nước ta, do đó, then chốt là đổi mới, chỉnh đốn về
phương thức tổ chức và hoạt động của Đảng nhằm làm cho Đảng đáp ứng được
vai trò lãnh đạo của sự nghiệp đổi mới đất nước, tăng cường hiệu lực nhà nước,
phát huy quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân, từng bước xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã
hội.Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, hệ thống chính

9


trị bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác của
nhân dân.Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị
đó có chức năng cơ bản là thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng

xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, từng bước hình thành
và hồn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản của nó là: Tồn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.Tập trung ở những
điểm sau đây:
Phải nắm vững tính chất giai cấp cơng nhân của chế độ chính trị, của nhà
nước và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Do đó, phải giữ vững vai trị lãnh
đạo của Đảng đối với tồn xã hội nói chung và đối với hệ thống chính trị nói
riêng.
Xây dựng chính trị, do đó phải làm thế nào để có một hệ thống chính trị
phát triển, phù hợp với yêu cầu của đổi mới và trở thành động lực quan trọng
của sự phát triển đất nước, khơng giáo điều, khơng xơ cứng, trì trệ và bảo thủ.
Cũng do đó, đổi mới chính trị của nước ta phải thể hiện được tinh thần của
Lênin về vấn đề này, tập trung ở chỗ:
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
- Chính trị do kinh tế quyết định, nhưng đồng thời chính trị khơng thể
khơng giữ vị trí hàng đầu, là phương hướng dẫn dắt kinh tế.
- Chính trị là số phận của hàng triệu quần chúng, là sự nghiệp do chính
quần chúng xây dựng và thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.Đối với
nước ta hiện nay, đổi mới chính trị phải đi đôi với bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta . Xây dựng chính trị ở nước ta, thực chất là làm thế nào để quyền lực
nhà nước thực sự thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Muốn vậy, phải có cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia vào công việc
tổ chức, quản lý các công việc của nhà nước, làm cho quyền lực của nhân dân
10


được thực hiện thông qua nhà nước và thông qua các tổ chức chính trị-xã hội
của họ.
Xây dựng và tăng cường hệ thống chính trị phải được diễn ra trên cơ sở

hiện thực của kinh tế và sự phát triển văn hóa mà cơ sở của nó là dân trí được
nâng lên không ngừng để nhân dân tự giác tham gia vào đời sống chính trị. Đó
là căn cứ lý luận, vấn đề đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta. Đồng
thời, việc đổi mới mơ hình, cơ chế, chính sách và phương thức quản lý kinh tế
đòi hỏi sự đổi mới phù hợp của hệ thống chính trị.Yêu cầu nổi lên hàng đầu,
trước mắt cũng như lâu dài là đổi mới, giữ vững ổn định chính trị để phát triển,
để thực hiện các mục tiêu của đổi mới, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và
nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, mở rộng và củng cố vững chắc cơ sở xã
hội của chính trị là quần chúng nhân dân.
Khái quát lại, thực chất của xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta là xây
dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng nhưng nền dân chủ không ngừng được tăng cường, mở rộng. Vì vậy, triển
khai cơng việc hệ trọng này, Đảng ta khẳng định vừa phải khắc phục bệnh tập
trung quan liêu, vừa phải chống dân chủ cực đoan và vô chính phủ.Quán triệt
những quan điểm xuất phát trên đây, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của đổi
mới kinh tế, những nội dung chủ yếu của đổi mới chính trị được Đảng ta xác
định là:
- Một là, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với định
hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất to lớn, phức tạp,
trong đó cịn nhiều vấn đề rất mới mẻ so với trình độ nhận thức và kinh nghiệm
của chúng ta, nó đòi hỏi phải thường xuyên nghiên cứu và theo dõi sự vận động
của thực tiễn để có những tổng kết nghiêm túc về mặt khoa học, kịp thời điều
chỉnh kinh tế - xã hội đúng theo quy luật khách quan của sự phát triển. Do đó,
muốn đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, muốn giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa và không phạm vào sai lầm về chính trị thì xây dựng Đảng trong

11


sạch và vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho Đảng ngang tầm với

những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới là yêu cầu hàng đầu, là điều kiện có tính tiên
quyết, có tính ngun tắc của đổi mới chính trị ở nước ta.
- Hai là, với tư cách là bộ máy công quyền - nhà nước của dân, do dân và
vì dân, nhà nước là một cơng cụ quan trọng nhất đại diện cho quyền lợi của nhân
dân thì việc đổi mới, tăng cường vai trị quản lý và nâng cao hiệu lực quản lý
của nhà nước, trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, làm
cho những quan điểm và đường lối đổi mới của Đảng được thể chế hóa và cụ thể
hóa thành pháp luật, chính sách và cơ chế được thực hiện đúng đắn trong cuộc
sống là đòi hỏi hết sức cấp bách. Do đó phép biện chứng về đổi mới tổ chức bộ
máy, phương pháp và phong cách lãnh đạo của Đảng không thể tách rời việc đổi
mới, xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước pháp quyền và quản lý nhà nước
bằng pháp luật và theo pháp luật. Những yêu cầu đó nhằm làm cho hoạt động
của các cơ quan nhà nước các cấp có thể đạt được những bước tiến quyết định
theo hướng phát huy quyền dân chủ của nhân dân, tăng cường kỷ cương và nâng
cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng,
đồng thời với việc đổi mới chính bản thân mình, Đảng phải lãnh đạo đổi mới
hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác
của nhân dân, bảo đảm tính tồn diện của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta,
phản ánh biện chứng khách quan của hiện thực. Từ thực tiễn đổi mới mười lăm
năm qua, có thể rút ra kết luận rằng: Đảng ta, do sự vận dụng sáng tạo phép biện
chứng duy vật vào lãnh đạo đổi mới chính trị, do vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước được tăng cường, vai trị năng động,
sáng tạo của các đồn thể chính trị - xã hội của quần chúng được phát huy rõ rệt.
Đồng thời, vai trò làm chủ Nhà nước của nhân dân cũng như dân chủ xã hội
ngày càng được mở rộng và tăng cường. Đó là những động lực mạnh mẽ giữ vai
trò quyết định nhất thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên.Đưa đất nước đi lên xã
hội chủ nghĩa xã hội với một hệ thống chính trị ổn định tạo điều kiện cho xây
dựng va phát triển đất nước.
12



Chương 2:
2.1. Quá trình hình thành đường lối xây dựng chính trị của Đảng giai
đoạn 1996 đến nay.
a ,Giai đoạn 1996-2001
Trong những năm 90 của thế kỉ XX, phong trào cách mạng thế giới đang
rơi vào tình trạng thối trào sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ; nền kinh tế tri thức đang xuất hiện cùng với tồn cầu hóa và xu
hướng dân chủ hóa ngày càng cao làm cho xu thế tiếp tục xây dựng hệ thống
chính trị ở Việt Nam được đặt ra một cách bức thiết. Căn cứ vào cương lĩnh của
Đảng và tình hình thực tế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ VIII diễn ra ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996; Đảng đã đề ra những
định hướng chủ yếu tiếp tục thực hiện q trình xây dựng và đổi mới hệ thống
chính trị:
-Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế bao gồm việc tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường,hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, tiếp tục đổi mới cơng
tác kế hoạch hóa, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, nâng cao hiệu
lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
-Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân,
xây dựng cơ chế cụ thể, thực hiện –“ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
-Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng
Qua quá trình xây dựng và hồn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng
giai đoạn 1996-2001 đã tập trung vào công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng xây
dựng và củng cố hệ thống chính trị. Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ
trương, giải pháp củng cốĐảng, bộ máy Nhà nước về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.

13



b , Giai đoạn 2001-2006
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, nhìn chung tổ chức, bộ máy của hệ
thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính nhà nước cịn nhiều vấn đề hạn chế
và bất hợp lý. Thực tế này đặt ra cho công cuộc xây dựng hệ thống chính trị ở
nước ta những nhiệm vụ cần thiết trong thời gian tới. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam (4-2001) đã chủ trương đẩy mạnh
đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trong
đó trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững
mạnh. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng với việc thực hiện có
hiệu quả chiến lực phát triển kinh tế - xã hội.
Sau đại hội IX từ năm 2002-2006 để đẩy mạnh quá trình xây dưng và đổi
mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả đổi mới hệ
thống chính trị, Bộ chính trị đã tập trung chỉ đạo kiện tồn cơng tác tổ chức cán
bộ cho cả hệ thống chính trị trên tất cả các lĩnh vực, đề ra và thực hiện một số cơ
chế, giải pháp tiếp tục cụ thể hóa nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác các bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ.
Tóm lại, mặc dù cịn một số hạn chế nhưng quá trình đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng 2002-2006 đã góp phần quan trọng vào cơng cuộc xây
dựng hệ thống chính trị, tạo nên nhưng hiệu quả thiết thực cho lợi ích và cuộc
sống của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực.
c , Giai đoạn 2006 đến nay
Bước vào thế kỷ XXI đứng trước những diễn biến phức tập về tình hình
thế giới cũng như là trong nước, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI (2001-2006) dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc
xây dựng đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là ở lĩnh vực
đổi mới hệ thống chính trị. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 18 tháng 4 năm 2006 đã khẳng định tầm quan trọng
của công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị đối
14



với sự phát triển của đát nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là củng cố sự lãnh đạo
của Đảng, rà sốt lại phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong đó, xác định Đảng
lãnh đạo phải bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của hệ thống chính
trị.
Cho tới Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 1 năm 2011 đã tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã nêu rõ những hạn chế của quá trình xây
dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam trong thời gian qua cùng với đó là xác định
chủ trương tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị: “xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đồn kết dân tộc”.
Q trình xây dựng nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đã góp
phần to lớn đối với sự đổi mới hệ thống chính trị ngày càng hoàn thiện và vững
mạnh.

15


C. KẾT LUẬN

Đường lối xây dựng chính trị của đảng giai đoạn 1996 đến nay mặc dù
cịn có nhiều hạn chế, nhưng củng đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa rất

quan trọng đưa đất nước đi lên. Tạo ra một hệ thống chính trị tương đối hồn
chỉnh tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, nâng cao uy tín của việt nam vơi
các nước và tổ chức chính trị xã hội trên thế giới. trong giai đoạn hiện nay việc
thực hiện đường lối xây dựng đảng chiếm một vị trí quan trọng góp phần xây
dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Và tạo ra một hệ thống hành
chính linh hoạt và sáng tạo. được sự ủng hộ, tin tưởng của nhân dân vào đảng và
nhà nước và khối đại đoàn kết dân tộc được giữ vững. việt nam tiếp tục đi lên
con đường xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền. nhà nước của nhân dân, vì
nhân dân . Quá trình xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam (1996 đến nay),
Đảng ta đã giải quyết một cách đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa đổi mới về
kinh tế và xây dựng hệ thống chín trị.Xây dựng chính trị là đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.

16


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình đường lối đảng cộng sản Việt Nam.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ tám (tháng 1-1995), Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam,(Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua ngày 25 tháng 4 năm 2006), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội. 2006
4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
5. Đảng cộng sản việt nam: cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa NXB sự thật 1991
6. Văn kiện đại hội đảng- IX.

17



MỤC LỤC
Trang

18



×