Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.34 KB, 50 trang )

Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng- an ninh

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Đại Tá
Trương Xuân Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Giáo dục quốc phòng, Trưởng
khoa Giáo dục quốc phòng là người hướng dẫn chỉ đạo đề tài, đã tận tình hướng
dẫn giúp đỡ tơi hồn thành đề tài này.
Tơi xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo trong khoa GDQP trường Đại học
Vinh cùng các bạn đã tạo điều kiện giúp tơi hồn thành đề tài một cách thuận lợi.
Và tôi cũng thành thật cảm ơn sự động viên khích lệ, sự giúp đỡ nhiệt tình
cho tơi trong q trình thu thập, xử lý tài liệu của tất cả bạn bè đồng nghiệp.
Tuy có nhiều sự cố gắng của bản thân nhưng do thời gian có hạn và năng
lực cịn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi thiếu sót. Vậy tơi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa để đề tài của tơi được hồn
thiện hơn.
Một lần nữa tơi xin chân thành cảm ơn!
Vinh ,ngày 30 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Trinh Đình Thái

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

0

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI


Tình hình thế giới ngày càng biến đổi phức tạp, mỗi quốc gia trên thế giới
đang từng bước đẩy mạnh phát triển kinh tế kết hợp tăng cường củng cố quốc
phòng - an ninh. Như chúng ta đã biết, một nước phát triển là một nước có tiềm
lực mạnh về kinh tế, có một cơ cấu kinh tế vững chắc phục vụ cho sự nghiệp
phát triển quốc gia. Nhưng đồng thời, một quốc gia phát triển cũng phải là một
quốc gia có nền quân sự vững mạnh, an ninh được giữ vững trong thời bình lẫn
thời chiến. Đó là hai mặt tích cực trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh là một trong những
nội dung quan trọng của đường lối xây dựng kinh tế và tăng cường củng cố quốc
phòng là chủ trương đường lối đúng đắn nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Thực hiện đường lối, chủ trương đó trên phạm vi cả nước cũng như địa phương
đã triển khai thực hiện việc xây dựng phát triển kinh tế, tăng cường củng cố
quốc phịng - an ninh bằng nhiều hình thức đã mang lại những kết quả nhất định
góp phần giữ vững ổn định kinh tế xã hội quốc phòng - an ninh từng bước được
củng cố.
Đất nước đang trong quá trình mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp,
nhiều biến đơng khó lường, trước tình hình đó việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế
với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh càng trở nên cấp bách và quan
trọng hơn lúc nào hết.
Một quốc gia mạnh là một quốc gia có tiềm lực mạnh về kinh tế, chính trị,
qn sự, văn hố xã hội. Trong đó, hoạt động kinh tế là hoạt động thường xuyên,
cơ bản gắn liền với sự phát triển của mỗi quốc gia nói riêng và của cả xã hội lồi
người nói chung. Đó là tồn bộ q trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

1


SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

Nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng là yêu cầu
khách quan phù hợp với quy luật lịch sử nhân loại, không phải là vấn đề riêng
của Việt Nam. Nó được thực hiện trong mọi quốc gia độc lập có chủ quyền góp
phần to lớn vào sự phát triển vững mạnh của đất nước.
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong
việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh trong một
chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, thúc đẩy
nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia,
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh là hai lĩnh vực khác nhau, mỗi
lĩnh vực có những mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sư chi phối của
hệ thống quy luật riêng song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn
nhau: Kinh tế là yếu tố quyết định đến quốc phòng - an ninh và ngược lại, quốc
phịng - an ninh cũng có tác động tích cực trở lại kinh tế - xã hội, bảo vệ và tạo
điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự gắn kết trong một chỉnh thể thống
nhất nhằm thúc đẩy nhau cùng phát triển nhịp nhàng với hiệu quả kinh tế- xã hội
cao, quốc phòng an ninh vững mạnh để tạo thành sức mạnh tổng hợp của quốc
gia, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc.
Vậy, phát triển kinh tế- xã hội là làm như thế nào? Củng cố quốc phòng an ninh phải được thực hiện ra sao? Hai khái niệm này tưởng chừng như chẳng
có mối liên hệ nào với nhau nhưng thực chất, chúng lại có mối quan hệ rất mật
thiết. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài chún ta sẽ làm rõ “Kết hợp phát triển

kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ”.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
Hiểu được tầm quan trọng giữ phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng an ninh trong các ngành, các lĩnh vực ở Việt Nam. Đây là con đường hiệu quả
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

2

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

nhất để các dân tộc nhất là những dân tộc nhỏ, đất không rộng, người khơng
đơng, kinh tế phát triển cịn hạn chế vươn lên sánh vai với các cường quốc trên
thế giới. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn việc kết
hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh là yêu cầu của chính sự
phát triển nền kinh tế Việt Nam ở mọi lĩnh vực trong thời kỳ mới.
III. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu: Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiểu biết về
kinh tế, quốc phòng - an ninh trong các ngành , các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam.
Và đưa ra những vấn đề đang còn tồn tại để đưa ra những giải pháp nhằm phát
triển kinh tế- xã hội và quốc phòng - an ninh trong các ngành ở Việt Nam thời kì
mới.
- Nhiệm vụ:
+ Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu .
+ Đánh giá chung tình hình phát triển kinh tế và quốc phòng - an ninh ở
Việt Nam trong thời gian qua.
+Những giải pháp kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an
ninh trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc

phong an ninh chủ yếu ở Việt Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phân tích tổng hợp lí thuyết.
+ Khảo sát thực tiễn.
+ So sánh, lôgic.
+Tham khảo thông tin trên các phương tiện đại chúng cập nhật.
V. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHỌN ĐỀ TÀI
Mỗi vấn đề được nêu ra đều có tầm quan trọng của nó, riêng với đề tài
“kết hợp phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh ”. Tạo điều
kiện cho chúng ta hiểu và nắm vững tính tất yếu khách quan, những nội dung cơ
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

3

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

bản cũng như các giải pháp của việc phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở đã hiểu rõ vấn đề, chúng ta có thể vận dụng vào thực tiễn học
tập, cơng tác cũng như tích cực góp phần vào tăng cường củng cố quốc phòng an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Riêng đối với bản thân tôi việc chọn đề tài này với mong muốn đây là
nguồn tài liệu quan trọng cho cơng tác giảng dạy của mình sau này. Nhằm nâng
cao trình độ hiểu biết về cơ sở, thực tế, kết quả của công cuộc kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong các ngành, các lĩnh
vực chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.


GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

4

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẤN VÀ CƠ SỞ THỰC TIẼN CỦA VIỆC
KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VỚI TĂNG CƯỜNG CỦNG
CỐ QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG CÁC NGÀNH, CÁC LĨNH VỰC
KINH TẾ CHỦ YẾU Ở VIỆT NAM
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản , thường xuyên, gắn liền vớ sự tồn
tại của xã hội lồi người. Đó là tồn bộ q trình hoạt động sản xuất và tái sản
xuất ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phòng là việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt
đông đối nội, đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, quân sự, văn
hố, xã hội... nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ, tạo mơi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
An ninh là nhắc tới trạng thái ổn định an tồn, khơng có dấu hiệu nguy
hiểm để đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của mỗi cá nhân, của tổ chức
của toàn xã hội. Bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn
dân của cả hệ thơng chính trị do lực lương an ninh làm nịng cốt; bảo vệ an ninh
luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định, để thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, chúng ta phải kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong một chỉnh thể thống

nhât. Quan điểm trên là hoàn toàn đúng đắn sáng tạo dựa trên cơ sở lí luân và
thực tiễn sau đây:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Nguồn gốc ra đời quốc phòng an ninh
Kinh tế, quốc phòng - an ninh là hoạt động cơ bản cần có của một quốc
gia có chủ quyền. Chúng tồn tại song song, tác động qua lại lẫn nhau, kinh tế
quyết định quốc phòng - an ninh, ngược lại quốc phòng tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế phát triển.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

5

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng an
ninh. Lợi ích kinh tế suy đến cùng là nguyên nhân nảy sinh các mâu thuẫn và
xung đột xã hội. Và để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột đó thì cần phải có
quốc phịng an ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế- xã hội quyết định đến bản chất của quốc
phòng an ninh. Xây dựng sức mạnh quốc phòng an ninh vì mục đích bảo vệ và
đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa quy định; cịn tăng cường sức mạnh quốc phịng- an ninh vì mục đích
bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là
do bản chất của chế độ kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
Như P. Ăngghen đã khẳng định: "Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên
quyết hơn chính là quân đội và hạm đội"; " Thắng lợi hay thất bại của chiến

tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế"... Rõ ràng, kinh tế có vai trị rất quan
trọng trong việc cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực cho quốc phịng an
ninh. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng an ninh vững mạnh phải chú trọng xây
dựng và phát triển kinh tế.
Thực tế đã chứng minh lí luận trên là đúng: Trong cuộc chiến tranh
xâm lược các nước thuộc địa, đế quốc Mỹ đã phải đầu tư hàng trăm tỉ đô la vào
việc trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại...để có thể đi xâm lược các
nước nhỏ trong nhiều năm. Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế vững mạnh, giàu có
nên đã đầu tư rất nhiều cho quốc phòng an ninh. Và cho đến nay, với sự phát
triển kinh tế nhanh và mạnh của mình, Mỹ vẫn khơng ngừng đầu tư cho quân sự
với việc nghiên cứu ra nhiều loại vũ khí huỷ diệt cơng nghệ cao, có sức phá hủy
rất lớn.
Việt Nam cũng vậy, trong hai cuộc kháng chiến trường kì gian khổ chống
Pháp và chống Mỹ, Đảng , Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng và phát triển
kinh tế, phục vụ cho chiến tranh. Miền Bắc và miền Nam thay phiên nhau xây
dựng kinh tế, phục vụ cho tiền tuyến.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

6

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

Như vậy, chúng ta thấy rằng, kinh tế có vai trị rất to lớn trong việc phát
triển quốc phịng - an ninh.
Ngồi ra, kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng
nguồn nhân lực cho quốc phòng an ninh, qua đó, quyết định đến tổ chức biên

chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng- an
ninh.
2. Mối quan hệ kinh tế với quốc phòng - an ninh
Mối quan hệ kinh tế tế với quốc phòng - an ninh thể hiện:
+ Kinh tế quyết định nguồn gốc, bản chất, tính chất và mục đích của quốc
phịng.
+ Kinh tế quyết định trình độ trang bị vũ khí kĩ thuật tổ chức biên chế, số
lượng, chất lượng của lực lượng vũ trang.
+ Kinh tế quyết định chiến lược, chiến thuật khoa học, nghệ thuật quân
sự, phương thức xây dựng nền quốc phịng.
Suy đến cùng lợi ích kinh tế là động lực là mục tiêu của quốc phòng, mọi
hoạt động của quốc phòng đều phải dựa trên cơ sở kinh tế.
Quốc phịng- an ninh khơng chỉ phụ thuộc vào nền kinh tế mà cịn có tác
động trở lại kinh tế- xã hội trên cả hai góc độ: Tích cực và tiêu cực.
Thứ nhất ở góc độ tích cực ta thấy: Quốc phịng an ninh vững mạnh sẽ tạo
mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh
tế- xã hội. Nhu cầu cho các hoạt động tiêu dùng của quốc phòng an ninh nền
kinh tế phải tạo ra những sản phẩm hoặc thông qua hoạt động mở rộng kinh tế
đối ngoại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nó và đồng thời cũng tạo ra thị
trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.
Lênin đã đánh giá về mức độ tiêu dùng của quốc phòng an ninh là tiêu
dùng "mất đi", khơng quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó sẽ ảnh hưởng tới tiêu
dùng xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc phòng
an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối phát trỉên kinh tế, cơ cấu kinh tế.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

7

SVTH: Trịnh Đình Thái



Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

Thứ hai xét ở góc độ tiêu cực thì, hoạt động quốc phịng an ninh có thể
hủy hoại mơi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nhất là khi
có chiến tranh xảy ra.
Ví dụ: Trong các cuộc chiến tranh trước đây, cả hai bên tham chiến đều sử
dụng các loại vũ khí hóa học mạnh nhằm tiêu diệt đối phương nhưng đồng thời
lại có tác động đến mơi trường tự nhiên và cả con người... Để hạn chế những tác
động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng an ninh với
phát triển kinh tế xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
Ngoài ra xây dựng phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh là yêu
cầu nội sinh của sự phát triển kinh tế, yêu cầu của tự vệ và được bảo vệ của nền
kinh tế.
Kinh tế và quốc phòng - an ninh có mối quan hệ biện chứng ln tác động
lẫn nhau. Kinh tế phát trển là điều kiện, cơ sơ để quốc phòng vững mạnh.
Khi an ninh trật tự an tồn xã hội được giữ vững chính trị ổn định mới có
điều kiện để bảo vệ cho nền kinh tế,tạo điều kiện cho môi trường đầu tư, phát
triền kinh tế thuận lợi .Tóm lại xây dựng phải đi đơi với bảo vệ, làm ra của cải
phải tổ chức để bảo vệ thành quả của mình đã sản xuất ra.
 Ta rút ra được nhận xét rằng: Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng an ninh là một tất yếu khách quan. Hai lĩnh vực
này song song cùng tồn tại nhưng mỗi lĩnh vực có nội dung và phương thức hoạt
động riêng nhưng giữa chúng lại có sự thống nhất ở mục đích, là điều kiện "cần
và đủ" của nhau: Cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Từ đó cần
đáng giá đúng để kết hợp một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hịa.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trên thế giới, bất kì một nước dù là nước lớn hay nước nhỏ, nền kinh tế
phát triển hay chưa phát triển, chế độ chính trị ra sao thì mỗi quốc gia ấy đều

chăm lo thực hiện phương châm xây dựng phát triển kinh tế kết hợp với tăng
cường củng cố quốc phòng ninh nhằm bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia kể cả những quốc gia từ trước đến nay chưa có chiến tranh
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

8

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng- an ninh

xảy ra. Đó là sự chuẩn bị nỗ lực cho tương lai lâu dài của đất nước. Mỗi quốc
gia có một cách thực hiện riêng, nếu tiềm lực kinh tế vững mạnh thì chắc chắn
nền quân sự sẽ được đảm bảo, nhưng nếu còn yếu về kinh tế thì sẽ ra sức đầu tư
phát triển, đảm bảo cho quốc phòng - an ninh vững mạnh, có thể chống lại bất
cứ kẻ thù xâm lược nào?
Trên đất nước Việt Nam chúng ta, sự phát triển kinh tế-xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh đã có lịch sử lâu dài, dựng nước đi đôi với
giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Như Bác Hồ đã từng nói:
“Các vua Hùng đã có cơng dựng nước,Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước”.
Đảng và Nhà nước ta ln lấy đó làm chân lí, kim chỉ nam cho mọi hành
động.Vận dụng trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng có sự kết hợp khác nhau, và ở
nước ta đã diễn ra 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các triều đại phong
kiến Việt Nam ln lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ
nước với tư tưởng: "lấy dân làm gốc", "dân giàu, nước mạnh", thực hiện
"khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc", chăm lo xây dựng khối đại đoàn

kết dân tộc. Thực hiện kế sách " ngụ binh ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân"
để vừa phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng để bảo vệ Tổ
quốc.
Trong xây dựng phát triển kinh tế đã sử dụng nhiều chính sách như khai
hoang lập ấp ở những nơi xung yếu; phát triển nhiều ngành nghề thủ công để
vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, các loại vũ khí thơ sơ, phương tiện phục
vụ cho mục đích tồn dân đánh giặc. Bên cạnh đó, các chính quyền địa phương
cũng chú trọng đến việc tu sửa cơ sở hạ tầng như: mở mang đường sá, đào sơng
ngịi kênh rạch, xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo ra thế trận
đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Giai đoạn 2: Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

9

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường
lối cứu nước từ cuối thế kỉ XIX. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị nhân tố quan
trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp theo sau này của cách mạng nước ta
cũng như phương hướng hoạt động của đât nước trong thời đại mới. Sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử
nước ta, đưa lịch sử cách mạng nước ta bước sang một trang mới.
Trong cách mạng, với việc nắm vững những quy luật khách quan của lịch
sử cũng như kế thừa những kinh nghiệm lịch sử của ông cha, Đảng cộng sản
Việt Nam đã đưa ra những chủ trương, biện pháp, phù hợp với từng thời kì của
cách mạng nước ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), Đảng ta chủ trương
vừa đánh giặc, vừa tăng gia sản xuất, "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"...Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa cách mạng Việt Nam
chuyển sang một thời kì mới: Miền Bắc được giải phóng tiến lên xây dựng xã
hội chủ nghĩa và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Lịch sử Việt Nam trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp gắn bó
hữu cơ với tiến trình phát triển của lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, lịch sử của
Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong gần 10 năm của chế độ mới, dù phải ưu tiên
huy động nhân tài, sức lực và vật lực cho cuộc kháng chiến, nhưng những thành
tựu mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là rất lớn và những thành tựu
ấy trở thành cơ sở cho công cuộc xây dựng miền Bắc sau này.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), ở hai miền
Bắc- Nam đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế với
tăng cường củng cố quốc phòng an ninh với những nội dung và hình thức phù
hợp với hoàn cảnh của mỗi miền.
Miền bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn
cho miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương:
"Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ kinh tế quốc phòng, cũng như
trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây
dựng kinh tế". Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng phát triển chế độ xã hội
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

10

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

mới, nền kinh tế mới, văn hóa mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân;

đồng thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo, củng cố quốc phòng - an ninh vững
mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của lớn cho tiền tuyến lớn miền
Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Tại miền Nam, Đảng ta chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh
địch với củng cố, mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững
mạnh. Đó chính là điều kiện cơ bản đảm bảo cho cách mạng nước ta đi đến
thắng lợi.
ở thời kì này, chúng ta cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng là tập
trung xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất
đât nước. Do đó, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phịng an
ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, đã
tạo được sức mạnh tổng hợp, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và để lại nhiều bài
học quý báu cho đời sau.
Giai đoạn 3: Thời kì cả nước độc lập, thống nhất, đi lên xã hội chủ nghĩa
(từ 1975 đến nay) :
Trong thời kì này, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố
quốc phòng an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên
quy mơ rộng lớn và tồn diện hơn. Từ năm 1986 cho đến nay, với tư duy mới về
nền kinh tế và quốc phòng và an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng an ninh trên phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, các bộ, ban ngành có bước chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức
thực hiện và đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
 Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã
hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, chúng ta đã phát huy được mọi
tiềm năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển
kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy,
khi đất nước bị xâm lược, chúng ta đã động viên được " cả nước đồng lòng, tồn
GVHD: Đại tá. Trương Xn Dũng


11

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

dân đánh giặc", với lời kêu gọi của Bác Hồ: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp
để chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho
đến ngày nay.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

12

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

CHƯƠNG II. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VỚI
TĂNG CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG – AN NINH TRONG CÁC
NGÀNH, CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ CHỦ YẾU Ở VIỆT NAM
I. KẾT HỢP TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI VÀ CÁC LĨNH VỰC CHỦ YẾU
Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an
ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
của quốc gia. Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế- xã hội của

nước ta từ năm 2006-2010 là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới, phát huy và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; tăng cường quốc phòng an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị- xã hội, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tê- xã hội đã bao quát
toàn diện các vấn đề của đời sống xã hội, trong đó nổi lên 3 vấn đề lớn đó là:
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, tăng cường quốc phòng- an ninh
và mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giải quyết hài hòa 2 nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng
an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch
định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và
thực hiện các giải pháp chiến lược.
II. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG
CƯỜNG CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG-AN NINH TRONG PHÁT TRIỂN
CÁC VÙNG LÃNH THỔ
Nước ta có địa hình kéo dài và hẹp ngang, lại có nhiều sơng ngòi, kênh
rạch chằng chịt, bờ biển nước ta kéo dài trên 3260km, diện tích biển và thềm lục
địa rộng hơn một triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, có đường hàng hải đi
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

13

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng- an ninh


qua. Trên biển ngồi tài ngun phong phú chúng ta cịn có nhiều đảo ven bờ,
đặc biệt 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta đang có sự tranh chấp,
lấn chiếm giữa các quốc gia trong khu vực, giữa các vùng miền của đất nước có
sự phân bố phát triển lực lượng sản xuất không đồng đều dẫn đến sự mất cân đối
giữa các vùng, các miền về sự phân bố kinh tế và các lĩnh vực khác.
Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện cho tất cả các vùng
phát triển kinh tế tại chỗ gắn với củng cố quốc phòng - an ninh, khai thác thế
mạnh và tiềm năng của mỗi vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết
giữa các vùng tạo nên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ cả nước, cần phải kết hợp
chặt chẽ giữa các vùng. Nước ta hiện nay được phân thành 3 vùng kinh tế trọng
điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
1. Khái niệm, nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ.
1.1. Khái niệm
Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an
ninh theo vùng lãnh thổ là sự kết hợp chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược
với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới
về cả kinh tế lẫn quốc phòng - an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn tỉnh,
thành phố...theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam bền vững
trên toàn lãnh thổ và thế mạnh ở từng vùng trọng điểm.
1.2. Nội dung
Các vùng chiến lược khác nhau lại có sự khác nhau về đặc điểm và yêu
cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh nên nội dung kết hợp cụ
thể trong mỗi vùng có sự khác nhau. Tuy nhiên giữa các vùng lại có chung các
nội dung chủ yếu sau:
+ Kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế với quốc phòng- an ninh của vùng cũng như trên địa bàn tỉnh, thành phố.
+ Kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng, cơ cấu kinh tế địa
phương với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hồn,


GVHD: Đại tá. Trương Xn Dũng

14

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

các xã ( phường) chiến đấu trên địa bàn các tỉnh, thành phố cũng như ở các quận
huyện.
+ Kết hợp trong quá trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc
phịng an ninh trên địa bàn từng lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và có kế hoạch phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ở đâu có đất
liền, có biển, có đảo là ở đó có dân, có lực lượng quốc phịng- an ninh để bảo vệ
cơ sở, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
+ Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các cơng
trình quốc phịng, qn sự, phịng thủ dân sự, thiết bị chiến trường...bảo đảm
tính "lưỡng dụng" trong mỗi cơng trình được xây dựng.
+ Kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh, toàn diện, rộng khắp
với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần kĩ thuật và hậu phương vững
chắc cho mỗi vùng và các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh
xâm lược.
2. Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
2.1. Vùng kinh tế trọng điểm
Hiện nay, nước ta đã xác định được ba vùng kinh tế trọng điểm lớn là:
+ Miền Bắc: Hà nội- Hải phòng- Quảng ninh
+ Miền Trung: Đà nẵng- Thừa Thiên Huế- Dung Quất Quảng Ngãi


GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

15

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

+ Miền Nam: TP. Hồ Chí Minh- Đồng Nai- Bà Rịa- Vũng Tàu
 Các vùng kinh tế trọng điểm nói trên đều là nịng cốt cho phát triển
kinh tế từng vùng và cho cả nước. Theo tính tốn, năm 2010, GDP của 3 vùng
kinh tế trọng điểm chiếm khoảng 60% tổng thu nhập quốc dân của cả nước.
+ Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính
chất đơ thị hóa cao, gắn liền với các khu công nghiệp lớn, các đặc khu kinh tế,
các cơ sở liên doanh với nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung các đầu mối giao
thông quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ...
+ Về quốc phòng- an ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong
các khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối
tượng, mục tiêu quan trọng cần phải bảo vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các
hướng có khả năng là hướng tiến cơng chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm
lược của địch; hoặc đã và đang là địa bàn trọng đỉêm để địch thực hiện chiến
lược "Diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ với nước ta. Do đó, cần phải thực
hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh trên các vùng này.
2.2. Nội dung thực hiện
Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp
cần lựa chọn quy mơ trung bình, bố trí rải rác, phân tán đều trên diện rộng,
không nên tập trung xây dựng thành những siêu đơ thị lớn...để thuận lợi cho
quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và ngăn chặn, hạn chế hậu quả
tiến công bằng hỏa lực của địch trong chiến tranh.

Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng nền kinh tế với kết
cấu hạ tầng của nền quốc phịng tồn dân, gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
với xây dựng các cơng trình phịng thủ, các thiết bị chiến trường, các cơng trình
phịng thủ dân sự... Về lâu dài, ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung,
cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống "cơng trình ngầm lưỡng dụng".
Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về phịng
thủ, khi bố trí các cơ sở sản xuất, các cơng trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

16

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng- an ninh

cuả nước ngồi. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả
kinh tế trước mắt mà quên đi nhiệm vụ quốc phịng- an ninh và ngược lại, khi bố
trí các khu vực phịng thủ, các cơng trình quốc phịng, chỉ chú ý đến các yếu tố
đảm bảo quốc phòng mà khơng chú ý đến lợi ích kinh tế..
Trong q trình xây dựng các khu cơng nghiệp tập trung, các đặc khu kinh
tế phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng- an ninh,
các tổ chức chính trị, các tổ chức đồn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó.
Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư
nước ngoài trong các khu công nghiệp, các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế...
Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng trọng điểm phải nhằm đáp
ứng phục vụ dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện
cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ
với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng
chủ động di dời, sơ tán đến nơi an tồn khi có chiến tranh xâm lược.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh gắn bó đan xen thâm nhập vào
nhau là điều kiện nhu cầu mỗi bên .
Mọi thành quả đạt được về kinh tế đáp ứng tốt nhất cả ba loại nhu cầu:
+ Tăng cường kinh tế
+ Cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhân dân.
+ Tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh .
Như vậy mọi hoạt đơng quốc phịng - an ninh là tạo và giữ gìn mơi trường
hịa bình ổn định để đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo vệ sự phát triển kinh tế.
Muốn đáp ứng ba nhu cầu đó phải kết hợp đúng đắn giữa phát triển kinh
tế và tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh. Thực hiện ở đâu có hoạt động
kinh tế, ở đó phải gắn với tăng cường củng cố quốc phịng - an ninh; ngược lại ở
đâu có hoạt động quốc phịng - an ninh ở đó phải gắn phát triển với kinh tế nhằm
bảo vệ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

17

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

3. Đối với vùng núi biên giới

3.1. Khái quát
Quan tâm phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh
ở vùng miền núi, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo, Tây
Bắc, Tây Nguyên.
Việt Nam tranh thủ thời cơ thuận lợi tập trung sức mạnh xây dựng phát

triển kinh tế nhưng đồng thời phải tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh .
Sức mạnh đó đảm bảo lật đổ và đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của bất cứ kẻ
thù nào trong mọi tình huống, giữ vững ổn định đất nước tạo điều kiện lâu dài
cho kinh tế phát triển . Lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát
triển kinh tế xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Vùng núi biên giới nước ta tiếp giáp với nhiều quốc gia như Trung Quốc,
Lào, Campuchia. Có đường biên giới dài hàng nghìn km. Tuy nhiên, đây lại là
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

18

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

địa bàn sinh sống chủ yếu của các đồng bào dân tộc ít người, mật độ dân cư
thấp, kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư cịn nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó, nước ta là một nước mà 3/4 diện tích là đồi núi cho nên
việc đi lại ở các vùng biên giới rất khó khăn, mặc dù vùng biên giới có tầm quan
trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ đất nước. Trước đây, các vùng biên
giới này là các vùng căn cứ địa kháng chiến, các hậu phương chiến lược của cả
nước bởi vì quân và dân ta hiểu rõ địa hình hiểm trở của Tổ quốc mình nên đã
lợi dụng nó trở thành bức tường cản trở sự di chuyển của kẻ thù vào các căn cứ
quân sự của ta. Vùng núi phía Bắc đã tập trung rất nhiều căn cứ quân sự quan
trọng như chiến khu Việt Bắc, các tổ chức chính trị lớn mặc dù địa hình ở đó rất
hiểm trở.
Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng biên giới vẫn là
vùng chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở các vùng này cịn gặp rất
nhiều khó khăn, yếu kém về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng- an ninh nên

dễ dàng bị kẻ thù lợi dụng để lơi kéo, kích động đồng bào thực hiện âm mưu
chiến lược " Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ. ở nhiều nơi, tình hình rất phức
tạp. Các thế lực thù địch lợi dụng đồng bào các dân tộc ít người có trình độ dân
trí thấp để tun truyền, kích động nhân dân, hướng họ vào những việc làm xấu.
 Vì vậy, trước mắt cũng như về lâu dài, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng - an ninh ở vùng núi biên giới là hết sức quan trọng.Cần
phải được chú trọng và quan tâm đúng mức.
3.2. Nội dung thực hiện.
+ Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh ở
các vùng cửa khẩu, vùng biên giới giáp với các nước láng giềng.`
Ví như nước ta có cửa khẩu với Lào, Campuchia, Trung Quốc ta đặc biệt
quan tâm, đầu tư phát triển nhằm củng cố mối quan hệ hai nước cùng nhau hợp
tác phát triển, hai bên đều có lợi. Bên cạnh hợp tác giao lưu phát triển kinh tế
phải tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh không để các thế lực thù địch lợi
dụng, âm mưu chống phá. Phá vỡ khối liên minh hợp tác giữa hai nước.
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

19

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

+ Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù
hợp để động viên, điều chỉnh dân số ở các nơi khác đến vùng biên giới thông
qua các biện pháp như xây dựng vùng kinh tế mới, xây dựng các khu cơng
nghiệp...
Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc kinh chiếm 87% trên cả
nước, cịn lại là dân tộc thiếu số ít người phân bố không đồng đều rãi rác tại các
vùng núi, vùng sâu vùng xa. Đảng và Nhà nước ta trong những năm vừa qua đã

có những chủ trương, chính sách phù hợp để tổ chức việc định cư và tái định cư
nhằm ổn định xã hội, xây dựng vùng kinh tế mới, tận dụng hết nguồn lực ổn
định xã hội, đồng thời nhằm cải thiện chỗ ở, sinh hoạt đời sống cho người dân
làm cho các kẻ xấu khơng vì đó mà lợi dụng.
+ Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng- an
ninh. Trước hết cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mới và nâng cấp các
tuyến đường giao thông dọc, ngang và các đường vành đai kinh tế.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình 135 về phát
triển kinh tế- xã hội đối với các xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo.
Trong những năm gân đây Việt Nam đã có những cơ sở hạ tầng mang tầm
cỡ trong khu vực. Xây dựng, nâng cấp mới các tuyến đường xuyên Bắc – Nam,
các quốc lộ chính của quốc gia, các tuyến đường mang vị trí chiến lược, cửa
ngõ, trung tâm kinh tế trong nước, khu vực, quốc tế.
Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó
khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả trung ương và địa
phương để giải quyết.
+ Đặc biệt đối với các địa bàn trọng yếu dọc sát biên giới, cần có các
chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm
nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng hoặc các khu quốc phòng- kinh
tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức
mạnh quốc phòng- an ninh.

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

20

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh


4. Đối với vùng biển đảo.

4.1. Khái quát.
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1triệu km2, gấp
3 lần diện tích phần đất liền, vùng biển đảo có nhiều tiềm năng về kinh tế (thủy
hải sản và cả khoáng sản), là cửa ngõ thông thương giao lưu quốc tế, thu hút
được nhiều sự đầu tư của nước ngồi, có khả năng phát triển một số ngành mũi
nhọn của đất nước trong tương lai.
Thế kỉ 21 là thế kỉ của biển và đại dương, vì thế, nước ta cần chú trọng
đầu tư phát triển cho vùng biển đầy tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên, việc
khai thác lợi thế đó của nước ta đang còn nhiều hạn chế, đặc biệt là vùng biển
đảo của nước ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp phức tạp, chứa đựng nhiều
nguy cơ đe dọa chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng nổ
xung đột. Trong khi có nhiều nguy cơ đe dọa như vậy mà chúng ta lại chưa có
chiến lược tổng thể hồn chỉnh về phát triển kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo.
Lực lượng bảo vệ và sức mạnh tổng hợp của chúng ta trên biển cịn q
mỏng, vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với
tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi cấp thiết
và thực sự cần thiết, có vai trị rất quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài,

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

21

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng- an ninh


nhằm nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ sức bảo vệ, làm chủ tồn diện vùng biển,
đảo, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển nhanh, làm giàu cho
đất nước.
4.2. Nội dung thực hiện.
+ Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh
tế và xây dựng thế trận quốc phòng- an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình
mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế- xã hội với quốc phòng- an
ninh một cách toàn diện, cơ bản và lâu dài.
+ Xây dựng kế hoạch, quy hoạch, từng bước đưa dân ra gần vùng ven
biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương,
bám trụ phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc và lâu dài.
Nhà nước phải có các cơ chế, chính sách thỏa đáng động viên khích lệ dân
ra đảo, bám trụ làm ăn lâu dài.
Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, làm ăn, sinh sống...
+ Xây dựng chính sách, cơ chế tạo điều kiện mở rộng làm ăn kinh tế ở
cùng biển đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển. Thơng qua đó,
vừa thể hiện chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế được âm mưu bành trướng, lấn
chiếm biển đảo nước ta của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hịa
bình các tranh chấp trên biển đảo
+ Chú trọng đầu tư phát triển các chương trình đánh bắt xa bờ, thơng qua
đó, xây dựng lực lượng dân qn biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải.
Cảnh sát biển có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm sốt, ngăn chặn kịp thời những hoạt
động vi phạm chủ quyền biển đảo của nước ta... Xây dựng một số đơn vị kinh
tế- quốc phòng mạnh trên biển đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển
và tạo thế bảo vệ biển đảo vững chắc.
+ Xây dựng các phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở
vùng biển đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng


22

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

trận phòng thủ trên biển, đảo mà trước hết là phát triển và hiện đại hóa lực lượng
Hải quân Việt Nam để đủ sức canh giữ và bảo vệ vùng biển đảo của Tổ quốc.
III. KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VỚI TĂNG
CƯỜNG, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG- AN NINH TRONG CÁC NGHÀNH,
CÁC LĨNH VỰC CHỦ YẾU
Kinh tế là động lực chủ yếu trong việc phát triển đất nước và là mối quan
tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cùng
với việc phát triển kinh tế đó là ổn định xã hội, mà ổn định xã hội đi đơi với việc
củng cố quốc phịng - an ninh, hai vấn đề này tồn tại song song và phát triển bền
vững. Việc phát triển kinh tế chủ yếu tập trung ở các ngành, lĩnh vực sau:
1. Trong cơng nghịêp
Trải qua bao khó khăn, gian khổ Việt Nam đã gây dựng riêng cho mình
một vị trí quan trọng, chiến lược trên bản đồ thế giới, ngày nay Việt Nam đang
hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thấy tầm quan trọng đó Đảng và Nhà
nước ta xác định yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới để sánh vai với
các cường quốc trên thế giới. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước:
Đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước hiện đại về công
nghiệp.
1.1. Khái niệm
Công nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất của quốc
gia, cung cấp máy móc, nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho
chính bản thân ngành cơng nghiệp cũng như trong cơng nghiệp quốc phịng, sản

xuất các sản phẩm tiêu dùng cho xã hội và phục vụ xuất khẩu; sản xuất ra các
loại vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu củ hoạt động quốc phòng- an
ninh.
1.2. Nội dung thực hiện
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành
cơng nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng

GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

23

SVTH: Trịnh Đình Thái


Kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng- an ninh

sâu. vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện công cuộc "công nghiệp
hóa- hiện đại hóa" nơng nghiệp, nơng thơn.
+ Tập trung đầu tư phát triển một số ngành cơng nghiệp có liên quan đến
quốc phịng như: cơ khí chế tạo, điện tử cơng nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện
kim, hóa chất, đóng tàu...để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh
tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghệ cao phục vụ quốc
phịng - an ninh.
+ Phát triển cơng nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, mỗi xí nghiệp
vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp
trong đầu tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng
dụng cao trong các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.
+ Các nhà máy cơng nghiệp quốc phịng trong thời bình ngồi việc sản
xuất hàng quân sự còn phải sản xuất hàng dân sự chất lượng cao, phục vụ nhu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từ nay cho đến năm 2020, nước ta cần

tập trung xây dựng một số nhà máy mũi nhọn, có thể tham gia nghiên cứu, sáng
chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho lực lượng vũ
trang, trong đó, tập trung vào một số ngành như: cơ khí luyện kim, cơ khí chế
tạo, điện tử- tin học, hóa dầu...
+ Mở rộng mối quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết giữa các xí nghiệp
cơng nghiệp của nước ta với cơng nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới, ưu
tiên những ngành, những lĩnh vực có tính ứng dụng cao trong thực tê.
Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phịng
vào cơng nghiệp dân dụng và từ cơng nghiệp dân dụng vào cơng nghiệp quốc
phịng.
Phát triển hệ thống phịng khơng cơng nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến.
Xây dựng kế hoạch động viên cơng nghiệp quốc gia, phục vụ thời chiến;
thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên nhiên liệu, vật liệu quý hiếm cho sản
xuất quân sự.
GVHD: Đại tá. Trương Xuân Dũng

24

SVTH: Trịnh Đình Thái


×