ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tóm tắt các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
1.1. Khái niệm chủ nghĩa nghĩa xã hội không tưởng
1.2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
2. Những giá trị và những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội khơng tưởng và ngun nhân của nó
3. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học
3.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
3.2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội
khoa học
3.3. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học
4. Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
4.1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
4.2. V.I. Lênin vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học
4.3. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi V.I. Lênin từ
trần
5. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
5.1.Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học
5.2.Chức năng, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học
5.3.Ý nghĩa của việc học tập chủ nghĩa xã hội khoa học
CHƯƠNG 2
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp cơng nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1
2. Tính tất yếu, quy luật hình thành và vai trò của Đảng Cộng sản
2.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
2.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản
2.3. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
2.4. Vai trò của Đảng Cộng sản
3. Sự hình thành và những đặc điểm của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Vai trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.1. Sự hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam
3.2. Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách
mạng Việt Nam
3.3. Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam
CHƯƠNG 3
XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa
1.1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
1.2. Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa
2. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin
2.2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3.2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
CHƯƠNG 4
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ và bản chất của dân chủ xã
hội chủ nghĩa
1.1. Quan niệm về dân chủ
1.2. Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
2. Khái niệm, bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phương hướng cải cách Nhà nước ở nước ta hiện nay
2.1. Khái niêm, bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.2. Phương hướng cải cách Nhà nước ở nước ta hiện nay
CHƯƠNG 5
LIÊN MINH GIỮA CƠNG NHÂN VỚI NƠNG DÂN VÀTRÍ THỨC
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Khái niệm, xu hướng biến đối của cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp
1.2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
2. Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Việt
nam. Tính tất yếu của liên minh cơng - nơng - trí thức trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
2.1. Đặc điểm của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức Việt
nam
2.2. Tính tất yếu của liên minh cơng - nơng - trí thức trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
3. Nội dung cơ bản của liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1. Nội dung chính trị của liên minh
3.2. Nội dung kinh tế của liên minh
3.3. Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh
CHƯƠNG 6
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1. Dân tộc và “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa mác – Lênin
1.2. Khái niệm dân tộc và các đặc trưng cơ bản của dân tộc
1.3. Nội dung “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác – Lênin
1.4. Vấn đề dân tộc ở Việt Nam và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
1.5. Tình hình các dân tộc ở Việt Nam
1.6. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
2. VẤN ĐỀ TƠN GIÁO TRONG Q TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
1. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
1.1. Khái niệm tôn giáo
1.2. Bản chất của tơn giáo
1.3. Nguồn gốc của tơn giáo
1.4. Tính chất của tôn giáo
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
trong chủ nghĩa xã hội và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta
2.1. Quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
2.2. Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
CHƯƠNG 7
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
1. Gia đình và mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
1.1. Khái niệm gia đình
1.2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội
2. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
2.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
2.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
2.3. Chức năng giáo dục
2.4. Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm
TÀI LIỆU HỌC TẬP
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức biên soạn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 20019.
I. Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học do Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002
- Các văn kiện của Đảng sản Việt Nam: Cương lĩnh chính trị năm 1930;
Văn kiện Đại hội VI, Văn kiện Đại hội VII, Văn kiện Đại hội VIII, Văn kiện Đại
hội IX.
- Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ giáo dục và đào tạo biên
soạn. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2005
NỘI DUNG ÔN TẬP
CHƯƠNG 1
LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tóm tắt các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
1.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng
về giải phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
khơng có áp bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự có cuộc sống bình
đẳng, hạnh phúc, nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo
duc, thuyết phục và tun truyền hịa bình...cho lý tưởng của họ.
Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp thống trị và bóc lột
mà xuất hiện các phong trào và tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Giai đoạn thứ nhất: Những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội
chủ nghĩa thời cổ đại
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai cấp quý
tộc chủ nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng
quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp là miếng đất làm nảy sinh
những mầm mống tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ
đại thể hiện trong dòng “văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện
dân gian như: các chuyện thần thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội khơng
tưởng một mặt, phản ánh những sự bất bình của đông đảo quần chúng lao động
đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị; mặt khác, nêu lên ước
mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức về một xã hội bình đẳng,
công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí muốn trở về với thời đại
“hồng kim ngun thuỷ”.
Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ
XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở
châu
Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột
giai cấp cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống
trị của mình và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao
động. Trong bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng. Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo
thời cận đại đã lên án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi
phải thay thế chế độ xã hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
Giai đoạn này có rất nhiều đại biểu ưu tú, điển hình là những đại biểu sau:
+ Tơmát Morơ (1478 - 1535) là tác giả của tác phẩm văn học xã hội chủ
nghĩa không tưởng đầu tiên, tác phẩm “Không tưởng” (“Utôpi”).
+ Tômađô Campanenla (1568 - 1639) là tác giả của tác phẩm “Thành phố
mặt
trời”.
+ Grắccơ Babớp (1760 - 1797) và những người bạn chiến đấu cùng chí
hướng
của ơng, lần đầu tiên trong lịch sử, đã nói đến vấn đề đấu tranh cho chủ nghĩa
xã hội
với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ là tư tưởng. “Tuyên ngơn
của những người bình dân” của chủ nghĩa Babớp được coi là một cương lĩnh
hành động chưa từng có trong lịch sử trước đây của tư tưởng xã hội chủ nghĩa
với những nhiệm vụ, những biện pháp cụ thể cần thực hiện ngay trong quá trình
hành động dẫn đến xã hội mới công bằng.
Giai đoạn thư ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng cơng nghiệp về
cơ bản hồn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là
giai đoạn chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt
đầu bộc lộ bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao
động vì quyền lợi của giai cấp mình; Đây cũng là giai đoạn giai cấp vơ sản hiện
đại hình thành và bắt đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong điều kiện lịch sử ấy, đã xuất hiện những đại biểu mới của chủ nghĩa
xã hội khơng tưởng. Đó là các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê
phán vĩ đại:
C.H. Xanh Ximông, Ph.S. Phuriê, R Ôoen. Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã
hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không
tưởng - phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, phủ định
nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp và những dự đoán thiên tài về xã hội
tương lai.
+ Côlôđơ Hăngri Đơ Xanh Ximông (1760 - 1825)
C.H. Xanh Ximơng xuất thân từ một gia đình q tộc Pháp. Ông là một
nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán nổi tiếng.
Một trong những nội dung quan trọng trong học thuyết của C.H. Xanh
Ximông là lý luận về giai cấp và xung đột giai cấp. Ơng có sự nhận xét khá độc
đáo về cuộc Cách mạng tư sản Pháp. Tai họa của nó là ở chổ giai cấp tư sản đã
thay thế giai cấp phong kiến và giành quyền thống trị xã hội, nó chưa thiết lập
được một chế độ phù hợp với quyền lợi “giai cấp đông đảo nhất và nghèo khổ
nhất”. Ơng địi hỏi phải làm một cuộc cách mạng mới vì hạnh phúc của tồn xã
hội nhằm xóa bỏ những điều kiện bất cơng và phi lý, song ông lại chủ trương giải
quyết bằng con đường thuần túy hịa bình, thực hiện sự tun truyền để thúc đẩy
các vua chúa sử dụng quyền lực mà nhân dân giao phó cho họ để thực hiện
những biến đổi. Ơng muốn xây dựng xã hội mới trên nguyên tắc điều hịa giai
cấp và khơng chủ trương xóa bỏ chế độ tư hữu. Nhưng với những tư tưởng bình
đẳng xã hội, nhân đạo chủ nghĩa và nhiều dự kiến độc đáo về xã hội tương lai mà
C.H. Xanh Ximông được thừa nhận là một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng vĩ
đại.
+Phrăngxoa Mari Sáclơ Phuriê (1772 - 1837)
Ph.S. Phuriê là một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng, một nhà phê phán
và lên án xã hội tư sản một cách xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến gần đến chủ
nghĩa Mác.
Một trong những tư tưởng nổi bật của chủ nghĩa Phuriê là sự phê phán và
lên án xã hội tư sản một cách sâu sắc. Ph.S. Phuriê thẳng tay lột trần cảnh khốn
cùng, sự nghèo nàn về vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Ông cho rằng, sự
nghèo khổ sinh ra từ chính bản thân sự dồi dào, hạnh phúc của thiểu số người
này gây ra sự khổ ải cho đa số người khác. Từ đó, Ph.S. Phuriê đòi hỏi phải thay
thế xã hội tư sản bằng một xã hội mới cao hơn. Xã hội mới, trong đó có sự thống
nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể, mỗi con người riêng biệt chỉ có thể tìm thấy điều có lợi cho họ trong cái
lợi của tồn thể mọi người, mọi người đều có quyền lao động và quyền sống.
Ph.S. Phuriê là người đầu tiên đã cho rằng, trình độ giải phóng phụ nữ là
mực thước tự nhiên để đo trình độ giải phóng chung. Ơng quan niệm về lịch sử
xã hội phát triển qua bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh.
Ph.S. Phuriê chủ trương xây dựng xã hội mới vẫn còn chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Ông phản đối bạo lực cách mạng, xã hội mới hình thành bằng thực
hiện việc tuyên truyền cho người ta hiểu biết những “dục vọng” của mình.
+ Rơbớt Ơoen (1771 - 1858)
R. Ôoen là một nhà tư tưởng nổi tiếng, một nhà nhân đạo chủ nghĩa, một
nhà cộng sản thực nghiệm.
Khác với C.H. Xanh Ximông và S. Phuriê, điểm nổi bật của học thuyết
Ôoen là khuynh hướng phủ nhận và lên án chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất một
cách tồn diện và sâu sắc nhất. Ơng cho rằng, chế độ tư hữu đã và đang là
nguyên nhân của vô số tội phạm và tai họa mà con người phải chịu đựng. Nó là
nguyên nhân gây ra sự lừa đảo, gian lận, nạn mãi dâm, đói nghèo, tội lỗi, đau
khổ và bao nhiêu tệ nạn xã hội khác. Đó là một xã hội bất chính và bất hợp lý
trong thực tiễn cần phải xóa bỏ, thay thế bằng một xã hội hồn mỹ - xã hội xã
hội chủ nghĩa.
R. Ơoen đã tiến hành thực nghiệm xã hội, bằng cách xây dựng các công xã
lao động. Nổỉ bật là ở Niu La Nác (Anh) và Inđiana (Mỹ). Trong tổ chức cơ sở
của xã hội mới, mọi thành viên sẽ sống như trong một gia đình. Nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của công xã được xây dựng trên cơ sở lao động tập thể, cộng
đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành viên...
Nhưng để có xã hội mới tốt đẹp, R. Ơoen cho rằng, cần phải có sự giúp đỡ
của những người lãnh đạo đất nước, những người giàu có.
2. Những giá trị và những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không
tưởng
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa xã hội khơng tưởng
Chủ nghĩa xã hội khơng tưởng có một quá trình phát triển lâu dài, từ chỗ là
những ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền
thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã hội - chính trị. Cống hiến lớn lao của
chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê
phán kịch liệt và ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ
quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của
những người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột ngày càng nặng nề.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã phản ánh được những ước mơ,
khát vọng của những giai cấp lao động về một xã hội cơng bằng, bình đẳng, bác
ái. Nó chứa đựng giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc thể hiện lịng u thương
con người, thơng cảm, bênh vực những người lao khổ, mong muốn giúp đỡ họ,
giải phóng họ khỏi nỗi bất hạnh.
Ba là, chủ nghĩa xã hội khơng tưởng bằng việc phác họa ra mơ hình xã hội
tương lai tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau
này
các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và
chứng minh chúng trên cơ sở khoa học. Ví dụ như những luận điểm: về tổ chức
sản xuất và phân phối sản phẩm; về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động trí óc với lao
động chân tay; về vai trị của cơng nghiệp; về giáo dục; về sự nghiệp giải phóng
phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước,...
Với những giá trị lịch sử trên mà chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là
của chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của
chủ nghĩa Mác.
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng và nguyên
nhân của
nó
- Những hạn chế:
Một là, chủ nghĩa xã hội khơng tưởng khơng giải thích được bản chất của
các
chế độ nơ lệ làm th. Đặc biệt là nó khơng thấy được bản chất của chế độ tư bản
chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của các
chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ ra được con đường,
biện pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã
hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã được sinh ra, lớn
lên và phát triển cùng với nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, đó là giai cấp
công nhân.
Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng muốn cải tạo xã hội bằng con đường
cải lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
- Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa xã hội không
tưởng một phần là do bản thân các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng cơ
bản là do điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Đó là, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín muồi, cơng nghiệp lớn chỉ mới
xuất hiện ở nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu thuẫn kinh tế cơ bản trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; giai cấp công nhân hiện đại chưa trưởng thành,
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp cơng nhân cịn ở trình độ thấp, nên mâu
thuẫn xã hội còn ẩn dấu chưa bộc lộ hẳn, quan hệ giai cấp và sự đối lập giữa giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản cịn ít phát triển. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã
chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch sử ấy cũng đã quyết định quan điểm của những người
sáng lập ra chủ nghĩa xã hội. Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là
một lý luận chưa chín muồi”.
Ngày nay, người ta khơng thể địi hỏi gì hơn ở những nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng khi mà những hạn chế của họ hoàn toàn do những điều kiện lịch sử
khách quan quy định.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội khơng tưởng có nhiều giá trị, song nó mắc phải những
hạn chế nên nó chỉ có vai trị tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản phát triển
tới quy mô rộng lớn, địi hỏi phải có một lý luận khoa học và cách mạng soi
đường, khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời thì các trào lưu của chủ nghĩa xã hội
không tưởng trở nên lỗi thời, bảo thủ, thậm chí cịn mang tính chất phản động,
cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống
giai cấp tư sản.
3. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học
3.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa
học) là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung với tính cách là sự luận chứng tồn
diện (triết học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị) về sự diệt vong tất yếu của
chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện
khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp cơng
nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hồn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện
tập trung nhất tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là
học thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
3.2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa xã hội khoa học
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt
được những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng
hiện thực cho những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản
chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại
trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một
lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng
giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt
đầu có tổ chức và trên quy mơ rộng khắp. Nó địi hỏi có một lý luận khoa học
hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa
của cơng nhân thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi
nghĩa của công nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh)
từ 1838 đến 1848. Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức
chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức thiết phải
xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
đã tỏ ra lỗi thời, khơng cịn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa - tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh
vực khoa học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của
M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết
bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của M. Lơmơnơxốp (Nga). Về khoa học xã
hội có: triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Ph. Hêghen, L. Phơbách), kinh tế chính
trị học Anh (tiêu biểu là Ađam Smít, Đ. Ricácđơ), chủ nghĩa xã hội khơng tưởng
- phê phán (tiêu biểu là H. Xanhximông, S. Phuriê và R. Ôoen). Những thành tựu
của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng - văn hóa cho
sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
3.3. Vai trị của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa
xã hội khoa học
- Các Mác (1818 - 1883)
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh
tụ và người thầy của giai cấp vơ sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 - 1895)
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công
nhân hiện đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến
vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai
phát kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa
học ra đời không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen
soạn thảo theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” - một tổ
chức công nhân quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca
tuyệt tác của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của
phong trào cơng nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình
bày một cách rõ ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”, theo
V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là kim chỉ nam cho hành động của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng sản mácxít - lêninnít
lấy tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” làm cơ sở cho việc xây dựng
đường lối chiến lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để
tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
4. Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
4.1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học (1848 - 1895)
Sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục
bổ sung, phát triển thêm nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và phong
trào cộng sản, đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp và Đức trong thời kỳ
1848 - 1851, qua theo dỏi, chỉ đạo và tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari
(1871), hai ông đã viết nhiều tác phẩm và thông qua các tác phẩm, hai ông đã
nêu lên những luận điểm hết sức quan trọng, làm phong phú thêm chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đó là những luận điểm sau:
- Giai cấp công nhân chỉ có thể chiến thắng giai cấp tư sản trên cơ sở đập
tan bộ máy nhà nước tư sản và kịp thời trấn áp những hành động phục hồi của
chúng.
- Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vơ sản và bản thân
nền chun chính đó cũng chỉ là bước quá độ để tiến lên xây dựng một xã hội
khơng có giai cấp.
- Giai cấp cơng nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi có được sự lãnh
đạo của một chính đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học.
- Liên minh công - nông là điều kiện cần phải có để đưa cách mạng đến
thắng
lợi.
- Trình bày về tư tưởng cách mạng không ngừng; về chiến lược, sách lược
đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân; về sự lựa chọn các phương pháp và hình
thức đấu tranh trong từng thời kỳ phát triển cách mạng; về các vấn đề xã hội chính trị mà cách mạng xã hội chủ nghĩa phải giải quyết; v.v...
4.2. V.I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa
học trong hồn cảnh lịch sử mới
Vlađimia Ilích Lênin (1870 - 1924) là người kế tục một cách xuất sắc sự
nghiệp vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen. Ông vừa bảo vệ sự trong sáng, vừa
phát triển toàn diện và làm giàu thêm lý luận chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch
sử mới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ơng là người
mácxít đầu tiên vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã
hội khoa học vào thực tiễn đấu tranh xây dựng chính quyền cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, cải tạo xã hội cũ và bắt đầu xây dựng một
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực. Ông là lãnh tụ của giai cấp công
nhân Nga và quốc tế, người sáng lập Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước
Xôviết.
Sự phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của
V.I.Lênin được chia thành hai thời kỳ cơ bản:
- Trước Cách mạng Tháng Mười Nga: Trên cơ sở những di sản lý luận của
C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã xây dựng một hệ thống lý luận mang tính
nguyên tắc cho các đảng mácxít kiểu mới của giai cấp cơng nhân. Đó là những lý
luận về chun chính vơ sản; về chính đảng kiểu mới; về liên minh công - nông;
về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga: Với yêu cầu của công cuộc xây dựng
chế độ mới, V.I. Lênin phân tích và làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ
quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; về mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với
phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân; về những vấn đề mang tính
quy luật của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về
vai trò của quần chúng,v.v.
Do cống hiến to lớn của V.I. Lênin đối với sự phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác, mà chủ nghĩa Mác đã phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
4.3. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi
V.I. Lênin từ trần
- Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản khác trên thế giới
Hơn 80 năm đã trôi qua kể từ sau khi V.I. Lênin từ trần, trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đã trải qua nhiều thử thách to lớn. Các Đảng
Cộng sản đã bảo vệ, phát triển sáng tạo những nguyên lý, những luận điểm có
tính ngun tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh lịch sử mới và
điều kiện cụ thể của mỗi nước. Dựa vào sự tổng kết, kinh nghiệm của nước
mình, các Đảng Cộng sản đã đóng góp vào các vấn đề cấp bách của thời đại,
vạch ra những vấn đề mang tính quy luật của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như các vấn đề của quá trình
cách mạng thế giới.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học nên một sự thật không thể phủ nhận là Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to
lớn trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong đó thắng lợi vĩ đại nhất là đã đưa
nhân loại thốt khỏi thảm họa phát xít, là tiền đề quan trọng nhất dẫn đến sự tan
rã của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là sự hình thành và phát triển, lớn mạnh của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu
tranh vì các mục tiêu của thời đại ngày nay trong suốt mấy thập kỷ qua.
Tuy nhiên, từ những năm 80 về sau, nhiều Đảng mắc phải nhiều sai lầm,
khuyết điểm, trong đó có vấn đề nhận thức. Đó là sự chậm trễ phát triển lý luận;
lý luận không theo kịp thực tiễn, lạc hậu nhưng lại chỉ đạo thực tiễn, v.v...Trong
cải tổ, các đảng cũng lại phạm tiếp sai lầm trong nhận thức. Đó là từ bỏ chủ
nghĩa xã hội khoa học, thực hiện đa nguyên chính trị và sự tồn tại đa đảng đối
lập, v.v... đã làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một số nước sụp đổ, tạo thế
bất lợi cho phong trào cộng sản. Những tổn thất đó hồn tồn khơng phải là do
sai lầm của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện
cũng đã vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, những
bài học kinh nghiệm của các đảng anh em, của chính bản thân cách mạng Việt
Nam vào hồn cảnh cụ thể của đất nước. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đã và đang thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động cách mạng nước ta trước kia, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Những đóng góp, bổ sung và phát
triển cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta có thể tóm tắt trên một số vấn đề cơ bản sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật
của cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại hiện nay;
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, đảm
bảo giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và mơi trường thuận lợi để đổi
mới và phát triển kinh tế, xã hội;
+ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Đây được xem như một nội dung cơ bản, thể hiện sự ưu việt của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đơi với giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, đi đơi với bảo vệ mơi trường sinh thái;
+ Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo,
mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng
lớn và thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;
+ Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế
giới, khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại;
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam - nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then
chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là phải coi trọng công tác
xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
5. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
5.1.Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học
- Trước hết, với ý nghĩa là tư tưởng, là lý luận, thì chủ nghĩa xã hội khoa
học nằm trong quá trình phát triển chung của các sản phẩm tư tưởng, lý luận mà
nhân loại đã sản sinh ra. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những đỉnh cao
nhất của các khoa học xã hội của nhân loại.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng nằm trong quá trình phát triển lịch sử tư
tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có
chọn lọc, phát triển những giá trị của chủ nghĩa xã hội khơng tưởng, tìm ra
những cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận
hợp thành: triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và chủ nghĩa
xã hội khoa học. Đây là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân hiện đại trong cuộc đấu tranh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin gắn bó, quan hệ biện
chứng với nhau để luận giải một cách toàn diện sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là tất yếu như nhau, nhằm trang bị cho
giai cấp công nhân và toàn
thể nhân dân lao động thế giới quan khoa học, phương pháp luận khoa học để
nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác - Lênin, với phát kiến vĩ đại đầu tiên là chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đã chỉ ra sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra trong lịch sử là
do sự phát triển của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau quyết định.
Kinh tế học chính trị Mác - Lênin, với phát kiến là học thuyết giá trị thặng
dư, đã làm rõ bản chất của giai cấp tư sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là
bóc lột giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân đã tạo ra. Giai cấp tư sản càng đẩy
mạnh phát triển kinh tế càng làm cho mâu thuẫn càng gay gắt giữa lực lượng sản
xuất mang tính xã hội ngày càng cao với tính chất chật hẹp của chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này là nguồn gốc
kinh tế cho sự diệt vong chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa xã hội khoa học, với tư cách là một trong ba bộ phận hợp thành
chủ nghĩa Mác - Lênin, là học thuyết xã hội - chính trị, trực tiếp nghiên cứu sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những điều kiện, những con đường để giai
cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên nền tảng lý luận chung và phương
pháp luận của triết học và kinh tế chính trị học mácxít để đưa ra những luận cứ
xã hội - chính trị rõ ràng, trực tiếp nhất để chứng minh, khẳng định sự diệt vong
tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, khẳng
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra những con đường, các hình
thức và biện pháp để tiến hành cải tạo xã hội theo hướng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản. Như vậy chủ nghĩa xã hội khoa học là sự tiếp tục một cách
lơgích triết học và kinh tế chính trị học mácxít, là sự biểu hiện trực tiếp mục đích
và hiệu lực chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn.
Nếu như triết học, kinh tế chính trị học luận giải tính tất yếu, những
nguyên nhân khách quan, những điều kiện để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ
nghĩa xã hội thì chỉ có chủ nghĩa xã hội khoa học mới đưa ra được câu trả lời cho
câu hỏi: bằng con đường nào để thực hiện bước chuyển biến đó.
5.2.Chức năng, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị tri thức khoa học, tri thức lý
luận (thế giới quan khoa học), đó là hệ thống lý luận chính trị - xã hội và phương
pháp luận khoa học mà chủ nghĩa Mác - Lênin để luận giải về quá trình tất yếu
lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học giáo dục tư tưởng chính trị về chủ
nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản và nhân dân lao động để
hình thành nên thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học định hướng chính trị - xã hội cho hoạt
động thực tiễn của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (kim
chỉ nam).
5.3.Ý nghĩa của việc học tập chủ nghĩa xã hội khoa học
- Về mặt lý luận
Trong tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp như: sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ
nghĩa xã hội thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, khơng ít người nghi ngờ
hoặc phủ nhận vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa học đối với cải tạo thực tiễn; vì
vậy, việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học có ý nghĩa lý luận to lớn là:
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị những nhận thức chính trị - xã hội
cho Đảng Cộng sản, Nhà nước, cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong quá trình bảo vệ và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Học
thuyết Mác khơng dừng lại ở chỗ giải thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế
giới. Học thuyết về cải tạo thế giới mà chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện rõ và trực
tiếp nhất là chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống
các học thuyết phản động, phi mácxít.
-Về mặt thực tiễn
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những cơ sở lý luận và phương
pháp luận của nhiều khoa học xã hội chuyên ngành, đồng thời là cơ sở lý luận
giúp cho các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế: xác định con đường đi, định
hướng hành động đúng đắn cho đường lối chiến lược, sách lược, chính sách phù
hợp với quy luật phát triển khách quan. Do đó, muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội phải vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội
khoa học.
CHƯƠNG 2
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
1.1. Khái niệm giai cấp cơng nhân (hay cịn gọi là giai cấp vô sản)
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của
một hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn
luôn phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất
định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người
vơ sản, mà cịn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp
vơ sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại
ra đời gắn liền với sự phát triển của đại cơng nghiệp, nó là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại cơng
nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai
cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước
đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị
bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền
bán sức lao động tùy theo cung - cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị
bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ
thuộc vào quy luật cung - cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao
động của chính ho. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị
giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai
cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản
xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình để sống”.
Dù giai cấp cơng nhân có bao gồm những cơng nhân làm những cơng việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai
tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những
người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày
càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là cơng nhân hiện đại thì phải gắn với nền
đại cơng nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công
nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp cơng nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp cơng nhân là những người vơ
sản hiện đại, khơng có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà
giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí
này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô
sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền. Nó khơng cịn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành
giai cấp thống
trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa. Giai cấp cơng nhân cùng với tồn thể nhân dân lao động làm chủ những
tư liệu sản xuất chủ yếu đã cơng hữu hóa. Như vậy họ khơng cịn là những người
vơ sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và
phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
cơng nhân như sau:
Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền đại cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ
phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực
lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biếu cho lực lượng
sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
1.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ
đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng
minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư
bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và
cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và giải phóng tồn thể nhân lọai khỏi mọi sự áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới
- xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp cơng nhân chỉ
có thể thốt khỏí ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư
sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp cơng nhân vĩnh viễn thủ tiêu
mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà cịn giải
phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng tồn thể
nhân loại.
Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản hiện đại”.
1.3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác, Ph. Ăngghen
viết:
“Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai cấp tư sản,
chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất
và chiếm hữu của nó. Trước hết, giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt
chôn nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất
yếu như nhau”. Giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh
tế - xã hội khách quan của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai
cấp công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa
cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là
người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất
mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu
hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp cơng nhân khơng có tư liệu
sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một
khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vơ sản) phải
chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của nó tùy thuộc
vào quan hệ cung - cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm thuê và phụ
thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và
ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó,
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng,
cơ bản, khơng thể điều hịa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất,
giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế
độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan của
họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng tồn thể
nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ khơng mất
gì ngồi xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân
trở thành giai cấp cách mạng triệt để mà cịn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đồn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết với các
giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đồn kết tồn thể
giai cấp cơng nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa
đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản thực sự cách
mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền
đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại cơng
nghiệp”.
2. Tính tất yếu, quy luật hình thành và vai trị của Đảng Cộng sản
Tự bản thân mình, giai cấp cơng nhân khơng thể thực hiện được sứ mệnh
lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, song để biến khả
năng khách quan thành hiện thực thì phải thơng qua những nhân tố chủ quan.
Trong những nhân tố ấy, việc thành lập Đảng Cộng sản với lý luận tiên phong,
trung thành với sự nghiệp, lợi ích giai cấp là nhân tố quyết định đảm bảo cho
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản.
2.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân, đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Đảng Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân
và các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách
rời với giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động.
2.2. Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản ra đời là tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai
cấp cơng nhân. Bởi vì, khi chưa có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp cơng nhân
chỉ có thể đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải
thiện sinh hoạt, chứ không phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp nhằm thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi nào giai cấp cơng nhân đạt tới trình độ tự
giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin thì mới đưa cuộc đấu tranh tự phát lên cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh
chính trị, đấu tranh với tư cách là một giai cấp để thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Muốn vậy, điều kiện quan trọng trước tiên là giai cấp cơng nhân phải tự
xây dựng lên chính đảng chính trị của mình, đó là Đảng Cộng sản..
2.3. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự
hình thành chính đảng của giai cấp cơng nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng
sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được
thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời
gian. Ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của
chủ nghĩa tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai
cấp tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
2.4. Vai trò của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ vai trò
lãnh đạo xã hội mà không tạo ra được trong hàng ngũ của mình một đảng chính
trị, lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp cơng nhân tự tổ
chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo giành
được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu khơng
có chính đảng lãnh đạo, giai cấp cơng nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát, đấu
tranh vì mục đích kinh tế, chứ khơng phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì
mục đích chính trị. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu
đảm bảo cho giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có
trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp cơng nhân và tồn thể
dân tộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để làm trịn vai trị đó,
Đảng Cộng sản phải là một đảng kiểu mới, một đảng mácxít - lêninnít.
3. Sự hình thành và những đặc điểm của giai cấp cơng nhân Việt
Nam. Vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.1. Sự hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành một nước
thuộc địa nửa phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột
nhân công rẻ mạt của chúng.
Sau khi đặt được ách thống trị trên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỷ XX,
thực dân Pháp cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm
mỏ, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền
trồng cây cơng nghiệp,...Từ đó, ở nước ta có một lớp người lao động mới ra đời đó là những công nhân làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành phố, các khu
công nghiệp. Năm 1906, nước ta có khoảng 5 vạn cơng nhân. Đến năm 1924,
cơng nhân đã có 22 vạn người.
Ở nước ta, với hồn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trước hết là phải lãnh đạo cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội vì mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh
đạo cách mạng Việt Nam
Giai cấp công nhân là một bộ phận của giai cấp cơng nhân quốc tế nên có
những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân quốc tế; ngồi ra, giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam
nên cịn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam:
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt Nam, là
giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một
nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một thứ
chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên
giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai
cấp cơng nhân thế giới, cịn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân,
song giai cấp cơng nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng
dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước,
đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Giai cấp công nhân khi ra đời
vừa chịu nỗi nhục mất nước, vừa bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc
nên họ có tinh thần cách mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối
quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp, giữa
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã
bế tắc về con đường cứu nước thì chỉ có giai cấp cơng nhân mới có khả năng tìm
thấy lối thốt cho cách mạng
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ xã hội mới trong lịch sử nhân
loại, đó là chế dộ xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm
ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản dưới
sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Đó là yếu tố hết sức quan trọng khích lệ,
thúc đẩy giai cấp cơng nhân Việt Nam đứng lên làm cách mạng để giải phóng
dân tộc.
- Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với nơng
dân và đơng đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam
sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh công - nông và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong
suốt quá trình cách mạng. Đây cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho cách
mạng Việt Nam giành được thắng lợi.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong trào
cơng nhân, làm cho phong trào cơng nhân có một bước phát triển nhảy vọt về
chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng chính
trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm
có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa,
cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên luôn ln
đồn kết, thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn địa chủ
phong kiến tay sai.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam, cho đến nay giai cấp cơng nhân Việt Nam cịn có những hạn chế
cần phải khắc phục: Số lượng cịn ít, trình độ văn hố, chuyên môn và nghiệp vụ
cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách làm ăn
tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần
đa số xuất thân từ nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về bản
chất nên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm
đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.
3.3. Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 - 02 - 1930. Do hoàn cảnh của
Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự
giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một
bước nhảy vọt về chất, lên một tầm cao mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy
nguyên tắc tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò
lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng
Việt Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân
Việt Nam hoàn thành từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử,
đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, xây dựng nước
ta theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh
đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng
cao năng lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn
luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội và mọi hành vi chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm
bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân”.
CHƯƠNG 3
XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa
1.1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một chế độ xã hội phát
triển cao nhất hiện nay, là chế độ có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu cơng cộng
về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo
thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư
bản; trên cơ sở hạ tầng đó có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của
nhân dân.
Cũng như mọi hình thái kinh tế - xã hội khác, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa có q trình phát triển từ thấp đến cao do sự trưởng thành về
kinh tế và các quan hệ xã hội phù hợp, thể hiện ở từng thời kỳ, giai đoạn khác
nhau, kế tiếp và thống nhất với nhau.
1.2. Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hợp quy luật. Sự thay thế đó có nguồn gốc kinh
tế - xã hội sâu xa, đó là miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa.
Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ
nghĩa:
Thứ nhất, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, dựa trên sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm cho lực lượng sản
xuất phát triển không ngừng với trình độ xã hội hóa ngày càng cao, vượt khỏi
giới hạn chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn kinh tế cơ