Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

QUAN ĐIỂM PHÁP LÝ TRONG LÝ LUẬN TƯ PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.47 KB, 42 trang )

QUAN ĐIỂM PHÁP LÝ CƠ BẢN KHI ÁP DỤNG TRONG LÝ LUẬN TƯ PHÁP
… hoặc cho một số loại người riêng biệt hoặc cụ thể

48

(48). Thay vào đó, hiện có một số ý

kiến tư pháp công nhận nghĩa này như là một trong các nghĩa của thuật ngữ liên quan

49

.

Việc từ ngữ có ý nghĩa rộng hơn thậm chí trong việc sử dụng ngồi phạm vi kỹ thuật thơng
thường được trình bày đầy đủ, tuy nhiên, với sự thật rằng, thuật ngữ “đặc quyền” được sử
dụng thường xuyên để thể hiện sự tương phản với quyền bình thường hoặc thơng thường.
Hơn thế nữa, ý nghĩa chi phối cụ thể của thuật ngữ này khi được sử dụng trong văn thoại
phổ biến dường như chỉ là sự phủ định nghĩa vụ. Điều này là rõ ràng trong thành ngữ ngắn
gọn và thường lặp lại, “Đó là quyền của bạn” – tất nhiên có nghĩa là, “bạn khơng có nghĩa
vụ phải thực hiện điều gì khác”.

48

Theo việc sử dụng trước đây, thuật ngữ “đặc quyền” thường được sử dụng để thể hiện việc “nhượng quyền

thương mại”, nhượng quyền thương mại là một tập hợp gồm nhiều quyền, đặc quyền, quyền hạn, hoặc quyền
miễn trừ, v.v. Do vậy, trong một quyển sách trước đó, Terms de la Ley, có định nghĩa như sau: “Đặc quyền” là
quyền tự do và quyền được nhượng cấp cho một văn phòng, địa điểm, khu phố, hoặc khu vực bởi Hiến pháp của
Vua, bản quyền thương hiệu, hoặc Luật của Quốc hội, như là phí, lợi ích, Socke, Infangtheefe, Outfangtheefe,
Turne, hoặc Delfe, và các dạng khác tương tự”.
Đối chiếu với Blades v Higgs (1865), 11 HL Cas., 621, 631, theo Lord Westbury: " Quyền tài sản đối với động vật


(ratione privilegii) là quyền được cấp bởi Vua chúa theo việc nhượng quyền khác thường và theo tinh thần của
đặc quyền, một người có thể đưa động vật hoang dã lên đất của người khác; và theo phương thức tương tự, cuộc
chơi, theo tinh thần của đặc quyền, trở thành tài sản tuyệt đối của chủ sở hữu quyền được nhượng”.
49

Xem Humphrey v Pegues (1872), 16 Wall., 244, 247, per Hunt, J.:

"Tất cả các 'đặc quyền' cũng như quyền hạn và quyền lợi của công ty trước, đã được cấp cho công ty sau. Một đặc
quyền rộng hơn và quan trọng hơn đặc quyền miễn thuế vĩnh viễn khó có thể hình dung được. Nó chứa các ý
tưởng thiết yếu của một lợi ích hoặc lợi thế riêng, một miễn trừ đặc biệt từ một trách nhiệm trút lên những người
khác. "
Xem thêm vụ kiện Smith v. Floyd (1893), 140 NY, 337, 342; Lonas v. State (1871). 3 Heisk, 287, 306.307;
Territory v. Stokes (1881), 2 NM, 161, 169, 170; Ripley v. Knight (1878), 123 Mass, 515, 519, Dike v. State
(1888), 38 Minn, 366; Re Miller (1893), 1 Q. B, 327.
Đối chiếu với vụ kiện Wisener v Burrell (1911), 28 Okla., 546.

-1/42-


Trong trường hợp đó, khơng ngạc nhiên khi nhận thấy, từ việc khảo sát rộng rãi các
tiền lệ tư pháp, nghĩa kỹ thuật chi phối của từ là, tương tự như vậy, phủ định nghĩa vụ pháp
lý 50.
Có hai ví dụ chung cho việc này, liên quan tới “đặc quyền truyền thông” theo luật về
phỉ báng và liên quan tới “quyền chống lại việc tự buộc tội” trong luật về chứng cứ. Liên
quan đến trường hợp đầu tiên, điều cơ bản là nếu một số nhóm sự kiện hoạt động đang hiện
hữu, một đặc quyền tồn tại mà, nếu không có sự kiện đó, sẽ khơng được cơng nhận 51. Tất
nhiên, nói một cách cơng bằng, rõ ràng là, mặc dù tất cả các sự kiện như giả định sau cùng,
việc dư thừa sự kiện cố ý phạm tội sẽ, trong trường hợp cịn được gọi là “đặc quyền có điều
kiện”, phủ định đặc quyền mà lẽ ra đã tồn tại. Phải xem chứng cứ rằng bất cứ khi nào đặc
quyền tồn tại, nó khơng phải là đặc biệt theo ý nghĩa phát sinh từ một điều luật cụ thể, hoặc

được ban tặng như là sự ưu ái đặc biệt cho một cá nhân cụ thể. Đặc quyền tương tự sẽ tồn
tại, theo tinh thần của các điều luật thông thường, cho bất kỳ người nào đang ở trong các
tình huống giống nhau. Vì vậy, trong luật về chứng cứ, đặc quyền chống lại việc tự buộc tội
cịn có nghĩa phủ định đơn thuần một nghĩa vụ phải chứng minh, - một nghĩa vụ qui cho
nhân chứng liên quan đến tất cả những vấn đề thông thường; và, khá rõ ràng, đặc quyền đó
phát sinh, nếu có, chỉ theo tinh thần của luật pháp thông thường 52.
Như được đề cập, khi cả quan điểm và thuật ngữ “đặc quyền” có những minh họa dễ
thấy theo luật về phỉ báng và luật về chứng cứ, tuy nhiên, chúng có ý nghĩa và việc tận dụng
rộng lớn hơn do việc sử dụng trong tư pháp. Để làm rõ điều này, một vài tiền lệ tư pháp
50

Đối chiếu với vụ kiện Louisville & N. R Co v. Gaines (1880), 3 Fed. Rep., 266, 278, per Baxter, Asso. J.: "

“Paschal nói (từ đặc quyền) là một quyền đặc biệt thuộc về một cá nhân hoặc nhóm cá nhân; nói một cách hồn
chỉnh, là được miễn một số nghĩa vụ.”
51

Mục đích sử dụng có thể cho các điều khoản, "đặc quyền" và "có đặc quyền" trong mối quan hệ với việc phỉ

báng, xem Hawkins, J., trong vụ kiện Allen v. Flood (1898), AC 1, 20-21.
52

Đối với các nghĩa vụ chung phải làm chứng, hoạt động cụ thể có thể thường đã bị cưỡng ép bởi thủ tục tố tụng

coi khinh thực tế hoặc có thể; và, ngồi ra, việc khơng làm chứng có thể là sự phạm pháp hoặc phải chịu một
trách nhiệm pháp lý theo luật định cho một hình phạt có lợi cho bên kiện hoặc bên bị thương tổn hoặc, trong
trường hợp có thiệt hại thực tế, phải chịu một quyết định pháp lý cho vụ án.
Chủ đề về nhân chứng thường được coi như là một phần của cái được gọi là pháp luật phụ trợ, khác biệt với cái
gọi là pháp luật cơ bản. Nhưng, như người viết đã có dịp nhấn mạnh vào một dịp khác (Các Quan hệ giữa Sự
công bằng và Luật, 11 Mich L. Rev, 537, 554, 556, 569), có vẻ là khơng có sự khác biệt về bản chất và thực chất

giữa các mối liên hệ pháp lý liên quan đến luật “cơ bản” và các khoản có liên quan đến “phụ trợ”. Vấn đề này sẽ
được xem xét đầy đủ hơn trong phần trình bày sau.

-2/42-


khác nhau sẽ được trình bày. Trong Vụ kiện Dow-man 53, được phán quyết vào năm 1583,
và được báo cáo bởi Coke, tòa án đã áp dụng thuật ngữ cho chủ đề chất thải:
“Và liên quan đến việc phản đối được đưa ra, rằng đặc quyền nêu trên, để không có
cáo buộc vi phạm về chất thải, phải có hành động cụ thể v.v. Theo đó vấn đề được trả lời và
giải quyết, rằng nếu thừa nhận một hành động trong vụ kiện đó là cần thiết, thì rõ ràng tất cả
các điền trang sẽ là tốt, mặc dù thừa nhận rằng điều khoản liên quan đến đặc quyền nêu trên
là vô hiệu.”
Trong vụ kiện lớn của Allen v. Flood 54, ý kiến của Thẩm phán Hawkins đã cung cấp
một viện dẫn hữu ích cho mục đích hiện đang xem xét:
“Mỗi người có một đặc quyền … liên quan đến tư pháp cơng để áp dụng luật hình
chống lại người khác mà họ, với lý do hợp lý và có thể chấp nhận, tin tưởng ngay tình là
người đó có tội … Tuy nhiên, không thể giả định rằng sự căm ghét và ác ý tồn tại trong ý
nghĩ của công tố viên sẽ là điều kiện cần để làm vơ hiệu đặc quyền, vì có thể rằng sự căm
ghét và ác ý đó có thể có lý do tự nhiên và có thể thơng cảm để tồn tại…”
Áp dụng thuật ngữ liên quan đến chủ thể tài sản, Thẩm phán Foster, thuộc Tịa án
Maine, đã nói trong vụ kiện Pulitzer v. Livingston 55:
“Trái ngược với chính sách của luật rằng nên có quyền sở hữu hiện thời, quyền tài
sản hoặc quyền hạn, mà sự tồn tại, hoạt động hoặc việc thực thi chúng trong một giai đoạn
thời gian kéo dài hơn tuổi thọ của một đời người và 21 năm và phần lẻ theo đó, quyền
hưởng dụng đầy đủ và không giới hạn đối với một tài sản, với tất cả các quyền, đặc quyền
và quyền hạn phát sinh ngẫu nhiên cho quyền sở hữu, nên được hạn chế hoặc ngăn cản.”
Như là một ví dụ cuối cùng cho vấn đề liên quan hiện thời, lý luận của Baron
Alderson trong Hilton v. Eckerley56 có thể được nêu ra:
“Rõ ràng đó là đặc quyền của một cơng ty thương mại trong một quốc gia tự do, trong tất cả

các vấn đề không trái ngược với luật, chi phối hành vi của chính họ trong việc thực hiện
chúng theo quyền tự quyết và lựa chọn của họ” 57.
53

"(1583) 9 Coke, 1.

54

(1898) A. C, 1, 19.

55

(1896) 89 Me., 359.

56

(1856) 6 E. & B, 47. 74.

57

Ví dụ khác cho khả năng sử dụng thuật ngữ liên quan, xem Borland v. Boston (1882), 132 Mass., 89 ("quyền,

đặc quyền, quyền hạn, nhiệm vụ của đô thị "); Hamilton v. Graham (1871), LR 2 HL (Sc), 167, 169, per
Hatherley, LC, Jones v. De Moss (1911), 151 Ia, 112, 117; Kripp v. Curtis (1886), 71 Cal, 62, 63;. Lamer v Booth
-3/42-


Nghĩa gần nhất với từ “đặc quyền” pháp lý có thể là “quyền tự do” pháp lý hoặc
“quyền tự quyết” pháp lý 57a. Điều này được thể hiện đầy đủ bởi một đoạn văn có tính giáo
huấn và đúng đắn trong phần ý kiến của Thẩm phán Cave trong vụ kiện Allen v. Flood 58:

“Quyền cá nhân mà chúng ta thường thấy nhất là: 1. Quyền được nổi tiếng; 2. Quyền
tự do và an toàn thân thể; 3. Quyền tài sản; hoặc, nói theo cách khác, quyền liên quan đến
tinh thần, thể chất và tài sản,…
“Trong phần lưu ý sau đó của tơi, từ “quyền” sẽ, ở mức độ có thể, luôn được sử dụng
trong ngữ nghĩa trên đây; và cần thiết phải duy trì việc này trong suốt cuộc tranh luận tại
câu lạc bộ Lordship, nó thường được sử dụng với nghĩa rộng hơn và không giới hạn. Do
vậy, có thể nói rằng một người đàn ơng cần phải có quyền đầy đủ để nổ súng, khi tất cả có
nghĩa rõ ràng là một người đàn ơng cần có quyền tự do và tự quyết để nổ súng, miễn là họ
không vi phạm quyền của bất kỳ người nào khác khi làm vậy, đây là việc rất khó khăn đối
với một quyền hạn, việc vi phạm hoặc sự náo động có thể được khắc chế hoặc ngăn cản bởi
qui trình pháp lý.” 59
(1874), 50 Miss, 411, 413; Weller v. Brown (1911), Cal.; 117 Pac, 517; Mathews v. People (1903), 202 Ill., 389,
-401; Abington v. North Bridgewater (1840), 23 Pick., 170. [Huntley v. Gaskell [1906] A.C., 56, 57 (“quyền, đặc
quyền và quyền miễn trừ”); Aikens v. Wisconsin (1904), 195 U.S., 194, 206 (Holmes, J.: “Khơng có hành vi nào
có quyền tuyệt đối để giải thích tất cả các trường hợp có thể mà hành vi nằm trong đó”).
57a

So sánh với thuật ngữ: “Tự do phát biểu”.

58

(1898) A. C, 1, 29.

59

Đối với các tài liệu tham khảo cho ý kiến của Thẩm phán Cave, tác giả hiện thời rất biết ơn cơng việc của

Salmond về khoa học pháp lý. Trích dẫn trường hợp này và một trường hợp khác, Starey v. Graham (1899), 1 QB,
406, 411, tác giả đã thông qua và sử dụng riêng thuật ngữ "tự do" để chỉ ra nghĩa đối ngược "nghĩa vụ", và dường
như nhìn ra tầm quan trọng của đặc quyền trong vấn đề liên quan hiện thời. Thật kì lạ và hơn thế nữa, trong bài

luận riêng của mình về Vi Phạm Pháp Luật, thảo luận của ông về luật phỉ báng không đưa ra gợi ý rõ ràng rằng
đặc quyền có liên quan đến chủ đề mà chỉ đơn thuần đại diện cho tự do, hoặc "khơng có nghĩa vụ".
Sir Frederick Pollock, trong số lượng bài viết của ông về khoa học pháp lý (2nd ed., 1904), 62, có vẻ như có hiệu
lực để phủ nhận rằng tự do pháp lý đại diện cho bất kỳ mối quan hệ pháp lý nào có thật như vậy. Vì vậy, theo ơng,
trong số những thứ khác "Các hành động có thể đúng, trong ý nghĩa phổ biến và thô sơ không bị cấm, nhưng tự
do khơng có đặc tính của quyền pháp lý cho đến khi chúng ta xem xét các nguy cơ can thiệp trái phép. Đây là
nhiệm vụ của tất cả chúng ta không can thiệp vào tự do hợp pháp của người láng giềng. Điều này đưa cái được
gọi là quyền nguyên thủy vào lĩnh vực luật lệ và bảo vệ pháp lý. Đôi khi người ta cho rằng quyền hạn hoặc tự do
hợp pháp khác với quyền không được can thiệp, nhưng với lý do chỉ cho ý kiến này, mặc dù chính đáng, dường
như khơng chính xác". So sánh với Pollock, các bài tiểu luận trong Luật học và Đạo đức (1882), Ch. I.
Tuy nhiên, rất khó để nhìn thấy lý do tại sao khi giữa X và Y, tình huống "đặc quyền + khơng có quyền" khơng
phải là một mối quan hệ luật pháp thực tế như là quan hệ đối kháng chính xác “nghĩa vụ + quyền” giữa hai bên.
-4/42-


Trong khi có nhiều ví dụ khác về khả năng sử dụng từ “quyền tự do” cả theo ý kiến
tư pháp

60

và theo các tài liệu truyền tải 61, khơng có tính phổ quát và hạn định cho một từ

như “đặc quyền”. Thuật ngữ trước đây thường được sử dụng theo nghĩa tự do về thể chất và
cá nhân (tức là, khơng có hạn chế về thể chất), khác biệt với một quan hệ pháp lý; và
thường có nghĩa rộng của tự do pháp lý thông thường, khác biệt với một quan hệ cụ thể
giữa hai cá nhân xác định. Ngoài những điều này, từ “đặc quyền” cho chúng ta một tiện ích,

Có lẽ là thói quen cơng nhận quan hệ thứ hai như là một sức bật quan hệ pháp lý theo xu hướng truyền thống để
nghĩ về pháp luật như là bao gồm "lệnh", hoặc các quy định bắt buộc. Tuy nhiên, điều này có vẻ ngụy biện. Một
quy định của pháp luật cho phép chỉ là thực khi quy định của pháp luật ngăn cấm, và, tương tự, nói rằng pháp luật

cho phép một hành động cụ thể cho X khi giữa X và Y khẳng định một quan hệ pháp lý là thật thì giống như khi
nói rằng luật cấm một hành động nào đó cho X như giữa X và Y. Điều này có vẻ như, trong một số biện pháp,
được xác nhận bởi thực tế là loại hành xử đầu tiên thường được công bố là “hợp pháp”, và loại thứ hai “không
hợp pháp”. Đối chiếu với trích dẫn trong vụ kiện Thomas v. Rorrel (1673), Vaughan, 331, 351, ghi chú 63.
60

Đối chiếu với vụ kiện Dow v. Newborough (1728), Comyns, 242 ("Đối với việc sử dụng chỉ là một quyền tự do

để có lợi nhuận, nhưng hai bên không thể tách riêng lợi nhuận trên cùng lơ đất, do đó khơng thể có việc “sử dụng
khi sử dụng” (use upon a use). Nên nhận thấy rằng trong trường hợp này và trường hợp được trích dẫn tiếp theo,
cùng với tự do hoặc đặc quyền cịn có các quyền và quyền hạn kèm theo v.v.;
Ví dụ, quyền để có được sở hữu đồ vật tách biệt với bất động sản) ; Bourne v. Taylor (1808), 10 East, 189
(Ellenborough, CJ) :. "Câu hỏi thứ hai là liệu việc tái tạo có nên thơng qua quyền tự do làm việc trên các khu
mỏ… Từ tự do ngụ ý cùng một sự việc. Nó tự thân ngụ ý rằng đó là một đặc quyền phải được thực thi đối với tài
sản của người khác”);Wickham v Hawkes (1840), 7 M. & W., 63, 78-79 ; Quinn v. Leathem (1901), AC 495, 534
(per Lord Lindley); Pollock v. Farmer, Loan & Trust Co (1895), 157 U.S., 429, 652 (per White, J., "quyền và tự
do") ; Mathews v. People (1903), 202 111, 389, 401 (Magruder, CJ : "Hiện đã được phân giải ổn thỏa rằng đặc
quyền ký kết hợp đồng là cả quyền tự do, và quyền tài sản”). [Ferris v. Frohman (1911), 223 U.S., 424, 432
(Hughes, J.: “Cấp cho tác giả quyền tự do duy nhất để in sách của mình”); Allgeyer v. Louisiana (1897), 165 U.S.,
578, 592 (Peckham, J.: “phải có quyền tự do để thực hiện hành động đó…”); Aikens v. Wisconsin (1904), 195
U.S., 194, 205 (Holmes, J.: “không thể cho rằng tự do để kết hợp việc bắt phải chịu một điều ác… nằm trong số
các quyền mà Bản Tu chính thứ 14 dự tính bảo tồn”)]
Để sử dụng trong tư pháp thuật ngữ liên quan, xem Luật Bản quyền, 8 Anne (1709) c. 19 (" Sẽ có quyền duy nhất
và quyền tự do in ấn mỗi cuốn sách và nhiều cuốn sách cho thời hạn của … ").
Giống như từ " đặc quyền" (xem ante p. 45, n. 48), thuật ngữ " tự do " đôi khi được sử dụng, đặc biệt là trong
những cuốn sách cũ, để chỉ ra một nhượng quyền thương mại, hoặc tổng hợp các đặc quyền, quyền, quyền hạn,
hoặc quyền miễn trừ. Vì vậy, trong Châm ngơn của Noy (1641) có định nghĩa này: "Tự do là một đặc ân hoàng
gia trong tay của một chủ thể, " và, tương tự, Blackstone (2 Com 37.) nói: " Nhượng quyền thương mại và quyền
tự do được sử dụng như là đồng nghĩa và định nghĩa của chúng là một đặc quyền của hoàng gia, hoặc một nhánh
trong đặc quyền của vua, tồn tại trong bàn tay của một chủ thể."

-5/42-


như là một thay đổi, của một tính từ “có đặc quyền”. Do vậy, thường tiện dụng khi nói một
hành động đặc quyền, một giao dịch đặc quyền, một chuyển nhượng đặc quyền, v.v.
Từ “giấy phép”, đôi khi được sử dụng như trong trường hợp từ này đồng nghĩa với
“đặc quyền”, tuy không phù hợp lắm. Điều này đơn giản là một trường hợp khác trong vô
số các trường hợp mà các yếu tố về thể chất và tinh thần thường bị lẫn lộn với quan hệ pháp
lý mà chúng tạo ra 61a. Để sử dụng một cách chính xác, “giấy phép” là một thuật ngữ chung
để chỉ một nhóm các sự kiện hoạt động cần có để tạo ra một đặc quyền cụ thể, - đây là
chứng cứ rõ ràng khi từ được sử dụng trong câu thông thường “leave and license” (đi và
được phép). Luận điểm này được đưa ra bởi một trích đoạn từ ý kiến của Thẩm phán Adam
trong vụ kiện Clifford v. O’Neill 62:
“Một giấy phép đơn thuần chỉ là sự cho phép thực hiện một hành động mà, nếu
khơng có sự cho phép đó, có thể dẫn đến một sự xâm lấn… cũng khơng tạo ra sự hưởng
dụng liên tục đặc quyền được cấp, cho bất kỳ giai đoạn thời gian nào làm cho nó phát triển
thành một quyền lợi hữu hình trong đất bị ảnh hưởng” 63.
Định nghĩa này được trích dẫn trong S. F. Waterworks v. Schottler (1882), 62 Cal. 69, 106, and Central R. &
Banking Co v. State (1875), 54 Ga, 401, 409. Nên đối chiếu thêm vụ kiện Rex v. Halifax & Co (1891), 2 QB, 263.
61

Đối chiếu với vụ kiện Proud v. Bates, 34 LJ (NS), 406 (" Với đầy đủ sức mạnh và tự do để đánh sập, giành

chiến thắng và làm việc như nhau, với tất cả các quyền tự do, đặc quyền, v.v., cần thiết và thuận tiện ", v.v.) ;
Hamilton v. Graham (1871), L R. 2 HL (Sc), 166, 167 ;. Attersoll v. Stevens (1808), 1 Taunt, 183 ; Wickham v
Hawker (1840), 7 M. & W., 63, 78-79.
61a

Xem, ví dụ như, Lurton, J., trong City of Owensbor v. Cumberland Telephone, v.v., Co. (1913), 230 U.S., 58,


64; 33 Sup. Ct., 988, 990: “Việc quyền được cấp bởi luật liên quan là một thứ gì đó nhiều hơn một giấy phép đơn
thuần, là rõ ràng. Một giấy phép thường được định nghĩa chỉ như là một quyền cá nhân đơn thuần để thực hiện
các hành động trên đất của bên cấp phép và có tính tạm thời, và có thể thu hồi theo ý chí của bên cấp phép trừ khi,
theo một số thẩm quyền, trong lúc đó, các khoản phí tổn được dự tính bởi bên cấp phép khi giấy phép được cấp,
đã được thực hiện.”
62

(1896) 12 ứng dụng. Div, 17, 42 N. Y. Sup, 607, 609.

63

Xem, nếu được, đoạn văn trích dẫn trong vụ kiện Thomas v. Sorrell (1673), Vaughan, 331, 351 ("Việc miễn

thực hiện hoặc giấy phép sẽ không qua được quyền sở hữu, cũng không thay đổi hoặc chuyển nhượng tài sản
thuộc bất kỳ loại nào, nhưng chỉ thực hiện một hành động hợp pháp, mà nếu khơng có nó, xem như vi phạm pháp
luật. Như một giấy phép, việc đi ra ngoài các vùng biển, việc săn trong khu vực công viên của một người, việc đi
vào ngôi nhà của họ, chỉ là hành động, mà nếu khơng có giấy phép đó, đã là vi phạm pháp luật. ").
Đối chiếu thêm trong Taylor v. Waters (1817), 7 Taunt., 374, 384 ("Nhiều trường hợp chứng minh rằng một giấy
phép để tận hưởng một đặc quyền thụ hưởng trong đất có thể được cấp, và, bất kể pháp luật về gian lận, mà
khơng có văn bản”. Trong trường hợp này, giấy phép (sự kiện hoạt động) ít nhiều gây nhầm lẫn với đặc quyền
-6/42-


Quyền hạn và trách nhiệm. Như được trình bày trong hệ thống quan hệ pháp lý ban
đầu, một quyền pháp lý (tất nhiên khác với quyền thể chất và tinh thần) là đối lập với việc
không đủ tư cách pháp lý, và tương ứng với trách nhiệm pháp lý. Nhưng điều gì là bản chất
nội tại của một quyền hạn pháp lý? Có thể phân tích ý niệm được đại diện bởi từ rất quan
trọng và được sử dụng thường xun này trong phần thuyết trình pháp lý hay khơng? Sự
phân tích này quá gần với sự trừu tượng hơn là hữu dụng; do vậy cái được trình bày tại đây
chỉ nhằm mục đích như là một lời giải thích gần đúng, nhưng đủ cho tất các mục đích thực

tế.
Một thay đổi trong một quan hệ pháp lý xác định có thể phát sinh (1) từ một số sự
kiện hoặc nhóm sự kiện dư thừa khơng theo ý chí kiểm soát của một người (hoặc nhiều
người); hoặc (2) từ một số sự kiện hoặc nhóm sự kiện dư thừa theo ý chí kiểm sốt của một
hoặc nhiều người. Đối với loại trường hợp thứ hai, người (hoặc nhiều người) mà ý chí kiểm
sốt của họ là tối thượng có thể xem như có quyền hạn (pháp lý) ảnh hưởng đến sự thay đổi
cụ thể các quan hệ pháp lý có liên quan trong một vấn đề.
Loại trường hợp thứ hai này – quyền hạn theo ý nghĩa kỹ thuật – phải được xem xét
thêm. Từ đồng nghĩa gần nhất cho trường hợp thông thường dường như là “năng lực” (pháp
lý)

64

– năng lực rõ ràng là đối nghĩa với “mất năng lực” hoặc “ khơng có năng lực”. Từ

“quyền”, được sử dụng khá thường xuyên và lỏng lẻo trong vấn đề liên quan hiện thời, là
một từ khơng thích hợp cho mục đích đó, - một kết quả khơng bất thường là sự lúng túng
trong suy nghĩ cũng như sự nhập nhằng của một thuật ngữ 65. Từ “khả năng” cũng không
(các quan hệ pháp luật được tạo ra); Heap v Hartley (1889), 42 Ch. D., 461, 470.
[Xem thêm tiểu luận về Phân tích khuyết điểm trong Quyền trên bất động sản và Trường hợp cấp phép, được in
lại – ED.]
64

Đối chiếu với Remington v. Parkins (1873), 10 RI, 550, 553, per Durfee, J.: "Một quyền lực là một khả năng

để làm."
65

Xem People v. Dikeman (1852), 7 Howard Pr, 124, 130;. Và Lonas v. State (1871), 3 Heisk (Tennessee),


287,306-307, trích dẫn ante, p. 37
Xem thêm Mabre v Whittaker (1906), 10 Washington, 656, 663 (Luật pháp Washington năm 1871 được cung cấp
liên quan đến tài sản cộng đồng: "Người chồng có trách nhiệm quản lý tất cả các tài sản chung, nhưng sẽ khơng
có quyền bán hoặc gây trở ngại cho bất động sản, ngoại trừ ông được tham gia vào việc bán hay việc gây trở ngại
cho bất động sản của người vợ. … " Per Scott, J.:" 'quyền' trong nghĩa sử dụng có nghĩa là quyền lực ").
Đối chiếu thêm St. Joseph Fire & Marine Ins. Co v. Hanck (1876), 63 Mo, 112. 118.
Vô số các trường hợp bổ sung có thể được đưa ra cho việc sử dụng các thuật ngữ "quyền", khi mà số lượng định
pháp lý liên quan thực sự là một quyền hạn chứ không phải là một quyền theo nghĩa của tuyên bố.
-7/42-


phù hợp; như chúng ta đã thấy, khi được sử dụng với sự phân biệt, từ này thể hiện một
nhóm các sự kiện hành động cụ thể, và không phải là một quan hệ pháp lý thuộc bất kỳ loại
nào.
Nhiều ví dụ về quyền hạn pháp lý có thể dễ dàng đưa ra. Do vậy, X, chủ sở hữu của
tài sản cá nhân thông thường “theo dạng một vật thể hữu hình” có quyền hủy bỏ quyền lợi
pháp lý của chính mình (quyền, quyền hạn, quyền miễn trừ, v.v) thơng qua toàn bộ các sự
kiện hoạt động được biết như là sự từ bỏ; và – một cách đồng thời và tương quan - tạo ra
đặc quyền và quyền hạn cho người khác liên quan đến vật thể bị từ bỏ, - ví dụ quyền để có
được sở hữu cho người khác bằng việc phân phát vật thể đó

66

. Tương tự, X có quyền

chuyển phần sở hữu của mình cho Y, - đó là sự hủy bỏ quyền lợi của chính mình và đồng
thời tạo ra cho Y một quyền sở hữu mới tương ứng 67. Do vậy X còn có quyền tạo ra nghĩa
vụ các loại theo hợp đồng.
Các vụ kiện đại lý có tính cách truyền đạt kiến thức. Bằng việc sử dụng thuật ngữ ẩn
dụ chẳng hạn như tiếng Latin, qui facit per alium, facit per se (người hành xử thơng qua

người khác cũng là tự chính mình hành xử), bản chất thật của quan hệ đại lý thường rất mờ
mịt. Việc tạo ra một quan hệ đại lý bao gồm, trong số những thứ khác, việc cấp quyền hạn
pháp lý cho bên được gọi là đại lý, và việc tạo ra trách nhiệm tương quan cho người chủ
chính 68. Có thể nói, một bên, P, có quyền tạo ra quyền đại lý cho bên kia, A, - ví dụ, quyền
để chuyển nhượng tài sản của bên P, quyền thanh toán nợ với bên P, quyền nhận “sở hữu”
66

67

Lưu ý rằng việc từ bỏ sẽ để lại cho chính X các đặc quyền và quyền hạn như bất kỳ người nào khác.
Đối chiếu với vụ Wynehamer v. People (1856), 13 NY, 378, 396 (Comstock, J.: "Tôi không thể hình dung khái

niệm về tài sản mà khơng bao gồm các tính chất cơ bản và các thuộc tính mà nó được cung cấp bởi pháp luật của
xã hội … trong đó cơ bản là quyền của bên chiếm hữu hoặc chủ sở hữu để sử dụng và tận hưởng (các vật thể) một
cách độc quyền, và quyền tuyệt đối của mình để bán và thanh lý chúng”; Bartemeyer v Iowa (1873), 18 Wall,
129, 137
(Field, J.: "Quyền sở hữu một đồ vật bao gồm quyền bán và thanh lý đồ vật đó cũng như sử dụng và tận hưởng nó
"); Low v. Rees Printing Co. (1894), 41 Neb, 127, 146 (Ryan, C.: "Tài sản, theo theo nghĩa rộng của nó, khơng
chỉ là vật thể hữu hình có thể tùy thuộc vào quyền sở hữu, mà còn là quyền thống trị, sở hữu, và quyền thanh lý
có thể có được theo đó").
Do Quyền chuyển nhượng thường xuyên là một trong những yếu tố cơ bản của một quyền sở hữu hợp pháp phức
hợp (hoặc tổng tài sản), rõ ràng rằng một điều luật để hủy bỏ quyền hạn như vậy có thể, trong một trường hợp
nhất định, là vi hiến khi tước đoạt của chủ sở hữu tài sản không theo đúng thủ tục của pháp luật. Xem các trường
hợp mới được trích dẫn.
68

Đối với trường hợp điển hình thể hiện bản chất quyền hạn của đại lý, đặc biệt là quyền “kết hợp lợi ích”, xem

Hunt v Rousmanier (1883), 8 Wheat, 173, 201.
-8/42-



tài sản mà họ sẽ cấp cho bên P, và tương tự. Trong việc chuyển giao, có thể thấy rằng thuật
ngữ “thẩm quyền”, thường được sử dụng trong các vụ kiện đại lý, là rất nhập nhằng và khó
xử theo nghĩa rộng của nó. Được sử dụng hồn hảo trong mối tương quan hiện thời, từ đó
có vẻ như là một thuật ngữ định tính hoặc trừu tượng so với “sự cho phép” cụ thể, - từ sau
bao gồm một nhóm các sự kiện hoạt động cụ thể với quyền hạn và đặc quyền tạo ra cho đại
lý 69.
Sự phân biệt cẩn thận giữa các chi tiết này sẽ, nếu được đệ trình, đi xa hơn trong việc
làm rõ một số vấn đề trong luật đại lý 70.

Thật thú vị khi lưu ý rằng trong Bộ luật Dân sự Đức, các quy định liên quan đến đại lý được thể hiện trong các
điều khoản của quyền hạn, - ví dụ như, Phần 168: "Việc hết hạn quyền lực được xác định bởi các mối quan hệ
pháp lý mà từ đó việc tạo ra quyền lực được thiết lập. Quyền hạn cũng bị hủy bỏ trong trường hợp sự tiếp tục tồn
tại mối quan hệ pháp lý, trừ khi một cái gì đó khác phát sinh từ quan hệ pháp lý”.
Một cách ngẫu nhiên, cịn có thể nhận thấy, đó là một vấn đề của việc sử dụng tiếng Anh, thuật ngữ "giấy ủy
quyền" đã, bằng cách kết hợp các ý tưởng, xuất hiện để được sử dụng cho việc chỉ định một công cụ hoạt động
tạo ra các quyền hạn của một đại lý.
69

Về ví dụ của việc sử dụng lỏng lẻo và khó hiểu của thuật ngữ "thẩm quyền" trong trường hợp đại lý, - và rằng,

trong các vấn đề xung đột luật pháp yêu cầu sự lý luận chặt chẽ nhất, - xem Pope v. Nickerson (1844), 3 Story,
465, 473, 476, 481, 483 ; Lloyd v Guibert (1865), 6 B. & S " 100, 117, King v. Sarria (1877), 69 NY, 24, 28, 3032 ; Risdon, v.v., Works v. Furness (1905), 1 K. B. 304 ; (1906) 1 K. B. 49.
Đối với việc chỉ trích các trường hợp liên quan đến vấn đề hiện tại, xem bài viết của tác giả: Trách nhiệm cá nhân
của cổ đông và Xung đột luật pháp (1909), 9 Columb. L. Rev, 492, 512, n. 46, 521, n. 71, 10 Columb. L. Rev,
542-544.
70

Sự hiểu biết rõ ràng và công nhận mối quan hệ đại lý như là có liên quan đến việc tạo ra các quyền hạn pháp lý


có thể rất quan trọng trong nhiều trường hợp, - đặc biệt là, như đã trình bày, liên quan đến các vấn đề trong xung
đột luật pháp. Ngoài những trường hợp trong các lưu ý trước đó, hai trường hợp khác có thể được giới thiệu đến,
Milliken v. Pratt (1878), 125 Mass, 374, trình bày mà khơng phân tích các vấn đề đại lý, và, mặt khác, vụ phúc
thẩm của Freeman (1897), 68 Conn, 533, liên quan đến một phân tích cẩn thận về mối quan hệ đại lý bởi
Baldwin, J. Led bằng cách phân tích này để đạt được một quyết định về cơ bản ngược lại quyết định của trường
hợp Massachusetts, thẩm phán đã nói, trong số những thứ khác:
"Đó là, về hiệu lực, hành động mà bà Mitchell đã tiến hành làm những gì mà bà khơng có năng lực pháp lý để
làm, bằng cách làm cho chồng trở thành đại lý của mình để cung cấp bảo lãnh cho các ngân hàng. Ơng khơng có
nhiều quyền lực hơn, để làm cho nó hoạt động bằng cách cung cấp tại Chicago cho một trong những chủ nợ của
ông ở Illinois, là ông lẽ ra đã có để làm cho nó hoạt động bằng cách cung cấp tại đây, nếu nó được rút cho một
trong các chủ nợ của ơng tại Connecticut. Đó khơng phải là nơi chuyển giao việc kiểm sốt, mà là quyền chuyển
giao”.
-9/42-


Sự tương đồng về bản chất với quyền của đại lý là các quyền chỉ định liên quan đến
sở hữu tài sản. Cũng như vậy, quyền của các viên chức cơng, được xem xét về thực chất, là
có thể so sánh với các quyền của đại lý,- ví dụ, quyền của cảnh sát để bán tài sản theo lệnh
của tòa. Quyền của người tài trợ, trong vấn đề tặng quà trước khi qua đời, thu hồi lại quà
tặng và miễn trừ tư cách của người được tặng quà là một ví dụ rõ ràng khác về định lượng
pháp lý hiện đang được xem xét 71; quyền bán pháp định của bên nhận thế chấp cũng như
vậy 72.
Mặt khác, có trường hợp khi bản chất thực của quan hệ liên quan quan có lẽ đã
khơng được cơng nhận rõ ràng như vậy. Do vậy, trong trường hợp bán tài sản có điều kiện,
giả định rằng thỏa thuận của bên mua đã được thực hiện đầy đủ ngoại trừ việc thanh toán
khoản trả từng phần sau cùng và thời điểm cho khoản thanh toán từng phần sau cùng đã
đến, vậy đâu là phần sở hữu của bên mua liên quan đến tài sản? Có phải họ, vẫn theo giả
định thơng thường, chỉ có quyền theo hợp đồng để quyền sở hữu được chuyển cho họ bởi
sự đồng ý của bên bán, khi việc thanh toán cuối cùng được thực hiện; hoặc họ, bất kể sự

đồng ý của bên bán, có quyền miễn trừ tư cách sở hữu của bên án và có được quyền sở hữu
đầy đủ cho chính họ?
Mặc dù ngơn ngữ của các trường hợp không phải lúc nào cũng rõ ràng như nó có thể,
bên mua có vẻ như đúng là có loại quyền đó 73. Xem xét một cách cơ bản, giao dịch điển
Xem Emery v. Clough (1885), 63 NH, 552 ("quyền hoặc quyền hạn của sự hủy bỏ).
Xem Hudgens vv Chamberlain (1911), 161 Cal., 710, 713, 715. Để có một ví dụ khác về quyền hạn theo luật
định, xem Capital, v.v., Bk. v. Rhodes (1903), 1 Ch. 631, 655 (quyền hạn theo hành vi đăng ký.).
71
72

73

Mặc dù có sự mơ hồ về thuật ngữ "quyền" được sử dụng bởi các tịa án, đó là chứng cứ rằng quyền hạn là

những giá trị lượng định thực tế có liên quan.
Như vậy, trong vụ kiện Carpenter v. Scott (1881), 13 RI, 477, 479, tòa án cho biết, bởi Matteson, J. : " Theo đó
(việc bán có điều kiện) những người mua khơng chỉ có quyền sở hữu và sử dụng, mà cịn có quyền để trở thành
chủ sở hữu tuyệt đối khi tuân thủ các điều khoản của hợp đồng. Đây là những quyền mà khơng có hành động nào
của các nhà cung cấp có thể tước bỏ các quyền đó khỏi bên mua, và quyền mà, trong trường hợp khơng có bất kỳ
quy định nào trong hợp đồng hạn chế bên mua, bên có thể chuyển nhượng bằng hình thức bán hoặc thế chấp. Sau
khi thực hiện các điều kiện của việc mua bán, quyền sở hữu tài sản sẽ cấp cho bên mua, hoặc trong trường hợp họ
đã bán được, hoặc thế chấp tài sản đó, cho người mua của họ, hoặc người nhận thế chấp của họ, mà khơng phải có
thêm hóa đơn bán…. Những quyền này tạo thành một quyền sở hữu thực tế, hiện thời cho tài sản, mà, như chúng
ta đã thấy ở trên, chúng có thể được chuyển nhượng bằng cách bán hoặc thế chấp. "
Thật thú vị khi nhận thấy rằng trong đoạn văn trên đây, thuật ngữ "quyền" là lần đầu tiên được sử dụng để chỉ ra
đặc quyền sở hữu và sử dụng ; tiếp theo thuật ngữ được sử dụng chủ yếu trong ý nghĩa của quyền lực pháp lý,
mặc dù có thể có sự pha trộn một phần ý tưởng này với các yêu cầu pháp lý, hoặc quyền (trong ý nghĩa hẹp), sau
đó thuật ngữ (theo dạng số nhiều) được sử dụng lần thứ ba để gom lại đặc quyền, quyền hạn và yêu cầu của người
-10/42-



hình thơng qua bên thứ ba mà theo đó việc thực hiện các điều kiện là nằm trong phạm vi ý
chí kiểm sốt của bên được cấp, cũng giống một phần với việc bán tài sản có điều kiện; và,
khi được giảm xuống các điều kiện thấp nhất, vấn đề xem như dễ dàng giải quyết theo
quyền hạn pháp lý. Khi “việc thơng qua bên thứ ba” được hình thành, bên cấp vẫn sẽ có
quyền sở hữu pháp lý; nhưng bên được cấp có quyền khơng hủy ngang để xóa bỏ quyền sở
hữu đó bằng việc thực hiện một số điều kiện (tức là, bổ sung các sự kiện hoạt động), và
đồng thời cấp quyền sở hữu đó cho chính họ. Khi quyền đó vẫn đang hiện hữu, bên cấp tất
nhiên phải chịu trách nhiệm tương quan về việc quyền sở hữu của họ bị hủy bỏ 74. Tương
tự, trong trường hợp chuyển nhượng đất đai có tính phí đơn giản tùy thuộc vào điều kiện
sau đó, sau khi điều kiện được thực hiện, bên cấp ban đầu thường nói là có một “quyền đi
vào”. Nếu vấn đề được phân tích, có thể thấy rằng, xét về yếu tố quan trọng cơ bản, bên cấp
có hai quyền định lượng pháp lý, (1) đặc quyền đi vào, và (2) quyền, do việc đi vào đó, hủy
bỏ quyền tài sản của bên được cấp 75. Quyền tài sản của bên được cấp sẽ kéo dài, tùy thuộc
vào trách nhiệm tương quan về việc hủy bỏ, cho đến khi quyền đó được thực thi thật sự 76.
Chuyển đến phạm vi hợp đồng, giả định A gởi thư cho B đề nghị bán đất của bên A,
một lô đất, cho bên B với giá 10,000 đơ la, thư đó được nhận đầy đủ. Các sự kiện hoạt động
được đề cập đã tạo ra quyền cho bên B và trách nhiệm tương quan giữa A và B bằng việc bỏ
thư chấp nhận vào thùng thư, là đã có quyền áp đặt một nghĩa vụ khởi đầu hoặc có thể từ
hợp đồng cho bên A và chính họ; và, giả định rằng lơ đất có giá 15,000 đô la, số định lượng
mua.
Đối với trường hợp khác cho thấy về bản chất đặc tính thật sự của quyền lợi của bên mua, xem Christensen v.
Nelson (1901), 38 hoặc. 473. 477, 479, trình bày thực tế rằng quyền hạn của bên mua cũng như đặc quyền có thể
chuyển nhượng cho bên khác, và rằng thủ tục mua đầy đủ đã tạo thành việc “tương đương với việc thanh toán”.
74

Xem Davis v. Clark (1897), 58 Kan 100 ; Pac 48, 563, 565 ; Leiter v. Pike (1889), 127 111, 287, 326 ; Welstur

v. Trust Co (1895), 145 NY, 275, 283 ; Furley v. Palmer (1870), 20 Oh. St, 223. 225.
Một đề xuất mà quyền hạn của người được cấp là không thể thu hồi sẽ phải tùy thuộc vào tiêu chuẩn rằng nó có

thể được hủy bỏ (hoặc chỉnh sửa đến một mức độ nào đó) do kết quả của một giao dịch giữa bên cấp và bên mua
có tư cách ngay tình, hoặc tương đương.
Hầu như khơng cần thiết phải nói thêm rằng các tịa án, thay vì phân tích vấn đề giao kết bên thứ ba bằng các
thuật ngữ về quyền hạn, như chỉ ra ở đây, đã quen thuộc với việc công bố vấn đề và quyết định bằng các thuật
ngữ “cung cấp”, “quan hệ trở lại”, “thực hiện các điều kiện”, v.v.
Trong mối liên hệ này, đáng chú ý là, Sugden, trong cơng trình của mình viết về Quyền hạn (8 ed., 1861) 4,
việc sử dụng, trái với thông lệ chung, thuật ngữ “Quyền đi vào do điều kiện bị phá vỡ”.
76
Đối với trường hợp các quyền hạn khác, xem ý kiến hợp lý trong Bk. S. Australia v. Abrahams, LRP C, 265 ;
Barlow v Ross (1890) 24 Q. B. D., 381, 384.
75

-11/42-


pháp lý cụ thể – theo quan hệ “quyền cùng với nghĩa vụ” của bên A và B – sẽ có giá là
5,000 đơ la cho bên B. Trách nhiệm của bên A là sẽ tiếp tục trong thời hạn hợp lý trừ khi,
khi thực thi quyền hạn của mình phải làm vậy, bên A đã hủy bỏ việc đó trước đó bằng chuỗi
các sự kiện hoạt động được biết đến như là “thu hồi” 77. Các vấn đề sau cùng này thường
được mơ tả bằng cách nói rằng “đề nghị” của bên A sẽ “tiếp tục” hoặc “vẫn để ngỏ” trong
một thời gian phù hợp, hoặc trong thời gian xác định được nêu rõ, trừ khi bên A trước đó đã
“rút lại” hoặc “thu hồi” đề nghị đó

78

. Trong khi đó, khơng nghi ngờ rằng trong đa số các

trường hợp, khơng có thiệt hại nào phát sinh từ việc sử dụng các thuật ngữ đó, các mẫu
tuyên bố này có vẻ như là một hỗn hợp các giá trị định lượng pháp lý và phi pháp lý mà,
trong bất kỳ vấn đề nào yêu cầu sự lý luận đầy đủ, phải được giữ riêng biệt. Một đề nghị,

được xem như một chuỗi các sự kiện hoạt động thể chất và tinh thần, đã hết hiệu lực và hết
hạn ngay sau khi các chuỗi sự kiện đó được hồn thành bằng “việc chấp nhận của bên được
đề nghị”.
Do vậy, vấn đề thực tế có liên quan đến hiệu lực pháp lý, tại thời điểm đó. Nếu hiệu
lực pháp lý bao gồm quyền hạn của bên B và trách nhiệm tương quan của bên A, rõ ràng đó
sẽ là các quan hệ pháp lý mà chúng vẫn “tiếp tục” hoặc “để ngỏ” cho đến khi được thay đổi
bằng việc thu hồi hoặc bằng các sự kiện hoạt động khác

78a

. Điều đã nói liên quan tới các

hợp đồng được hồn thành bằng thư sẽ xem như được áp dụng, với những chỉnh sửa phù
hợp về chi tiết, cho mỗi loại hợp đồng. Thậm chí khi các bên ngồi lại với nhau, đề nghị vẫn
tạo ra một trách nhiệm cho bên đề nghị, cùng với một quyền hạn tương quan dành cho bên
được đề nghị. Sự khác biệt duy nhất cho mục đích hiện thời nằm trong sự thật rằng quyền
hạn và trách nhiệm đó có thể hết hạn trong một giai đoạn thời gian rất ngắn.

77

Liên quan đến nghĩa vụ "mới bắt đầu", xem Frost v Knight (1872) LR 7 Ex. 111, per Cockburn, CJ. Vấn đề

này sẽ được lưu ý nhiều hơn trong phần thảo luận sau.
78

Đối chiếu với Boston R. Co. v. Bartlett (1849), 3 Cush, 225:. "Mặc dù các văn bản có chữ ký của bị đơn là một

lời đề nghị, và một đề nghị có thể bị thu hồi, nhưng trong khi mà nó vẫn có hiệu lực và chưa được thu hồi, đó vẫn
tiếp tục là một đề nghị, trong thời gian có giới hạn cho việc chấp nhận, và trong tồn bộ phần cịn lại của thời
gian, đó vẫn là một đề nghị có tính chất tức thời; nhưng ngay khi nó được chấp nhận, nó khơng cịn là một đề

nghị nữa”.
Đối chiếu thêm với các mẫu trong báo cáo của Ashley, Contracts (1911), 16 et. Seq.
78a

[Xem báo cáo rõ ràng của Holmes, J., trong Brauer v. Shaw (1987), 168 Mass., 198, 200: “bằng việc lựa chọn
và hành vi của họ, họ đã tạo ra mối quan hệ giữa họ và nguyên đơn mà nguyên đơn có thể làm cho mối quan hệ
đó trở thành hợp đồng bằng hành vi từ phía họ…”]
-12/42-


Có lẽ lời giải thích thực tế cho phương pháp phân tích này có tính bao qt hơn trong
quan hệ với chủ thể quyền chọn. Trong cơng trình của mình về Hợp đồng 79, Langdel đã
nói:
“Nếu bên đề nghị qui định rằng đề nghị của họ sẽ vẫn để ngỏ cho thời hạn cụ thể,
vấn đề đầu tiên là qui định đó có tạo thành một hợp đồng ràng buộc hay không … Khi một
qui định như vậy là ràng buộc, sẽ có vấn đề phát sinh thêm, rằng đề nghị đó có phải là
khơng hủy ngang hay khơng. Ý kiến thông thường cho rằng đề nghị là không hủy ngang,
nhưng điều đó rõ ràng là một sai lầm. … Một đề nghị chỉ là một trong các thành tố của hợp
đồng; và cần thiết phải thực hiện một hợp đồng rằng thiện chí của các bên theo hợp đồng
đã, trong ý định pháp lý, xảy ra tại thời điểm thực hiện đề nghị. Do đó, một đề nghị mà bên
thực hiện đề nghị đó khơng có quyền thu hồi, sẽ là điều không thể, xét về mặt pháp lý. Do
vậy, tác động duy nhất của đề nghị đó là cấp cho bên được đề nghị một yêu cầu được bồi
hồn tổn thất nếu qui định đó được hủy bỏ bằng việc thu hồi đề nghị 80.
Lý luận nêu trên bỏ qua sự thật rằng một đề nghị thông thường sẽ tự thân tạo ra một
quan hệ pháp lý – một quyền hạn pháp lý và một trách nhiệm pháp lý, - và rằng chính quan
hệ này (đúng hơn là các sự kiện thể chất và tinh thần tạo thành đề nghị) rằng “vẫn để ngỏ”.
Nếu các luận điểm này được thừa nhận, sẽ xem như khơng có khó khăn nào trong việc công
nhận một thỏa thuận quyền chọn đơn phương được hỗ trợ bằng việc xem xét hoặc được đưa
vào một văn kiện riêng như là tạo ra cho bên được quyền chọn một quyền không hủy ngang
để tạo thành, tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn qui định, một nghĩa vụ song phương

giữa hai bên.
Tương ứng với quyền lực đó, tất nhiên, sẽ là một trách nhiệm đối với người đưa ra
quyền chọn mà bản thân ông sẽ không có sức mạnh để hủy bỏ. Các tịa án dường như khơng
gặp khó khăn để đạt được chính xác kết quả này như một vấn đề của vật chất; họ cho rằng
giải thích của họ là ln luôn "thu hồi đề nghị", và những từ tương tự thưởng thức các đặc
tính vật lý và tinh thần81.
Langdell, Summary of Contracts (2nd ed., 1880), sec. 178.
Langdell’s, một cơ sở ưu tiên và kết luận cụ thể đã được thông qua bởi một số tác giả khác về chủ đề này. Xem,
chẳng hạn như, Ashley, Contracts (1911), 25 et seq.; RL McWilliams, Thực thi Thỏa thuận Quyền chọn, (1913), 1
California Luật Rev, 122.
81
cho một quyết định gần đây về chủ đề này, xem W.G.Reese Co.v.House (1912) 162 Cal, 740, 745, per. Sloss,
J.:. "Khi có sự cân nhắc, lựa chọn khơng thể bị thu hồi trong thời gian thỏa thuận trong thời hạn của nó, trong khi,
nếu khơng có cân nhắc, những bên đã được lựa chọn có thể hủy bỏ nó bất cứ lúc nào trước khi chấp nhận, mặc dù
chưa quá thời gian giới hạn ... như vậy, đề nghị, nghĩa vụ được chấp nhận, tạo thành một hợp đồng ràng buộc cả
hai bên và được thi hành bởi một trong hai ".
Xem tương tự, Linn v. McLean (1885), 80 Ala., 360, 364; O’Bien v.Boland (1896), 166 Mass., 481, 483 (đề nghị
được niêm phong).
79
80

-13/42-


Liên quan đến quyền lực và trách nhiệm tạo ra tương ứng bởi một lời đề nghị bình
thường và một quyền chọn, thật thú vị để xem xét trách nhiệm của một người tham gia vào
một "kêu gọi công chúng", như có vẻ như, vị trí đặc trưng như của một bên là người ta có
thể gần như nói, trung gian giữa của một dâng hiến không hợp đồng thông thường và của
một người đưa ra quyền chọn. Nó đã thực sự được bình thường để khẳng định rằng một bên
(nói chung) thực hiện một nhiệm vụ hiện tại cho tất cả các bên khác, nhưng điều này được

cho là sai lầm. Do đó, Giáo sư Wyman, trong cơng việc của mình trong Public Service
Companies82, cho rằng:
"Nhiệm vụ đặt ra cho tất cả mọi người thực hiện một sự kêu gọi công chúng chủ yếu
là một nhiệm vụ để phục vụ mọi người là thành viên của công chúng ... Đó là thật khó để
đặt nhiệm vụ đặc biệt này trong hệ thống pháp luật của chúng tôi ... Sự thật của vấn đề là có
nghĩa vụ trên một người đã thực hiện các nhiệm vụ công là riêng biệt83".
Được gửi những khó khăn của nhà văn học của phát sinh chủ yếu từ một thất bại để
xem những gì người chủ nhà trọ, các tàu sân bay thông thường và những người khác tương
tự "cầm" đang được nợ hiện tại chứ không phải là nhiệm vụ hiện tại. Tương ứng với những
trách nhiệm là quyền hạn của các thành viên khác nhau của cơng chúng. Vì vậy, ví dụ, một
thành viên đi du lịch của cơng chúng có quyền lực pháp lý, bằng cách áp dụng đúng và đủ
dịu dàng, để áp đặt một nhiệm vụ trên một chủ quán trọ để nhận được anh ta như là một
khách. Đối với vi phạm nhiệm vụ do đó tạo ra một hành động sẽ tất nhiên lời nói dối. Do đó
có vẻ như chủ quán là, đến mức độ nào, như một người đã có một tùy chọn cho các thành
viên đi du lịch của công chúng.
68
KHÁI NIỆM PHÁP LÝ CƠ BẢN
Anh ấy có dịp ở bất kỳ nơi nào thảo luận mà ít hạn chế về khơng gian cho các trang
tiếp theo sẽ được giới hạn trong phần phân loại đầu tiên đã nêu ở trên, nghĩa là, các mối
quan hệ cá nhân và các mối quan hệ về tài sản.
Cụm từ inpersonam và in rem, bất chấp phạm vi và trong nhiều tình huống mà họ
thường áp dụng, thường xuyên được luật sư, thẩm phán và các tác giả giả định như mang ý
Hầu hết các trường hợp công nhận quyền lực không thể thu hồi của quyền chọn đã xuất hiện trong các vụ kiện
công bằng cho hoạt động cụ thể, nhưng có vẻ như khơng có lý do để nghi ngờ rằng học thuyết này còn được áp
dụng trong một hành động phổ biến pháp luật về những thiệt hại. Xem thêm Baker v.Shaw (1912), 68 Wash., 99,
103 (dicta trong một hành động gây hại).
[Những ứng dụng của phương pháp phân tích trên, xem thêm Giáo sư Arthur L.Cobin, Offer and Acceptance, and
some of Resulting Legal Relations; (1917) 26 Yale Law Journal, 169; và (cùng tác giả) Conditions in the Law of
Contracts, (1919) 28 Yale Law Journal, 739 ] .
82

Secs. 330 – 333.
83
So sánh với, Keener, Quasi-Contracts (1893), trang 18
-14/42-


nghĩa khơng thay đổi và khơng bị mang tính mơ hồ, nhập nhằng được tính tốn để khiến
những người thiếu cẩn trọng bị nhầm lẫn.
Chính xác của sự trái ngược là, mặc dù vậy, sự thật; và đôi lúc được các thẩm phán
nhấn mạnh một cách rõ ràng, cụ thể và những cảnh báo của họ đáng được lưu ý. Vì vậy, tại
Tồ án đăng ký Tyler v. Court of Registration,

8

ơng chánh án tồn án tối cao cho biết, có

liên quan đến cách diễn đạt cụm từ in rem, là "không cụm từ nào lại bị sử dụng sai nhiều
như từ này"; và trong các tình huống gần đây của Hook v. Hoffman, 9 ơng chánh án
Franklin, trong q trình bàn về một ý kiến học thuật liên quan đến bản chất của "thủ tục tố
tụng trong tài sản (rem)," thấy cần thiết để mô tả khái niệm "jus in rem (quyền trong một
vật/thứ)" là "hơi mơ hồ và không rõ ràng." Tuy nhiên, suy nghĩ của vị thẩm phán này là cái
tên cuối cùng, mặc dù vậy, đủ tốt cho chúng tôi lời khuyên về một và chỉ một biện pháp
khắc phục khó khăn này, và nhắc rằng biện pháp khắc phục là theo ý kiến riêng của ông.
Lời nói của ơng là xứng đáng được trích đăng:
'' Đây khơng chỉ là một lỗi sai sót của văn pháp để nói đến tài sản cá nhân cố định
hơn là để nói đồ đạc di động, khơng mâu thuẫn hơn trong việc phân chia của các hành động
sử dụng thuật ngữ 'in rem, "khi, trong tình trạng thực tế, hành động trước hết là "trong trách
nhiệm cá nhân – in personam. 'Trong sự phát triển của pháp luật là hiếm khi có thể, hoặc,
khi có thể, ít khi thích hợp, loại bỏ các thuật ngữ đã được lập. Trong việc kết hợp này một
sự quan sát của Thẩm phán Holmes có thể đặc biệt áp dụng được: “Miễn là vấn đề được

đưa ra xem xét được tranh luận bằng thuật ngữ do con người tạo nên, xuất hiện nguy cơ bị
dẫn dắt bởi một định nghĩa kỹ thuật để áp đạt một bên nào đó, và sau đó để suy ra những
hậu quả mà khơng có quan hệ đến các căn cứ mà dựa trên căn cứ đó tên đã được áp dụng”.
Guyv. Donald, 203 u.s., 406.
''Thay vì từ chối điều kiện thuận lợi bởi vì chúng khơng rõ ràng hoặc khơng tồn
diện, tốt hơn là giải thích ý nghĩa của chúng, hoặc, bằng ngôn ngữ cũ của Hobbes, "để dập
tắt chúng với sự phân biệt và định nghĩa” để cung cấp một ánh sáng tốt hơn” 10
____________________________________________________________________
____
những khía cạnh cơ bản toàn diện hơn của pháp luật, bao gồm lịch sử, hoặc di
truyền, luật học, so sánh, hoặc chủ nghĩa chiết trung, luật học, chính thức, hoặc phân tích,
luật học, quan trọng, hoặc mục đích luận, luật học, pháp luật,. hoặc mang tính xây dựng,
luật học, kinh nghiệm, hoặc chức năng, luật học Xem A Vital School of Jurisprudence and
-15/42-


Law, Proc. of Assn. của trường luật Am năm 1914, trang 76-139. [Được tái bản bởi:
ED.]
8 (1900) 175 Mass., 71, 76.
9 (1915) 16 Ariz., 540, 554.
10 (1915) 16 Ariz., 540, 558.
NHƯ ÁP DỤNG TRONG LÝ LUẬN CỦA TƯ PHÁP

69

Tất cả điều này là, chúng tôi buộc phải nhận ra là cặp đối chọi của các cách diễn đạt
liên tục được sử dụng như một cơ sở để phân loại ít nhất bốn vấn đề khác biệt; và ý nghĩa
tương ứng của diễn đạt trong mỗi personam và biểu hiện trong rem là khơng giống nhau
cho tất cả các tình huống khác nhau có liên quan:
Một là, chúng ta có một phân loại cơ bản của chính quyền như quyền cơ bản ban đầu

xem như trách nhiệm cá nhân, và các quyền trong rem, hai là, việc phân loại nổi tiếng của
tất cả các thủ tục tố tụng tư pháp trong tố tụng hoặc hành động trong trách nhiệm cá nhân và
thủ tục tố tụng hoặc hành động trong rem; ba là, có tồn tại việc phân loại liên quan chặt chẽ
của phán quyết, nghị định (và thẩm quyền tương ứng của tòa án), một phán quyết khác hay
nghị định liên quan đến rem; bốn là, giả định một phán quyết hay nghị định liên quan đến
trách nhiệm cá nhân để thu được là kết quả của những gì có thể được gọi là "giai đoạn đầu"
của các thủ tục pháp lý điển hình, vấn đề về cái gọi là'' thực thi pháp luật" thực sự là"giai
đoạn thứ hai "của tư pháp tiến hành - được đem ra xem xét ; 11 và thực thi đó được cho hoặc
là trách nhiệm cá nhân, như trong trường hợp của các thủ tục tiêu biểu sử dụng để ép buộc
thực hiện Nghị định về vốn chủ sở hữu, hoặc trong rem, như trong trường hợp của việc kinh
doanh thực hiện tiêu biểu sau khi xong một phán quyết pháp lý bình thường về trách
nhiệm cá nhân.12 Bất cứ ai đã tuân thủ nghiêm túc và phản ánh trên các tương quan của ý
tưởng và ngơn ngữ phải nhận ra rằng các từ có khuynh hướng phản ứng theo ý tưởng và cản
trở hoặc kiểm soát chúng.
____________________________________________________________________
__
11

So sánh, về ý nghĩa và quyền sở hữu của các thuật ngữ này, ''giai đoạn ban đầu" và

"giai đoạn thứ hai" như áp dụng đối với một bộ vốn chủ sở hữu hoặc một hành động theo
pháp luật, Lord Hardwicke, trong Penn v. Lord BaltiiMre (1750), 1 Ves., 444, 454:

-16/42-


''Do tịa án khơng thực hiện việc thi hành phán quyết của họ, nếu họ khơng làm gì cả,
tơi đồng ý, đó sẽ là điều vơ ích để thực hiện một nghị định, và rằng tịa án khơng thể bắt
thực hiện nghị định của chính họ trong rem, trong trường hợp hiện tại: nhưng đó khơng phải
là sự phản đối việc làm ra một nghị định trong tình huống, vì nghị định nghiêm ngặt ban

đầu tại tòa án này xem như một tịa án có vốn chủ sở hữu đặt trong trách nhiệm cá nhân, rất
lâu trước khi nó đã được xây dựng, dù tịa án này có thể hay không thể phát hành [sic]nghị
định để đưa vào sở hữu trong một vùng đất ở Anh, mà lần đầu tiên được bắt đầu và tạo
dựng dưới thời đại của James I; nhưng kể từ khi thực hiện theo lệnh hoặc trát của trợ lý
cảnh sát: nhưng tòa án cho đến ngày nay không thể áp dụng cho những vùng đất ở Ái Nhĩ
Lan hoặc các đồn điền. Vào thời đại đức ông Kin trong trường hợp của Richardson v.
Hamilton, trưởng ban tư pháp của Pennsylvania, gồm một miếng đất và 1 ngơi nhà trong
thành phố, tồ án ban bố bản án, mặc dù không thể ép buộc trong trách nhiệm về rem.
Trong trường hợp đất đai của Đức ông Anglesey tại Ái Nhĩ Lan, tôi quy định phân biệt và
thiết lập các phần của điền trang, mặc dù không thể áp đặt sắc lệnh này trong rem, nhưng
bên kia đang ở Anh, nên tôi không thể buộc họ bằng quy trình trách nhiệm cá nhân và tạm
thời tịch thu tài sản, là phán quyết phù hợp cho toà án này.''
Cũng thú vị khi quan sát đức ơng Hardwicke nói về lệnh hỗ trợ (theo đó bị can có
thể, thơng qua cảnh sát trưởng, được giao quyền sở hữu đất đai) xem như một cách mà theo
đó tồ án về vốn chủ sở hữu thỉnh thoảng có thể "thi hành trong rem" “sắc lệnh nghiêm ngặt
ban đầu về trách nhiệm cá nhân."
12

Về việc thảo luận các vụ kiện về trách nhiệm cá nhân và các vụ kiện liên quan đến

tài sản (rem), xem chuỗi các bài viết về quyền của giáo sư Walter Wheeler Cook.

70

NHẬN THỨC VỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN

Cụ thể hơn, rõ ràng là nguy cơ nhầm lẫn là đặc biệt lớn khi thuật ngữ hoặc cụm từ
tương tự liên tục được sử dụng để thể hiện hai hoặc nhiều ý tưởng khác nhau. Giáo sư
Holland, có suy nghĩ trong tâm trí, về hiện tượng tâm lý này, một trường hợp đặc biệt không
phải bây giờ trước mắt chúng ta, tức là, sự mơ hồ nổi tiếng của thuật ngữ Latinh “jus”,

Recht trong tiếng Đức, diritto trong tiếng Ý, và droit trong tiếng Pháp, thuật ngữ sử dụng để

-17/42-


chỉ ra vừa nghĩa "pháp luật" và vừa nghĩa "quyền" được coi là một mối quan hệ cụ thể được
tạo ra bởi pháp luật, khơng hề có chút gì là cường điệu là khi ông phát biểu:
''Nếu sự biểu hiện của các ý tưởng rất khác nhau bởi một và cùng một thuật ngữ sẽ
chỉ dẫn đến sự cần thiết cho các cách nói quanh co, vụng về, hoặc chú giải rõ ràng là khơng
chính xác, khơng gây nên thiệt hại lớn, nhưng khơng may là tính đồng nhất của thuật ngữ
dường như không thể cưỡng lại để đề nghị một sự đồng nhất giữa các ý tưởng được họ trình
bày."13
Đúng là ngun tắc về tâm lý và ngơn ngữ, những gì có thể được gọi là "ngun tắc
của ơ nhiễm ngơn ngữ" giải thích lý do tại sao một số tác giả luật nổi tiếng đã giả định, có
hiệu lực không may trên lý luận và lập luận của họ, các cặp tương phản của các điều khoản
trong trách nhiệm cá nhân và trong rem có ý nghĩa nội tại như nhau trong mỗi một trong số
bốn trường hợp nêu trên, và do đó đại diện cho cả một cơ sở phân loại chính xác tương tự,
cũng là có một số phụ thuộc lẫn nhau chính thức và đối xứng giữa bốn phân loại đã được
trình bày, ví dụ như, bằng các quyền chính trong rem như đã nêu có thể được'' ép buộc,
''hoặc chứng minh là đúng, bởi thủ tục tố tụng và xét đoán trong rem, hoặc tương tự, rằng
các quyền chính trong trách nhiệm cá nhân như đã nêu có thể được'' ép buộc, ''hoặc chứng
minh là đúng, chỉ bằng những hành động hoặc thủ tục tố tụng trong trách nhiệm cá nhân.
_______________________________________________________
, Quyền lực của toà án về vốn chủ sở hữu, (1915) 15 Columbia Law Review,
37,106, 228.
Xem bài viết hiện nay của người viết, mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu và luật
pháp ,(1913) 11 Michigan Law Review, 537, hoặc những tác giả khác,
13

Holland, Hệ thống pháp luật (tái bản lần 10., 1906), trang 80-81.


So sánh với Austin, Hệ thống pháp luật (tái bản lần 5, 1885), tập I, trang 285-286,
ghi chú, nhắc đến sự mơ hồ như của Holland, và bổ sung:
“Kể từ khi những ý nghĩ nhất và cảnh giác nhất thường bị mắc bẫy bởi những lời nói
khơng rõ ràng, (người Đức) nhầm lẫn của họ về các đối tượng rời rạc là một lỗi nhẹ có thể
tha thứ."

.

Cũng đem so sánh với Austin, hệ thống pháp luật, tập, I, trang 322, ghi nhận:
''Bằng ngôn ngữ tiếng Anh trong hệ thống pháp luật, các dữ kiện hoặc sự kiện là các
hợp đồng, khế ước hoặc công pháp quốc tế (quasi or uti), là những hợp đồng được lập theo
ngụ ý; hoặc hợp đồng mà pháp luật có hàm ý riêng: nghĩa là, hợp đồng khế ước hay theo
-18/42-


công pháp quốc tế, và hợp đồng thật nhưng mang ngụ ý, được biểu hiện bằng một tên thông
thường, hoặc những tên hầu như giống nhau. Và vì thế, hợp đồng, khế ước hay theo công
pháp quốc tế, và hợp đồng ngụ ý hay hiểu ngầm, thường xuyên và thông thường hay làm
cho các luật sư thấy bối rối. Đặc biệt, xem, Sir William Blackstone's Commentaries, B. II.
Ch. 30, and B. III. Ch. 9.”
NHƯ ÁP DỤNG TẠI LÝ LUẬN CỦA TƯ PHÁP

71

Tại một quan điểm khác, một số vấn đề và những sai lầm sẽ nhận được điều
trị bổ sung trong việc kết nối với các chủ đề chính của thảo luận, và do đó nó sẽ có thể cho
biết thêm chi tiết kỹ thuật và ví dụ cụ thể. Mục đích chính của những trang sau đó, tuy
nhiên, chỉ là để thảo luận trực tiếp và triệt để, phần đầu trong số 4 cách phân loại đã nêu
trên, tức là quyền (hoặc yêu cầu), đặc quyền, quyền lực, quyền hạn và miễn trừ trách nhiệm

cá nhân và trong quyền (hoặc yêu cầu), đặc quyền, quyền lực và miễn trừ trong rem. Thay
thế những gì người viết mạo hiểm đề nghị xem như các điều khoản tương đương và thỏa
đáng hơn cho các cụm từ trong trách nhiệm cá nhân và trong rem, chúng tơi phải có trách
nhiệm để đối phó với tám phân loại như sau: 1. quyền paucital (hoặc yêu cầu) và quyền
multital (hoặc yêu cầu); 2. đặc quyền paucital và đặc quyền multital; không dành quyền 3.
quyền hạn paucital, quyền hạn multital 4. miễn trừ paucital và miễn trừ multital; 5. paucital
và không dành quyền multital; 6. nhiệm vụ paucital và nhiệm vụ multital, 7. paucital không
đủ tư cách pháp lý và multital không đủ tư cách pháp lý; 8. Nợ paucital và nợ multital phải
trả. Mỗi một trong tám phân loại nhất định phải, vì lợi ích của tính cách rõ ràng, nhận được
điều trị riêng biệt. Tuy nhiên, vì giới hạn của khơng gian, bài viết này sẽ bàn chủ yếu về
phần tiểu khu đầu tiên, tức là, quyền paucital, hoặc khiếu nại, và quyền multital, hoặc yêu
cầu.
Như đã thể hiện đầy đủ trong các bài viết trước đây, từ "quyền" được sử dụng tổng
quát và một cách lộn xộn để chỉ bất kỳ lợi thế pháp lý, cho dù khiếu nại, đặc quyền, quyền
lực hay miễn trừ.14 Theo nghĩa hẹp của nó, tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng như các
tương quan về nghĩa vụ,

15

và, để truyền đạt ý nghĩa này, các từ đồng nghĩa "khiếu nại" có

vẻ là tốt nhất.16
____________________________________________________________________
___

-19/42-


14


Về ý kiến tư pháp công nhận tầm quan trọng rộng và chung chung của thuật ngữ

này khi được sử dụng một cách lỏng lẻo, xem các quan chức thảo luận trong (1913) 23
Yale Law Journal, 16, 30 ff.; seep. 36 ff., infra.
Cũng so sánh luôn, các tác động tương tự, Slater, J., in Shaw v. Proffitt (1910), 57
hoặc, 192, 201:
Luật sư của bị cáo tích cực thúc đẩy, trong trường hợp bào chữa này, nguyên đơn
hoàn toàn đứng trên một giấy phép lời hứa danh dự, trong đó ơng tuyên bố đã thu được từ
bị đơn và người tiền nhiệm của mình sự quan tâm và rằng, do đó, nguyên đơn được ngăn
ngừa từ việc thu thập toàn bộ ảnh hưởng của các bằng chứng của ông. Chúng tôi khơng
đồng ý với giải thích hạn chế như vậy của ngơn ngữ tìm thấy trong đơn khiếu nại. Chúng tơi
quả quyết rằng nguyên đơn được 'quyền' cũng như sự đồng ý, cho phép và giấy phép của bị
cáo và người tiền nhiệm của mình. "Ký hiệu từ 'phải', trong số những thứ khác, 'tài sản',
'quan tâm', 'quyền lực', 'đặc quyền', 'khả năng miễn trừ, và đặc quyền, và trong pháp luật là
cách thường được áp dụng cho bất động sản trong giới hạn của nó.''
15

Xem (1913) 23 Yale Law Journal, 16, 31-32; xem trang 38, infra.

16

Trong phần kết nối này, ngôn ngữ của ông Tư pháp Stayton, mặc dù không khuyến

khích cho độ chính xác, cũng có thể được so sánh:
''Quyền cũng đã được định nghĩa là một tuyên bố có cơ sở, và một tuyên bố có cơ sở
có nghĩa là khơng có gì nhiều hơn cũng khơng ít hơn một tuyên bố được công nhận hoặc
được bảo đảm bằng pháp luật.
"Quyền đó liên quan đến người, hơn là được gọi là quyền tự nhiên,
72


KHÁI NIỆM VỀ LUẬT CƠ BẢN

Do vậy, trong phần tiếp theo, thuật ngữ "quyền" sẽ chỉ được sử dụng trong nghĩa rất
hạn chế, theo đó nó là tương quan về nhiệm vụ. Người ta hy vọng rằng ý nghĩa và tầm quan
trọng của phân biệt cần thiết này có thể đạt được trong sự cụ thể và rõ ràng như các phần
chi tiết và ví dụ sắp xuất hiện.
Vào thời điểm này rất cần thiết để mạo hiểm tìm một lời giải thích sơ bộ về phân
chia hoặc phân loại bây giờ trước khi chúng tơi thú nhận ngay là nó đại diện cho một khởi
hành từ chế độ chấp nhận của tuyên bố hoặc định nghĩa về phần của tác giả và thẩm phán.
Sau đó nó sẽ vẫn cịn cho các cuộc thảo luận chi tiết hơn và tranh luận cho thấy, nếu có thể,
rằng những lời giải thích hiện đang nhận được khơng chỉ là về cơ bản bị lỗi liên quan đến
-20/42-


phân tích mà cịn sai lệch nghiêm trọng cho mục đích thiết thực của việc giải quyết các vấn
đề pháp lý càng nhanh chóng và chính xác càng tốt.
Quyền paucital, hoặc quyền khiếu nại (quyền nằm trong trách nhiệm cá nhân), hoặc
là một quyền độc đáo thể hiện trong một người (hoặc nhóm người) và chống lại một người
(hoặc một nhóm người duy nhất),

17

hoặc giả là một trong số ít quyền cơ bản tương tự,

nhưng riêng biệt, sử dụng tương ứng với một vài người được xác định. 18 Quyền multital,
hoặc quyền khiếu nại (quyền trong rem), luôn luôn là một trong các quyền cơ bản tương tự
nhưng riêng biệt, thực tế và tiềm năng, đối với một ít người được xác định cụ thể;

19


thể

hiện qua một người duy nhất (hoặc nhóm người duy nhất) nhưng giúp ích tương ứng đối
với người - tạo thành một giai cấp rất lớn và vô hạn .20
____________________________________________________________________
__
chủ yếu là con người trong pháp luật thành phố, bằng văn bản hoặc bất thành văn, và
nó nhất thiết phải được xem như quyền, trong nghĩa pháp lý, tồn tại, trong khi hậu quả của
sự kiện được pháp luật tuyên bố rằng một người được quyền thực thi chống lại một đơn
kiện..."Mcllinger v. City of Houston (1887), 68 Tex., 37, 45; 3 S. W., 249, 253.
17

Từ "nhóm người" nhằm bao gồm các trường hợp về các cái được gọi là quyền và

nghĩa vụ “chung”. Về phần thảo luận ngắn gọn “các quyền chung” vui lòng xem phần Giới
thiệu, supra. Trang 14. Eo]
18

Trong lúc từ "paucital" được gợi ý xem như thuật ngữ khái quát để bao trùm tồn

bộ các quyền trong trách nhiệm cá nhân, thì từ "unital" được dùng để nói đến một loại
quyền đặc biệt trong trách nhiệm cá nhân, “độc đáo” và “không theo ai”.
19

Lý do thêm các từ “thực tế và tiềm năng” phải được bàn đến vào thời gian sau,

sau khi nghiên cứu tổng quát về sự phân biệt giữa mối liên hệ pháp luật “thực tế” và “tiềm
năng”.
20


Người ta không thường xuyên nghĩ rằng từ '' chung'' là phù hợp và có sẵn để biểu

thị các quyền, hoặc yêu cầu, mà ở đây gọi là "multital." Xem, ví dụ, Markby, yếu tố của
Luật (lần thứ 6., 1905), đoạn 165. Tuy nhiên, theo cách sử dụng tốt nhất các thuật ngữ
"chung", như áp dụng cho một mối quan hệ thuộc luật pháp, chỉ ra rằng từ multital là một
phần của một loại lớn hơn của các mối quan hệ tương tự nằm tương ứng trong nhiều người,
ví dụ, người dân nói chung. Ví dụ, bất kỳ nhiệm vụ tương ứng với quyền multital sẽ là một

-21/42-


nhiệm vụ chung, hoặc thông thường. Các quyền của một người không bị xung đột bởi một
quyền khác là multital và general.
Vấn đề này sẽ được xem xét đầy đủ hơn ở thời điểm sau này.
NHƯ ÁP DỤNG TẠI LÝ LUẬN PHÁP LÝ

73

Có lẽ tất cả sẽ đồng ý về ý nghĩa và ý nghĩa của quyền trong trách nhiệm cá nhân,
như vừa giải thích và có thể dễ dàng cung cấp cho, một vài ví dụ sơ bộ:
Nếu B nợ A một một ngàn đơ la, A có một quyền xác định trong trách nhiệm cá nhân,
hoặc quyền paucital, là B sẽ làm những gì là cần thiết để chuyển giao cho A một quyền sở
hữu hợp pháp của số tiền đó. Nếu, để đặt một tình huống tương phản, A đã được quyền sở
hữu một ngàn đô la, quyền lợi của A với những người khác liên quan tới chúng là quyền
multital, hoặc quyền trong rem. Trong trường hợp này số tiền vẫn còn nợ A, trong các
trường hợp khác, nó thuộc sở hữu của A. 21 Nếu Y đã ký hợp đồng làm việc cho X trong thời
gian tiếp theo sáu tháng, X đều có quyền khẳng định trong trách nhiệm cá nhân liên quan
đến việc Y sẽ làm dịch vụ như vậy, như đã thoả thuận.Tương tự như vậy, liên quan đến tất
cả các quyền theo hợp đồng hoặc bán hợp đồng nào của đặc điểm này. Mặt khác, đơi khi có
thể là quyền trong mỗi trách nhiệm cá nhân về một bản sao (tenor) hay một nội dung

(content). Vì vậy, nếu K, một ca sĩ opera, hợp đồng với J rằng K sẽ, trong vòng ba tháng
tới, không hát tại bất kỳ nhà hát đối thủ nào, J có quyền tiêu cực trong trách nhiệm cá nhân
đối với K, J lệ thuộc vào một nhiệm vụ tương ứng tiêu cực. Tại đây, như trong trường hợp
khác về quyền trong ý nghĩa khiếu nại, quyền của J chỉ là một giai đoạn trong tổng số mối
quan hệ giữa, J và K, và nhiệm vụ của K là một giai đoạn khác của mối quan hệ tương tự,
có nghĩa là, tồn bộ “quyền - nhiệm vụ” có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau.
Trái ngược với những ví dụ là những người liên quan đến quyền, hoặc yêu cầu, trong
rem-tức là, quyền multital. Nếu A sở hữu và chiếm Whiteacre, khơng chỉ B mà cịn là cịn
nhiều người khác khơng nhất thiết phải tất cả

22

đang làm nhiệm vụ, ví dụ như, khơng vào

đất của A. Quyền của A đối với B là một quyền multital, hoặc quyền trong rem, vì nó chỉ
đơn giản là một trong những loại A tương tự, mặc dù riêng biệt, quyền, thực tế và tiềm
năng, đối với rất nhiều người. Những điểm này cũng áp dụng, liên quan đến quyền của A
mà B sẽ không phạm một sự hành hung trên A, A là quyền mà
________________________________________________________________

-22/42-


21

So sánh Pollock and Maitland, History of English Law (2d ed., 1905), Vol.

II, p. 178.
22


Người ta đôi khi giả thiết là các quyền ở rem (xem xét tập thể) và như vậy chỉ là

vơ ích đối với tất cả mọi người, một ý tưởng được thúc đẩy một phần bởi cách diễn đạt
thường xuyên được sử dụng “chống lại tất cả thế giới.'' Sec, e.g., Langdcll, Summary of
Equity Pleading (2d ed., 1883), sec. 184; Langdell, Brief Survey of Equity Juris
diction, (1887) 1 Harvard Law Review, 60; Hart, The Place of Trusts in Juris prudence,
(1912) 28 Law Quarterly Review, 290, 296; Terry, The Arrangement of the Law, (1917)
17 Columbia Law Review, 365, 376. Khái niệm này không được đảm bảo theo cách sự
dụng chung. Nếu, chẳng hạn, A chủ nhân của Blackacre, cho các bạn C và D “di chuyển và
giấy phép”, thì A khơng có quyền đối với C và D về việc họ không được phép sở hữu;
nhưng A có quyền với những người khác theo cách chung nhất; và họ được sắp loại rõ ràng
là "multital" hoặc "in rem."
Đối với các cụm từ khác liên quan đến vấn đề này, vui lòng xem ante, n. 20; post, pp.
102-108. [Tương tự, so sánh các quyền, vv … về sở hữu trái luật pháp: Jeffries v. Great
Western Ry. (1856), 5 E & B., 802; The Winkfield (1902); P. 42.)
74

KHÁI NIỆM VỀ LUẬT CƠ BẢN

B sẽ không phạm vào A, quyền của A là B sẽ khơng xa lánh tình cảm của vợ A, và
quyền của A là B sẽ không làm một bài báo nào đó mà A có cái gọi là bằng sáng chế. Nhiều
ví dụ khác như quyền phủ định

23

mutinal sẽ sẵn sàng diễn ra cho người đọc. Nhiều trường

hợp quan trọng đòi hỏi phải xem xét chi tiết theo thời gian.
Bất chấp những lời giải thích chính thức và trừu tượng đã được đưa ra, và mặc dù
các ví dụ cụ thể được thêm vào cho hồn tồn vì mục đích ban đầu, các nỗ lực để đưa ra

một đánh giá sắc bén và toàn diện về những khó khăn và nguy hiểm của khái niệm và ngôn
ngữ liên quan đến các biểu thức được xem xét sẽ chắc chắn thất bại, ít nhất là liên quan đến
các sinh viên thiếu kinh nghiệm, trừ khi các thảo luận trực tiếp về các lỗi thông thường
được thực hiện. Nghĩa là, có vẻ như cần thiết để hiển thị rất cụ thể và chắc chắn như thế
nào, bởi vì các thuật ngữ có liên quan, khái niệm "ngay trong rem" là quá thường xuyên
quan niệm sai lầm, và ý nghĩa gắn với nó khơng bị mờ và bị bao phủ bởi các ý tưởng về
pháp lý và các tranh cãi. Các sử dụng lỏng lẻo và gây hiểu nhầm bây giờ sẽ được xem xét
-23/42-


cụ thể chi tiết, hy vọng rằng người đọc càng học sẽ càng nhớ rằng cuộc thảo luận này, nhằm
hỗ trợ cho sinh viên trường luật hơn là cho những người khác, được làm chi tiết hơn và đơn
giản hơn cần thiết.
(a) Quyền trong rem không phải là một quyền "chống lại một điều nào đó." Trong
Hook v Hoffman24 ơng thẩm phán Franklin nói với chúng ta, trong tĩnh mạch của hy vọng,
rằng "các biểu hiện hơi mơ hồ và không rõ ràng 'jus in rem," khi đứng riêng của mình, nắm
bắt một độ sắc nét từ biểu thức 'jus in personam, "mà họ phản đối."

25

Điều này là sự lạc

quan đáng khen ngợi. Tuy nhiên, nó có thể khơng được chia sẻ bởi một người, trong q
trình nhiều năm, khơng chỉ quan sát những phương cách và xu hướng của hàng trăm sinh
viên thơng minh, mà cịn xem cả những tờ phiếu tự nhiên của những người có học. thức
cao. Bất kỳ người nào dù là sinh viên hoặc luật sư, trừ khi anh ta đã suy tính nghiền ngẫm
vấn đề theo cách phân tích và cần mẫn, hoặc đã được đưa vào thông báo của sách hoặc các
phương tiện khác, có khả năng, trước tiên, dịch ngay bằng trách nhiệm cá nhân của mình,
xem đó là một quyền đối với một người; và như thế họ gần như chắc chắn là
____________________________________________________________________

____
23

Như được nêu ra bằng các ví dụ, quyền multital ln ln mang tính xây dựng hơn

là sự đồng thuận, nghĩa chúng cùng với các nghĩa vụ tương ứng phát sinh một cách độc lập
với thậm chí các diễn đạt về ý định về phía các bên có liên quan. Rõ ràng điều này lý giải
vì sao hầu hết nếu khơng muốn nói là tất cả các nhiệm vụ này về mặt tính cách đều là tiêu
cực: nó chỉ và chỉ mang tính chính trị để dàn trải các nhiệm vụ tiêu cực này mà thơi. Trong
khi đó rõ ràng là mặt đối lập sẽ là đúng trong trường hợp của hầu hết các loại nhiệm vụ tích
cực.
24
25

(1915) 16 Ariz., 540, 555.
So sánh, cho ngôn ngữ rõ ràng tương tự, Austin, Jurisprudence (5th ed.,1885), Vol.

II, p. 957.
NHƯ ÁP DỤNG TẠI LÝ LUẬN CỦA TƯ PHÁP

75

ông gần như chắc chắn là diễn giải quyền trong rem, một cách tự nhiên và đối xứng
như cách họ nghĩ, xem như là một quyền đối với một điều nào đó. Giả sử rằng các bộ phận
được đại diện trong trách nhiệm cá nhân và trong rem có thể dùng để loại trừ lẫn nhau, thì
có đủ lý lẽ chính đáng để nghĩ là nếu một quyền trong trách nhiệm cá nhân chỉ đơn giản là
-24/42-


một quyền đối với một người, một quyền trong rem phải là một quyền không đối với một

người, mà là đối với một vật nào đó. Nghĩa là, cách biểu đạt quyền trong trách nhiệm cá
nhân, khi đứng một mình, dường như khích lệ ấn tượng rằng phải có quyền mà khơng phải
là đối với người. Sau đó, tất nhiên, như giả thiết, mặc dù sai, độ tương phản là tiếp tục khích
lệ bằng nghĩa đen prima facie của cụm từ tiếng Latin trong rem, được xem như perse, vì ta
khơng thể giả định rằng người trung bình quen với lịch sử đặc biệt và ý nghĩa đặc biệt của
cụm từ đó. Khái niệm như thế về quyền trong rem là, như đã nói, thơ và khơng chính xác,
và nó chỉ có thể nhưng phục vụ như một chướng ngại để xố bỏ tư duy rõ ràng và thể hiện
chính xác. Thật vậy, một người có thể duy trì mối quan hệ vật lý chặt chẽ và có lợi cho một
điều vật lý được cung cấp: họ có thể kiểm tra thực tế và sự dụng thứ này, và họ có thể he
may loại bỏ những thứ khác từ việc kiểm soát tương tự hay từ niềm vui được thực hiện như
vậy. Tuy nhiên, rõ ràng là, mối quan hệ hồn tồn vật lý này có thể cũng tồn tại ngồi, hoặc
đơi khi, pháp luật của xã hội có tổ chức: mối quan hệ vật lý là hoàn toàn khác biệt với quan
hệ thuộc luật pháp.26 Mối quan hệ luật pháp lấy ý nghĩa từ luật pháp, và, vì mục đích của
luật pháp là để điều chỉnh hành vi của con người, tất cả các mối quan hệ thuộc luật pháp
phải, để được rõ ràng và trực tiếp trong ý nghĩa, được khẳng định về con người. Những lời
của thẩm phán có năng lực có thể được trích dẫn nhắm chỉ rõ hiện thực của họ về tầm quan
trọng thực tế của điểm hiện đang được nhấn mạnh:
1900, Mr. Chief Justice Holmes, ip. Tyler v. Court of Registration: 27
'' Tất cả thủ tục tố tụng, như tất cả các quyền, là thực sự đối với người. Cho dù đó là
thủ tục tố tụng, hay quyền trong rem đều phụ thuộc vào số lượng người bị tác động .”28
____________________________________________________________________
____
26

Như xu hướng phổ biến và không may để gây nhầm lẫn giữ, xem thêm phần thảo

luận tổng quát hơn tại 20 ff., infra, p. 27 ff.; see also post, n. 34 and n. 90.
27

(1900) 175 Mass., 71, 76.


28

So sánh phần dưới đây từ ý kiến của ông Justice Holmes:

" Đúng là như một sự kiện lịch sử mà các biểu tượng được sử dụng trong thủ tục tố
tụng của hải quân, và cũng có thể, một lần nữa chỉ đơn thuần là một sự kiện lịch sử, các
thủ tục tố tụng trong rem đã được giới hạn trong trường hợp các loại khiếu nại, mặc dù với
nhiều loại đa dạng, đòi bồi thường cho chấn thương, tiền lương, cứu hộ, vv, … sẽ được
khẳng định. Nhưng một con tàu không phải là một người. Nó khơng thể làm một sai hoặc
-25/42-


×