Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của đế quốc ả rập (từ thế kỷ vii dến thế kỷ viii)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.33 KB, 63 trang )

Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập

A- PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Khu vực Trung Cận Đơng nói chung và Ảrập nói riêng có thể nói là
một trong những vùng có nền lịch sử – văn hoá phát triển hết sức khá đặc
biệt. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã trở thành nơi
tranh chấp rất nhiều thế lực từ thời kỳ cổ đại cho đến ngày nay. Đây là khu
vực có vị trí địa lý quan trọng, nằm trên con đƣờng giao lƣu giữa Châu Á,
Châu Âu và Châu Phi, là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên quý
hiếm, nhất là dầu mỏ, là khu vực đất phát sinh, phát triển rất nhiều tơn giáo,
trong đó có đạo Ixlam – hiện nay đƣợc coi là một trong 3 tôn giáo lớn của
thế giới.
Hiện nay khu vực Trung Cận Đơng nói chung, Ảrập nói riêng đang
trở thành điểm nóng về chính trị, nơi mà các thế lực đế quốc thực dân đang
tìm mọi cách để áp đặt quyền lực của chúng nhằm chiếm lấy nguồn dầu
mỏ dồi dào. Nơi núp dƣới chiêu bài chống chủ nghĩa khủng bố mà Mỹ đã
và đang phát động cuộc chiến tranh ở Irac, và nhất là vấn đề quan hệ
Palextin – Ixraen chƣa có hồi kết thúc. Nơi mà đạo Ixlam đã trở thành một
nguồn sức mạnh thiêng liêng, với nhiều phe phái khác nhau, trong đó có
những phe phái đang đi theo con đƣờng khủng bố, làm cho cả thế giới đều
phải kinh hoàng và đƣợc coi là một trong những hiểm hoạ của nhân loại.
Để có thể lý giải đƣợc phần nào những đặc điểm rất riêng đó của thế
giới Hồi Giáo, chúng tơi chọn : “Q trình hình thành, phát triển và suy
vong của Đế quốc Ả rập (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII)” làm đề tài
nghiên cƣú. Hy vọng thông qua đề tài này phần nào có thể lý giải đƣợc tính
chất hiếu chiến cũng nhƣ những đặc trƣng rất riêng của đạo Ixlam và thế
giới Ảrập trong quá trình phát triển.



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

“Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế quốc Ảrập
(từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII)” đã đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu trong và
ngồi nƣớc nhắc đến. Vì điều kiện thời gian và tƣ liệu, chúng tôi chƣa thể
tiếp cận hết về vấn đề này. Nhƣng qua một số cơng trình nghiên cứu mà
chúng tơi đã cập nhật đƣợc thì có thể nói rằng, các nhà nghiên cứu đã có
những nhận định, đánh giá khác nhau. Và đã cơ bản khái quát đƣợc đặc
trƣng của khu vực.
Cuốn “Lịch sử Trung Cận Đơng” của nhóm tác giả: Nguyễn Thị
Thƣ, Nguyễn Hồng Bích, Nguyễn Văn Sơn – Nhà xuất bản giáo dục. Ngồi
việc khái qt về khu vực Trung Cận Đơng đã giành hẳn một chƣơng đề
cập đến đế quốc Ả rập, trong đó chủ yếu đề cập đến q trình ra đời của đế
quốc này (cũng là sự ra đời của đạo Ixlam.
Lịch sử văn minh thế giới của tác giả Vũ Dƣơng Minh – Nhà xuất
bản giáo dục trong đó có đề cập đến sự ra đời, phát triển của đạo Ixlam
cũng nhƣ một số thành tựu văn minh Ảrập.
Cuốn “Mƣời tôn giáo lớn trên thế giới” của tác giả: Hồng Tâm
Xun (một nhà nghiên cứu tơn giáo Trung Quốc) – NXB chính trị quốc
gia Hà Nội - năm 1999, đã giành hẳn một chƣơng phân tích đạo Ixlam.
Ngồi việc trình bày sự ra đời các giáo lý, tác giả cịn đề cập đến q trình
lan toả của đạo này đến các nƣớc trên thế giới.
„Lịch sử ba tôn giáo thế giới” của tác giả: Lƣơng Thị Thoa – NXB
giáo dục Hà Nội năm 2000, đã đề cập khá chi tiết về đạo Ixlam cũng nhƣ
sự phát triển của nó qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

2



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Từ những tài liệu nêu trên, mong muốn của chúng tôi là hệ thống lại
một cách tƣơng đối đầy đủ quá trình hình thành, phát triển và suy vong của
nhà nƣớc Ảrập từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Để từ đó có thể nhận rõ hơn
sự ra đời và phát triển của đạo Ixlam, trên cơ sở đó có thể lý giải một số
vấn đề liên quan đến đạo Ixlam hiện nay.
3. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.

- Khơng gian: Tìm hiểu sự ra đời và phát triển của đạo Ixlam ở nƣớc
Ảrập.
- Thời gian: Từ thế kỷ VII (tức từ khi nhà nƣớc Ảrập và Đạo Hồi ra
đời) đến thế kỷ XIII (thời kỳ đế quốc Ảrập tan rã).
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết những vấn mà đề tài đặt ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng
phƣơng pháp lơgic – lịch sử. Ngồi ra chúng tơi cịn kết hợp một số
phƣơng pháp khác: phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê, lập bảng
biểu ...
5. BỐ CỤC ĐỀ TÀI:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài gồm có 3
chƣơng.
Chương I: Vài nét khái quát về khu vực Trung Cận Đông trong
thời kỳ cổ trung đại.
Chươn II: Sự hình thành, phát triển của Đế quốc Ả rập (từ thế kỷ
VII đến thế kỷ XIII).
Chương III: Một số thành tựu chủ yếu của văn minh Ả rập

3



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC TRUNG CẬN ĐÔNG
TRONG THỜI KỲ CỔ TRUNG ĐẠI

1.1- Khái niệm Trung Cận Đông:
Trung Cận Đông là tên gọi mà các nƣớc Phƣơng Tây dùng để chỉ
vùng lãnh thổ, nơi tiếp giáp của ba châu lục: Á, Âu và Phi. Trung Cận
Đông thƣờng đƣợc xem là một khái niệm có tính chất ƣớc lệ: biên giới khu
vực thay đổi hoặc theo đặc điểm của giai đoạn lịch sử cụ thể, hoặc theo
quan niệm tôn giáo, quan điểm chiến lƣợc của từng nƣớc. Tuy nhiên, trong
sự đa dạng đó ngƣời ta vẫn có cái chung nhất. Dù quan niệm theo cách nào,
Trung Cận Đông cũng bao gồm các nƣớc Đông Bắc phi và Tây Nam Á sau:
- Đông Bắc phi: Ai cập và Libia
- Bán đảo ả Rập: Ảrậpxêút, Kwait, Bahrain, Qatar, Oman, Yemen,
các tiểu vƣơng quốc Ảrập thống nhất.
- Vùng lƣỡi liềm phì nhiêu: Israel, Jordan, Iraq, Libăng, Syria.
- Iran và Thổ Nhĩ kỳ (gồm cả phần châu á và châu Âu).
Toàn bộ các nƣớc này chiếm diện tích khoảng 9 triệu cây số vng
và dân số khoảng 290 triệu ngƣời (xem bảng 1).
Các nƣớc Bắc phi: Algaria, Tunisia, Morocco, cũng thƣờng đƣợc coi
là các nƣớc Trung Cận Đơng vì cùng là nƣớc Ảrập, gắn bó về mặt lịch sử
và văn hoá với các nƣớc trong khu vực trong suốt thời kỳ lịch sử dài trong
thành phần các đế quốc Ảrập và Osman, do sự gắn bó chiến lƣợc với
Aicập, đôi khi cũng đƣợc xem là thành viên khu vực. Cận kề với Iran,

Afghanistan và Pakistan cũng đƣợc xem là thuộc khu vực naỳ trong một

4


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
thời gian dài. Ngoài ra Hy lạp, Cyprees và các nƣớc hồi giáo thuộc Liên xô
trƣớc đây nhiều khi cũng tự coi mình thuộc khu vực Trung Cận Đơng. Mỗi
nƣớc đều có lý lẽ riêng xuất phát từ quan điểm lịch sử hay tôn giáo.
Để hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề, cần tìm hiểu thêm về lịch sử của
khái niệm. Trung Cận Đông là một từ ghép. Trong đó khái niệm Cận Đơng
ra đời trƣớc và từng tồn tại một cách độc lập trong nhiều thế kỷ. Khái niệm
Cận Đông bắt nguồn từ quan niệm về địa lý thời trung đại của các nƣớc ven
Đại Tây Dƣơng và tây Địa Trung Hải nhƣ các nƣớc: Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Anh, Pháp, Hà Lan và các quốc gia thành thị Italia. Mới đầu thì
thƣơng nhân của các nƣớc này gọi vùng ven bờ phía Đơng Địa Trung Hải
mà họ có quan hệ bn bán là vùng Cận Đơng. Do đó khái niệm này dần
dần đƣợc mở rộng ra cho các vùng lân cận và trở thành một khái niệm địa
lý phổ biến. Sau đó thì các nƣớc lớn nhƣ Áo, Nga và Đức cũng đã chấp
nhận và sử dụng khái niệm này. Vì vậy, Cận Đơng trở thành một khái niệm
chung và có tính chất quốc tế.
Vào thế kỷ XVI, tồn bộ vùng Cận Đơng nằm trong đế quốc Osman
gồm lãnh thổ trải trên ba châu lục, nối Đại Tây Dƣơng với Ấn Độ Dƣơng
và quan Ấn Độ Dƣơng với Thái Bình Dƣơng. Trên bản đồ thế giới ngày
nay, lãnh thổ đế quốc Osman bao gồm một phần của áo, Hunggary và
toàn bộ bán đảo Balkan ở Châu Âu, tất cả các nƣớc Ả rập kể cả Israel ở
Tây Á, một phần Iran và các nƣớc vùng Kavkaz thuộc Liên xô cũ, các nƣớc
Bắc phi và các đảo chiến lƣợc trên Địa Trung Hải.
Từ nửa sau thế kỷ XVII, Đế quốc Osman bắt đầu suy yếu. Quá trình

suy sụp của nó kéo dài hơn 1 thế kỷ và kết thúc bằng sự tan rã hoàn toàn
sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ này, các cƣờng quốc
Châu Âu tăng cƣờng xâm nhập và tranh giành ảnh hƣởng ở đế quốc
Osman. Mọi vấn đề tranh chấp giữa các cƣờng quốc Châu Âu quanh vấn đề
tranh giành ảnh hƣởng ở đế quốc Osman đều đƣợc gọi là “Vấn đề Phƣơng

5


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Đông”. Nhiều quốc gia dân tộc đã phát triển từ sự tan rã dần của đế quốc
Osman. Trong quá trình hình thành các quốc gia dân tộc ở vùng Balkan,
bán đảo Balkan tách khỏi vùng Cận Đông và đƣợcc gọi là Đông Nam Âu.
Đồng thời, Châu Âu bắt đầu sử dụng khái niệm Trung Đông để chỉ vùng
giữa đế quốc Osman và vùng Viễn Đông, gồm các nƣớc không giáp Địa
Trung Hải nhƣ Iran, Afghanistan và ấn Độ.
Trung Đông và Cận Đông đƣợc sử dụng để chỉ 2 khu vực địa lý kề
nhau trong một thời gian khá dài. Sau đó, từ ghép Trung Cận Đơng ra đời
do những tƣợng đồng về địa lý, lịch sử và văn hố của khu vực .
Dần dần, trong thuật ngữ chính trị ngƣời ta hay dùng khái niệm
Trung Đông với nghĩa bao gồm cả vùng Cận Đông.
Đặc biệt, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, thì nƣớc Anh đã dùng
khái niệm Trung Đông để chỉ vùng lãnh thổ từ Nam Á và Bắc Phi và đặt
Bộ chỉ huy quân sự Trung Đơng tại Ai cập. Từ đó, khái niệm Trung Đơng
đƣợc sử dụng chính thức trong ngơn ngữ chính trị quốc tế.
Bảng 1: Các quốc gia vùng Trung Cận Đông
ST
T


Tên nƣớc

1

Ai cập

2

Libya

3

Kuwait

Diện tích
2

(km )

Dân số

Chế độ

(ngƣời)

chính trị

997.740 62.110.000 Cộng hồ
1.757.000
17.818


5.648.000 Cộng hồ

Thủ đơ
Cairơ
Tripoli

1.809.000 Qn chủ Kuwait city
lập hiến

694

620.000 Qn chủ

Marama

Qatr

11.400

561.000 Quân chủ

Doha

Các tiểu vƣơng

83.600

4


Bahrain

5
6

quốc Ảrập thống

2.580.000 Liên bang Abu
Quân chủ

nhất

6

Dhabi


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
309.500

2.265.000 Quân chủ

7

Osman

8

Ả rập xêút


9

Yemen

10

Israel

24.400

5.652.000 Cộng hoà

Jurusalem

11

Jordan

89.236

4.522.000 Cộng hoà

Amman

12

Libăng

10.400


3.112.000 Cộng hoà

Beirut

13

Syria

185.180 15.009.000 Cộng hoà

Damaseus

14

IRaq

435.052 22.219.000 Cộng hoà

Baghdad

15

IRan

1.648.000 62.309.000 Cộng hoà

Teheran

16


Thổ nhĩ kỳ

2.248.000 19.072.000 Quân chủ
555.000 16.496.000 Cộng hoà

652.225 63.528.000 Cộng hoà

Mus cat
Riyadh
Sama

Ankara

1.2- Điều kiện tự nhiên và xã hội:
1.2.1- Điều kiện tự nhiên:
Hình ảnh chung quen thuộc của thiên nhiên vùng Trung Cận Đơng
đó là núi, cao ngun khô cằn và sa mạc. Một dãy núi chạy qua Tiểu á
thuộc Thổ Nhĩ Kỳ gồm 2 dãy: Dãy Pontus chạy dọc theo bờ biển Đen và
dãy Taurus chạy dọc bờ Địa Trung Hải. Hai dãy núi này ôm gọn cao
nguyên Anatolia ở trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ và gặp nhau ở phía đơng, nơi có
ngọn Ararát cao 5265m. Ở Iran, dải núi lại phân thành 2 dãy: dãy Elburz có
đỉnh Demavend cao nhất ở Trung Đơng là 5610m ở và dãy Zagronz ở phía
nam, bao quanh cao nguyên Iran khơ cằn. Phía nam dãy Taurus, một dải
núi thấp chạy từ Bắc xuống Nam, dọc theo bờ Địa Trung Hải của các nƣớc
Syria, Libăng và Israel rồi vƣơn xuống theo 2 bờ Biển Đỏ. Ở phía Tây, dải
núi này chạy từ bờ biển đến các cao nguyên nội địa rồi biết mất trong các
biển cát mênh mông của các sa mạc Tây Ai cập và Libya. Về phía Đơng,
dải núi trên biến thành vùng đất thấp kéo từ múi Taurus đến bờ biển
Osman, bao trọn bờ tây nam sa mạc Ả rập.


7


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Hai hệ thống rộng lớn: Hệ thống sông Nile và hệ thống 2 sông Tigris
– Euphrates và một số sơng nhỏ có nƣớc chảy quanh năm: Sơng Jordan và
rộng Litani (ở Ly băng)- là nguồn nƣớc quan trọng của khu vực. Ở nhiều
vùng nhƣ; Trung tâm Iran, toàn bộ đơng Bắc phi trừ sơng Nile, sơng
thƣờng cạn hồn tồn vào mùa khơ hay chỉ có nƣớc sau những trạn mƣa
hiếm hoi, chính vì vậy, hệ thống thuỷ lợi có ý nghĩa rất lớn. Sơng Jordan và
biển chết thấp hơn hàng trăm mét so với mặt biển, là hệ thống nƣớc tiêu
khép kín, cấp nƣớc cho các vùng lân cận.
Trung Cận Đơng có khí hậu khơ và nóng. Các nƣớc gần biển có khí
hậu Địa Trung Hải với mùa hè khơ nóng, ít mƣa và mùa đơng mát hơn. ở
tồn vùng nhiệt độ trung bình hàng ngày trong tháng 7 là 300C. Cịn về
mùa Đơng, chỉ có vùng cao ngun Anatolia và vùng núi phía Bắc có nhiệt
độ trung bình dƣới 00C, mặc dù miền núi Libăng và Yemen thƣờng xun
có tuyết. Mƣa thì rất ít, lƣợng mƣa trung bình hàng năm ở vùng phía Nam
và Osman chịu ảnh hƣởng của gió mùa từ Ấn Độ Dƣơng và các vùng ven
biển của Syria, Lybăng và Israel mƣa có nhiều hơn, còn các vùng ven biển
Caspi và biển Đen lại có lƣợng mƣa tƣơng đối cao.
Đất đai chủ yếu là đất sa mạc, rất ít đất có lợi cho trồng trọt, mà các
vùng trồng trọt quan trọng nhất là vùng dất bồi của các sông Nile và Tigris
– Euphrates và vùng ven biển Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ. Thảm thực
vật cũng rất phong phú, rừng phát triển ở vùng ven biển Đen và biển Caspi,
ở các vùng sa mạc và thảo ngun khơ cằn, lại có các loại cây có bộ rễ lớn
nhƣ cây Chà là phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của khu vực là dầu lửa, tập

trung chủ yếu ở các nƣớc ven bịnh Batƣ. Trung Cận Đông chiếm 41% trữ
lƣợng dầu của cả thế giới. Ảrập Xeút là nƣớc có trữ lƣợng dầu lớn nhất thế
giới với mỏ dầu Algoawar đƣợc phát hiện năm 1948 có trữ lƣợng 82 tỷ
thùgn đã đƣa Ảrập lên vị trí hàng đầy trong các nƣớc sản xuất dầu lửa, các

8


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
nƣớc Iraq, Kuwait và Iran cũng là những nƣớc có trữ lƣợng dầu cao trên
thế giới. Và Trung Cận Đơng cịn đƣợc đánh giá là vùng có tiềm năng về
những mỏ dầu chƣa đƣợc phát hiện.
Đất và nƣớc cho phát triển nông nghiệp là tài nguyên quan trọng, có
ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế các nƣớc trong khu vực.
1.2.2 - Xã hội.
Xã hội Trung Cận Đông là một tập hợp phức tạp các dân tộc và văn
hố. Trong suốt q trình lịch sử khu vực, nhiều tộc ngƣời từ các vùng lân
cận đến sinh sống, hợp thành cộng đồng dân cƣ Trung Cận Đơng. Ba
nhóm dân cƣ lớn của khu vực là ngƣời Semite, ngƣời Thổ và ngƣời Aryan.
Ngƣời Ảrập và Do Thái thuộc xóm Semite, cịn ngƣời Ba Tƣ là nhóm lớn
nhất trong tộc ngƣời Auyan, ở Aicập, ngừơi Nilote và ngƣời Nubia tiếp tục
tồn tại bên ngƣời Ảrập và vẫn giữ những đặc tính riêng của họ.
Ngơn ngữ và tơn giáo là những thành tố cơ bản tạo nên sự đa dạng
và sự đồng bộ của khu vực. Các thành ngữ chính ở đây là tiếng Ảrập, tiếng
Ba Tƣ và tiếng Thổ, và mỗi thứ tiếng đều có nhiều thổ ngữ khác nhau, có 3
tơn giáo lớn: Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo.
Do tỷ lệ sinh cao trong khi tỉ lệ tử giảm, tốc độ tăng dân số hàng năm
của khu vực khá cao: Từ 1,6% đến 4,3%. Dân cƣ tập trung chủ yếu ở
những vùng nông nghiệp, trong khi nhiều vùng sa mạc rộng lớn khơng có

ngƣời ở. Q trình đơ thị hố cũng diễn ra nhanh chóng. Tỷ lệ tăng dân số
thành thị cả vùng là khoảng 5%- 6%/năm và Trung Cận Đơng có những
thành phố đơng dân nhất thế giới nhƣ : Cairô (9.900.000 dân; Teheran:
6773000 dân)...
Vùng Trung Cận Đơng có một mơi trƣờng hết sức khắc nghiệt,
nhƣng ngƣời dân có truyền thống cần cù, lao động chăm chỉ, mặc dù chỉ
có 14% đất có thể trồng trọt đƣợc mà họ vẫn làm nơng nghiệp, họ tìm mọi

9


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
cách để làm, phong phú thêm các loại cây trồng nhƣ bông, thuốc lá,
càphê...
Công nghiệp khai thác dầu lửa đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế
các nƣớc trong khu vực. Năm 1997, các nƣớc vùng này khai thác 672,7 tỉ
thùng dầu. Trong số 18 nƣớc sản xuất dầu lửa hàng đầu thế giới (chiếm
82% sản lƣợng dầu thế giới) có 6 nƣớc thuộc khu vực Trung Cận Đông
(xem bảng 2).
Bảng 2: Các nước xuất khẩu dầu lửa hàng đầu thế giới

Tên nƣớc

TT

Sản lƣợng đã

Dự


Dự trữ phông

khai thác

trữ

định

1

Ảrập xê út

71.5

261.3

41.0

2

Mỹ

165.8

50.7

49.0

3


Nga

92,6

100.0

68.0

4

Iraq

22.8

100.0

45.0

5

Iran

42.9

93.0

22.0

6


Nevezuela

47.3

83.3

17.0

7

Kuwait

27.6

987.5

3.0

8

Các tiểu vƣơng quốc

15.1

98.2

70

Ảrập thống nhất
9


Mexico

20.5

50,4

37,0

10

Trung Quốc

18,8

24.0

48.0

11

Canada

16.1

5.1

33.0

12


Libya

19.0

22.8

8.0

13

Kazakhstan

3.2

17.3

26.0

14

Nigeria

15.5

17.9

9.0

10



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
15

Inđônexia

15.2

5.8

10.0

16

Nauy

6.3

11.3

13.0

17

Anh

12.3


4.6

11.0

18

Algeria

9.1

9.2

9.0

621.6

1052.3

449.0

Cộng

1.3. Khái quát Trung Cận Đông thời cổ đại
1.3.1. Thời tiền sử:
Con ngƣời đã sinh sống ở khu vực Trung Cận Đông từ thời đồ đá cũ,
dấu vết sớm nhất của con ngƣời cổ xƣa đã đƣợc tìm thấy ở Ubediya trên bờ
sơng Jordan. Ngƣời cổ này có niên đại cách đây khoản 800.000 năm.
Những di vật khai quật đƣợc cho thấy: Con ngƣời bấy giờ đã biết tạo ra
lửa, biết chế tạo công cụ từ đá lửa, xƣơng và gỗ. Họ sống thành bầy và
cùng nhau săn thú, tìm thức ăn. Đặc biệt ở Birket er-Ram (cao nguyên

Golen, ngƣời ta tìm đƣợc 1 bức tƣợng phụ nữ nhỏ có niên đại khoảng
300.000 năm).
Từ trung kỳ đá cũ (100.000 – 40.000 năm trƣớc công nguyên) ngƣời
tinh khôn (Homo sapin) có mặt ở khu vực này, các chi tiết hoá thạch đƣợc
phát hiện trong các hang động nhƣ: Kebara, Tabun, Kafza trên lãnh thổ
Israel hiện nay là bằng chứng xác thực về sự hiện diện của ngƣời tinh khôn.
Họ sống chủ yếu trong các hang động, sống bằng săn bắt và hái lƣợm và
công cụ của họ tinh tế hơn. Có thể đây chính là thời kỳ mà con ngƣời phát
minh ra cung tên, kim bằng xƣơng cũng đƣợc tìm thấy nhiều, đƣợc ngƣời
nguyên thuỷ dùng để may da thú.
Vào cuối thời đại đã cũ (18500 – 9000 năm trƣớc công nguyên)
những công cụ đá mà ngƣời chế tác đã rất tinh xảo. Họ biết ghè đẽo để tạo
nên những cơng cụ có ích nhƣ mũi lao, mũi giáo... Những công cụ này báo

11


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
hiệu những thay đổi sẽ xẩy ra trong phƣơng thức lao động của con ngƣời,
là tiền đề cho cuộc “Cách mạng nơng nghiệp” sau đó.
Những di tích cổ xƣa nhất của con ngƣời ở khu vực Trung Cận Đơng
cho đến nay đƣợc tìm thấy chủ yếu ở vùng lƣỡi liềm phì nhiêu dọc theo bờ địa
trung hải. Do đó vùng Trung Cận Đơng cũng trở thành cái nơi của loài ngƣời.
Trong thời đại đồ đá mới, cuộc “Cách mạng nông nghiệp” diễn ra
đƣợc gọi là cách mạng đá mới tức: Con ngƣời chuyển từ hái lƣợm và săn
thú sang nghề trồng trọt và chăn nuôi gia súc.
Gieo hạt và thu hoạch là hình thức sản xuất nơng nghiệp phổ biến.
Những di tích về nơng nghiệp sơ khai đƣợc tìm thấy ở nhiều nơi. Và vào
nhiều thời điểm khác nhau, các cây trồng đầu tiên là lúa mạch và lúa mì,

sau hki thu hoạch ngƣời ta cất giữ sao cho khỏi bị nảy mầm sớm hay hƣ
hỏng và chính nhu cầu bảo quản lƣơng thực thúc đẩy sự ra đời của nghề
gốm.
Nghề gốm xuất hiện vào năm 7000 trƣớc cơng ngun, việc sử dụng
đồ gốm đã nhanh chóng trở nên phổ biến, những mảnh đồ gốm đƣợc phát
hiện ở vùng Trung Cận Đơng có niên đại sớm nhất là khoảng 9000 năm.
Đó là những mảnh gốm tìm đƣợc ở di chỉ khảo cổ Chatal huyuk 4000 năm
trƣớc công nguyên, nghề gốm đã đƣợc phát triển. Tuy nhiên, đồ gốm lúc
bấy giờ vẫn đƣợc xem là đồ xa xỉ vì còn quá hiếm hoi. Trong khoảng năm
trăm năm tiếp theo ( 4000 – 3500 trƣớc công nguyên) nghề gốm khu vực
Trung Cận Đông tiếp tục phát triển rộng khắp và mang tên đồ gốm Ubaid
với mẫu hoa văn đặc trƣng: Vịng trịn đồng tâm hình lƣợn sóng và đồ gốm
Ubaid đƣợc tìm thấy ở nhiều nơi thuộc khu vực lƣỡng hà và các vùng lân
cận.
Những di tích đồ gốm là dấu hiệu rõ rệt nhất về cuộc sống định cƣ
của ngƣời cổ đại. Các di chỉ khảo cổ đƣợc khai quật cho thấy: Vào khoảng
năm 7000 trƣớc công nguyên, con ngƣời ở khu vực Trung Cận Đông đã bắt

12


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
đầu chuyển sang cuộc sống định cƣ. Di tích có ý nghĩa quan trọng nhất là
Chatal Huyuk (đƣợc nhà khảo cổ học James Melaast khai quật lần đầu tiên
vào những năm 60 thế kỷ XX) ở Thổ Nhĩ Kỳ có niên đại 9000 năm, cƣ cân
Chatal Huynk trồng lúa mì, lúa mạch và đậu, thợ thủ cơng sản xuất đầu mũi
tên, dao găm bằng đá... ngƣời ta còn tìm thấy các đồ nữ trang nhƣ: Hoa tai
bàng chì, vòng bằng đồng đỏ. Độ tinh xảo của đồ thủ công và nghệ thuật ở
đây khiến các nhà khoa học bối rối.

Các khu định cƣ thời kỳ đó mới cịn đƣợc tìm thấy ở nhiều nơi khác.
Vào thời kỳ đầu ( khoảng 6000 – 5000 năn trƣớc công nguyên), các khu
dân cƣ nằm rải rác, riêng biệt ở các con sông nhỏ trong dãy núi Zqgros và
các thung lũng nhỏ. Từ khoảng 300 trƣớc cơng ngun, do khí hậu trở nên
khơ dần, thuỷ lợi bắt đầu có vai trị quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
và do công cụ đƣợc hoàn thiện và kinh nghiệm sản xuất ngày càng nhiều,
con ngƣời sản xuất ra nhiều của cải hơn, cuộc sống tinh thần cũng trở bên
phong phú hơn.
Từ nửa đầu thiên niên kỷ IV trƣớc công nguyên, ngƣời ta bắt đầu sử
dụng nhiều đồ đồng để làm đồ trang sức và cơng cụ. Thời kỳ này cịn đƣợc
gọi là thời kỳ đá - đồng: quá độ sang thời đại đồ đồng. Những đồ tạo tác
bằng đồng đỏ đơn giản đầu tiên đƣợc tìm thấy ở Chatal Hayuk. Nhƣ vậy
cơng cụ và vật dụng từ đồng chế biến xuất hiện vào đầu thiên niên kỷ IV
trƣớc công nguyên và trở nên phổ biến vào cuối thiên niên kỷ đó.
Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và các quan hệ xã hội trong thời
đại đồ đồng đã dẫn tới sự hình thành những nhà nƣớc đầu tiên. Lƣỡng Hà
và Ai cập trở thành các nơi của nền văn minh nhân loại. Nhƣng, các quốc
gia cổ đại còn xuất hiện ở nhiều khu vực khác thuộc Trung Cận Đông.
1.3.2- Các quốc gia cổ đại ở Lưỡng Hà:
Lƣỡng Hà là tên mà ngƣời Hy Lạp đặt cho vùng đồng bằng nằm giữa
2 con sông Tigris và Eupheater. Từ xƣa, Lƣỡng Hà đã nổi tiếng là vùng đất

13


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
phì nhiêu, thuận lợi cho nền sản xuất nơng nghiệp trồng nho, Ơ lƣu, đại
mạch, chà là và nhiều loại hoa quả khác.
Biên giới phía Bắc là dãy núi Armenia, phía Tây là sa mạc Sysia,

phía Đơng giáp Ba Tƣ, phía Nam là Vịnh Ba Tƣ. Cả Lƣỡng Hà là một vùng
đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu. Sơng Tigris dài 2000km và sông Fuphrater
dài 2800km bắt nguồn từ miền rừng núi Ácmêri, chảy xuôi bên nhau rồi đổ
ra vịnh Pécxít (vịnh Ba Tƣ). Vùng bình ngun nằm giữa 2 sơng đó – ở hạ
và trung lƣu, thƣờng đƣợc gọi là Medopotami “Miền đất giữa 2 con sơng”
[2,62] phía Bắc và phía Đơng bình ngun Modopotami có dãy núi biên
giới. Ácmênica và cao ngun Iran khơ cằn, phía Tây giáp thảo nguyên
Xiri và sa mạc Arabi, phía Nam là vịnh Pécxích, vùng này có khí hậu lục
địa, ngày rất nóng, đêm rất lạnh, ít mƣa.
Giống nhƣ sơng Nin ở Aicập, 2 con sơng Tigris và Euphrates có vai
trị rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của các quốc gia ở
khu vực Lƣỡng Hà. Hàng năm, vào mùa xuân, băng tuyết ở vùng rừng núi
Ácmêritan lƣ đổ về làm mực nƣớc 2 con sông ấy dâng cao, gây nên những
trận lũ lụt khủng khiếp ở lƣu vực Lƣỡng Hà. Khi nƣớc rút đi, còn lại lớp
phù sa màu mỡ, dày đặc thích hợp cho việc gieo trồng lúa mạch, lúa mì.
Hai con sơng cịn tạo ra những con đƣờng thƣơng mại cầu nối giữa 2 vùng
Bắc Hải – Vịnh BaTƣ và giữa Địa Trung Hải với phƣơng Đông, tạo nên
hành lang giao lƣu kinh tế, văn hố giữa các quốc gia Đơng Tây.
Vào thiên niên kỷ IV trƣớc công nguyên, ngƣời Sumer thiên di từ
vùng rừng núi Châu Á xuống và định cƣ ở vùng phía Nam Lƣỡng Hà, họ
đƣợc coi là cƣ dân cổ xƣa nhất, họ là những ngƣời xây dựng nền văn minh
tới cổ xƣa lƣu vực Lƣỡng Hà. Sau đó, từ thiên niên kỷ III trƣớc công
nguyên, các bộ lạc du mục ngƣời Simite, bao gồm Akkad, Phoenicia,
Hebrw, Assyria, Chaldea... đã đến định cƣ trên đất rộng từ Syria đến sa
mạc Ả rập. Trong số đó, ngowif Akkad định cƣ ở vùng Lƣỡng Hà và bắt

14


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế

quốc Ả rập
đầu tranh giành bá quyền khu vực với ngƣời Sumes trong suốt mấy trăm
năm. Kết quả là cuối thiên niên kỷ III trƣớc công nguyên ngƣời Sumer và
ngƣời Akkad đã đồng hoá với nhau. Cuộc đấu tranh giành bá quyền giữa
các tộc ngƣời là nguyên nhân của sự ra đời, hƣng thịnh và suy vong của
một loạt các quốc gia ở Lƣỡng Hà thời cổ đại.
1.3.2.1- Các quốc gia của người Sumer và Akkad:
Vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV ngƣờn Sumer đã thiên di đến lƣu
vực Lƣỡng Hà, từ bỏ dần lối sống du mục, xây đắp nhiều cơng trình trị
thuỷ. Lấy nƣớc tƣới tiêu cho hoạt động kinh tế nông nghiệp, biến Lƣỡng
Hà thành một khu vực “có đầuy đủ những điều kiện tốt nhất đối với nông
nghiệp” [1, 65]. Những quốc gia cổ của ngƣời Sumer đã xuất hiện vào cuối
thiên niên kỷ IV, đầu thiên niên kỷ III trƣớc công nguyên, nổi tiếng nhất là
Ur, Eridu, Lagash, uruk, Nippua.
Chức vụ cao nhất trong thành bang là Patesi – Patesi là đại biểu của
quý tộc thị tộc, ban đầu do quý tộc bầu ra. Nhƣng về sau Patesi là đƣợc cha
truyền con nối, lúc đầu Patesi là ngƣời đại diện tối cao của tầng lớp tăng lữ,
ngƣời đại diện của nhà nƣớc, ngƣời chỉ huy qn đội, ngƣời quản lý kinh
tế, coi sóc các cơng trình xây dựng và thuỷ lợi.
Trong các quốc gia thành thị ở Sumer, ngồi vua cịn có các hội nghị
nhân dân và hội đồng ba lão. Các Hội nghị và các hội đồng này bầu ra các
quan chức của toà án và của bộ máy hành chính, quyết định các vấn đề
chính trị quan trọng nhƣ tuyên chiến và nghị hồ.Tình trạng chiến tranh
liên miên giải thích vì sao ở Lƣõng Hà tổ chức chế độ dân chủ quân sự vẫn
tồn tại cho đến giữa thiên niên kỷ III trƣớc cơng ngun. Song, do xã hội
đã phân hố rõ rệt, nên Patesi có quyền lực rất lớn. Đồng thời do cơng tác
quản lý hành chính và quản lý kinh tế đã trở nên phức tạp nên bộ máy nhà
nƣớc quan liêu đã sớm ra đời.

15



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Tuy nhiên, nét nổi bật của Nhà nƣớc Sumer thời kỳ này là tính chất
sơ khai của nó và những tàn dƣ của chế độ daan chủ bộ lạc, thị tộc còn tồn
tại khá phổ biến. Mặt khác sự bền vững của công xã nông thôn Sumer cũng
đã đƣợc nhà nƣớc phải sử dụng tới các cơ quan quản lý của công xã nhƣ là
bộ phận của guồng máy cai trị trong cả nƣớc “có nhƣ thế nhà nƣớc mới có
thể với tay xuống các làng xã và điều khiển các thành vien trong công xã
nông thôn” [1, 68].
Khoảng đầu thiên niên kỷ III trƣớc công nguyên, tộc ngƣời Xemit từ
miền ngoại Cápcadơ bắt đầu thiên di xuống phía Nam và ào ạt trào vào Tây
Á, sống du mục trên một dải đất dài từ Xiri đến sa mạc Ảrập. Trong số
những những tộc ngƣời Xêmit, ngƣời Akkad đã sống định cƣ ở vùng trung
du Lƣỡng Hà. Sau khi định cƣ ở Lƣỡng Hà, ngƣời Akkad lấy thành thị
Akkad, một thành thị có vị trí hết sức thuận lợi cho buôn bán để làm thủ
phủ và xây dựng nên quốc gia của mình.
Cuối thế kỷ XXIV trƣớc cơng nguyên, lãnh tụ quân sự của ngƣời
Akkad là Sasgon đánh bại vƣơng quốc Uruk của ngƣời Sumer, dùng vũ lực
thống nhất cả lƣu vực Lƣỡng Hà, xây dựng nên một đế quốc đầu tiên trong
lịch sử Tây Á. Quốc gia Akkad đƣợc mở rộng và phát triển phồn vinh dƣới
triều Vua Naramxin (2270 – 2251 trƣớc công nguyên) và các vua Akkad
cũng chủ trƣơng tiếp thu văn hoá của ngƣời Sumer và đồng hố ngƣời
Sumer với ngƣời Akkad.
Thời trị vì của vua Naramxin, cháu nội Sargon, quốc gia Akkad lại
càng phồn vinh. Bằng vũ lực và những cuộc chiến tranh xâm lƣợc,
Naramxin đã mở rộng cƣơng vực Akkad và đã hồn thành cơng cuộc chinh
phục những vùng đất của ngƣời Elam, của ngƣời Lumlubây, vƣơn tới khu
vực của các tộc ngƣời ở miền núi Acmeni, quân đội, Akkad cũng đã tấn

công Xiri và tràn tới bờ đông Địa Trung Hải. Một vùng đất rộng lớn ở Tây

16


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Á nằm trong sự khống chế của Akkad – vua Naramxin trở thành “vua 4
hƣớng của thế giới” [1,69].
Nhƣng, sự hùng mạnh của Akkad cũng khơng duy trì đƣợc lâu. Đến
cuối thế kỷ XXIII trƣớc công nguyên, Akkad bị ngƣời Guti ở phía Đơng
Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài (khoảng 70 năm).
Vào cuối thế kỷ XXII trƣớc công nguyên, sau khi ngƣời Guti bị đánh
đuổi, ngƣời Sumer phục hồi đƣợc quyền lực của họ ở Lƣỡng Hà, các thành
thị Sumer phát triển trở lại. Từ năm 2132 trƣớc công nguyên, quyền thống
trị ở Lƣỡng Hà chuyển sang tay vƣơng triều III của thành bang Ur. Đế
quốc Ur tồn tại trên 100 năm (2132 – 2024 trƣớc cơng ngun), mà cịn
khơi phục lại hầu hết đất đai của đế quốc Akkad xƣa kia. Vào cuối thế kỷ
XXI trƣớc công nguyên, đế quốc Ur bắt đầu suy yếu do những mâu thuẫn
xã hội; ngƣời Amoriter ở phía Tây và ngƣời Elam ở phía Đơng đã liên
minh với nhau lật đổ nền thống trị của đế quốc Ur. Lƣỡng Hà bƣớc vào
thời kỳ lịch sử mới.
1.3.2.2- Lưỡng Hà thời vương quốc Babylon:
Sau khi lật đổ vƣơng triều Ur, ngƣời Elam và ngƣời Amoriter có
những định hƣớng khác nhau: ngƣời Elam cƣớp bóc, vơ vét của cải của
Lƣỡng Hà rồi rút quân về nƣớc, ngƣợc lại ngƣời Amorites đã từ bỏ đời
sống du mục, định cƣ ở khu vực Lƣỡng Hà và xây dựng ở đây nhiều thành
thị của họ, nổi bật nhất là Ixin và Laxa (ở Nam Lƣỡng Hà) Esmuna và Meri
ở phía Bắc lƣu vực sông Tigris và Euphrater. Kể từ đây, Lƣỡng Hà bƣớc
vào thời kỳ phát triển hƣng thịnh khá lâu dài (từ đầu thế kỷ XIX trƣớc

công nguyên) đến đầu thế kỷ XVI trƣớc công nguyên), lịch sử gọi thời kỳ
này là cở Babylonia để phân biệt với tên Babylonia sau này. Cũng từ đây
Babylonia trở thành tên gọi chung cho cả vùng đất và những tộc ngƣời
sống trên lƣu vực Lƣỡng Hà.

17


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
Do có vị trí thuận lợi, nơi gặp gỡ của các con đƣờng buôn bán quan
trọng từ vịnh Ba Tƣ tới Tiểu Á và ngoại Kavkaz, từ Syria đến cao nguyên
Iran, Babylonia trở thành trung tâm kinh tế thƣơng mại, chính trị và văn
hố quan trọng nhất của Lƣỡng Hà và khu vực Cận Đơng.
Ngƣời có cơng xây dựng vƣơng quốc Babylonia thành quốc gia hùng
mạnh, thống nhất cả khu vực Lƣỡng Hà là vua Hănmurabi (1792- 1750
trƣớc cơng ngun). Dƣới thời trị vì của ơng, ngƣời Amorites đã quét sạch
thế lực của ngƣời Elam ở miền tây cao nguyên Iran, đem miền này sát nhập
với lƣu vực Lƣỡng Hà thành một đơn vị hành chính thống nhất. Ông sắp
đặt bộ máy quan lại ở triều đình để giúp vua trông coi việc lớn của cả nƣớc,
đồng thời cũng chia nƣớc thành từng miền và cử quan lại, lập quân đội
thƣờng trực và cử các quan võ chỉ huy. Cùng với việc tổ chức lại bộ máy
nhà nƣớc, xây dựng quân đội, phát triển kinh tế, Hammurabi đã khởi thảo
bộ luật tƣơng đối hoàn chỉnh để quản lý xã hội gồm 282 điều đƣợc khắc
toàn bộ ở phần dƣới, cƣa cột bia đá. Bộ luật gồm 3 phần: phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận. Trong phần kết luận Hamerabi đề cao cơng
lao của mình trƣớc nhân dân, kêu gọi đền ơn những ông vua kế tục và thực
hiện những điều luật của Hămmerabi “ Đây là pháp luật do Đức vua bách
thắng đặt ra để đem lại hạnh phúc chân chính và đặt nền thống trị nhân từ
trong nƣớc” [3. 34]

Bộ luật phản ánh các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hố xã hội của
vƣơng quốc Babylonia thời đó. Bộ luật khơng chỉ có ý nghĩa về mặt pháp
lý mà còn là nguồn tƣ liệu quý, phong phú do ngƣời đời sau biết đƣợc
những giá trị vật chất, tinh thần thời đó.
1.3.3- Ai cập cổ đại:
1.3.3.1- Điều kiện tự nhiên và dân cư:
Ai cập ở Đông bắc Châu Phi , là một vùng đồng bằng hẹp và dài nằm
dọc theo thung lũng sông Nile (chiều rộng của lƣu vực trung bình từ 5-

18


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
22km. Bị bao bọc bởi những dãy núi đá thẳng đứng nhƣ những bức tƣờng
bởi Hồng Hải ở phía Đơng và vùng sa mạc LiBi khơ cằn, nồng nực ở phía
Tây, Aicập xƣa kia hầu nhƣ bị tách biệt khỏi thế giới bên ngồi. Chỉ ở phía
Đơng bắc mới có một vùng đất hẹp, đất Xinai – nối liền Aicập với miền
Tây Á. Qua eo đất này, các Pharaông Aicập đã dẫn quân đi xâm lƣợc các
nƣớc láng giềng. Cũng từ đây, quân đội nƣớc ngoài và cả những đoàn lạc
đà của các thƣơng nhân, lƣng chở đầy hàng hoá của các nƣớc châu Á và
vùng Địa Trung Hải đã đến Aicập.
Cũng giống nhƣ các nền văn minh phƣơng Đơng khác, tồn bộ lịch
sử Aicập gắn liền với sông Nile – sử gia Hylạp cổ đại Hêrôdote đã không
ngoa khi viết: “Ai cập là tặng phẩm của sông Nile”. Sông Nile với chiều
dài gần 6500km, rộng nhất thế giới, không chỉ tạo nên một dải đất phù sa
màu mỡ, có nơi dày tới 10m, mà hàng nƣm cịn mang nƣớc tƣới cho cây
cối, hoa màu tƣơi tốt, biến Ai cập từ “một đồng cát bụi” thành “một vƣờn
hoa”. Do đất đai màu mỡ, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, trong đó nơng
nghiệp thuỷ nơng là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển lịch

sử của Ai cập. Nó là nguyên nhân và cũng là điều kiện tạo ra những yếu tố
ban đầu của sự hình thành nhà nƣớc chun chế kiểu phƣơng Đơng.
Con ngƣời đã sinh sống ở lƣu vực sông Nile từ thời đồ đá cũ. Các tài
liệu nhân chứng và khảo cổ đã xác định nhận rằng ngƣời Ai cập thời cổ là
những thể danh của Châu phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp của rất nhiều
bộ lạc, bằng chứng là những sọ cổ tìm thấy ở Nêgađa, là những bức tƣợng
thuộc thời tảo kỳ Vƣơng quốc, là sự gần gũi của ngôn ngữ Ai cập với ngôn
ngữ của các dân tộc Galla và Xômali, các tài liệu cũng cho thấy cƣ dân cổ
Ai cập lại có “họ hàng” gần gũi với các bộ lạc ngƣời LiBi ở Bắc phi. Cuối
cùng, rất có thể có một bộ phận nào đó của tộc ngƣời Hamite từ Tây Á đã
xâm nhập miền hạ du sơng Nile, dần dần đồng hố với thổ dân ở đây, hình
thành ra một bộ tộc mới là cƣ dân Ai cập.

19


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
1.3.3.2- Sự hình thành nhà nước cổ đại sơ khai:
Vào khoảng năm 4000 trƣớc công nguyên, chế độ thị tộc ở Ai cập
bắt đầu tan rã: xã hội có giai cấp và nhà nƣớc sơ khai ra đời.
Căn cứ vào sự hƣng thịnh và suy vong mà chúng ta có thể chia lịch
sử Ai cập cổ đại theo các thời kỳ sau đây:
- Thời kỳ tảo Vƣơng Quốc có niên đại từ 3200-3000 năm trƣớc cơng
ngun.
- Thời kỳ cổ Vƣơng Quốc có niên đại từ 3000-2400 năm trƣớc cơng
ngun.
- Thời kỳ trung Vƣơng Quốc có niên đại từ 2150-1710 năm trƣớc cơng
ngun.
- Thời kỳ tân Vƣơng Quốc có niên đại từ 1560-941 năm trƣớc công

nguyên.
- Thời kỳ hậu Vƣơng Quốc có niên đại từ 941-30 năm trƣớc cơng nguyên.
Thời kỳ tảo kỳ là thời kỳ xã hội nguyên thuỷ tan rã, xã hội hình
thành giai cấp, cũng là buổi đầu của sự thống nhất Aicập, q trình phân
hố giai cấp dẫn đến sự ra đời của các châu (cịn gọn là Nơm), chính châu –
Nơm là hình thức nhà nƣớc phơi thai đầu tiên của Aicập, q trình vận
động phát triển nội tại của Ai cập nảy sinh nhu cầu phải trấn áp nô lệ và
những thành viên công xã, phải thống nhất lực lƣợng để điều hành công tác
thuỷ lợi, để tự vệ và tiến hành xâm lƣợc. Mà nhà nƣớc phôi thai hợp từ
nhiều châu thành thƣợng Aicập và hạ Ai cập. Mỗi vƣơng quốc nhƣ thế có
từ khoảng 20 châu, khi xã hội đã phân hố giai cấp sâu sắc do nhu cầu phải
có một nhà nƣớc tập trung quyền lực để điều hành thuỷ lợi, chỉ huy tác
chiến, Ai cập đã hợp nhất thƣợng – hạ Ai cập lại với nhau. Ngƣời có cơng
xây dựng nền thống nhất đó là Mênet sáng lập ra vƣơng triều thứ nhất, ở
vƣơng triều I và II Ai cập chƣa phát triển thành một nƣớc chủ nô theo chủ
nghĩa chuyên chế trung ƣơng tập quyền. Nhà nƣớc Ai cập thống nhất tƣơng

20


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
đối hoàn chỉnh, vững chắc bắt đầu từ vƣơng triều thứ III – mở đầu thời đại
cổ vƣơng quốc năm 3000 trƣớc công nguyên.
Ai cập thời cổ vƣơng quốc (từ 3000 – 2400 trƣớc công nguyên). Đây
là thời kỳ phồn thịnh của nền chuyên chế trung ƣơng tập quyền, đứng đầu
nhà nƣớc là vua, có quyền lực tối cao vơ hạn, kiêm giữ đại quyền về chính
trị lẫn tôn giáo. Vua ở Ai cập gọi là Pharaông (kẻ ngồi trong cung điện),
dƣới vua là hệ thống quan lại do một tể tƣớng đứng đầu. Ở địa phƣơng có
châu là đơn vị hành chính do chúa châu cai trị với một bộ máy chính quyền

ở trung ƣơng, đền chùa tăng lữ hành nghề tôn giáo tách riêng thành hệ
thống biệt lập với nhà nƣớc. Thời kỳ cổ vƣơng quốc nhà nƣớc tổ chức lực
lƣợng quân đội theo chế độ bình dân và thịnh nhất là vƣơng triều III, vƣơn
triều IV, còn vƣơng triều V, VI chắc là thời kỳ suy kém của cổ vƣơng quốc,
tầng lớp thống trị thì tăng cƣờng vơ vét của cải, nhà chùa đƣợc hƣởng
nhiều bổng lộc trở thành thế lực có đặc quyền dẫn đến xu thế thốt li chính
quyền trung ƣơng, làm cho nhà nƣớc thống nhất ngày càng suy vi. Thời kỳ
của vƣơng triều VI khởi nghĩa nổi loạn xảy ra khắp nơi, đến cuối vƣơng
triều VI chính quyền trung ƣơng sụp đổ. Ai cập phân thành nhiều châu độc
lập do bọn quý tộc chúa châu cai trị kéo dài cho đến vƣơng triều X.
Thời kỳ trung vƣơng quốc thì các Pharng khơng ngừng tiến hành
xâm lƣợc bành trƣớng ra bên ngồi nhƣ xâm lƣợc :Tây Á, chinh phục
LiBi, bán đảo Xinai để cƣớp của, bắt nô lệ. Cách thức để tiến hành xâm
lƣợc nhƣ: đánh Xiri, Palestin. Đây cũng là thời kỳ mà những nƣớc lớn hình
thành ở các vùng chiếm cứ đƣợc, Ai cập cử quan lại của mình trực tiếp đến
cai trị. Việc mở rộng lãnh thổ do kết quả của chiến tranh xâm lƣợc làm cho
Ai cập phát triển lên trong lĩnh vực kinh tế. Song sự phát triển đó cũng
phục vụ cho giai cấp thống trị. Do mâu thuẫn gay gắt giữa tập đoàn thống
trị với dân nghèo, vì vậy nổ ra phong trào khởi nghĩa và tranh chấp vào
khoảng 1750 trƣớc công nguyên, kéo dài khoảng 80 năm, song vì quần

21


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
chúng thiếu đoàn kết, thiếu thống nhất, tổ chức kém nên cuối cùng bị đàn
áp. Trong tình hình đó năm 1710 ngƣời Hyksơt từ phƣơng đơng sang xâm
lƣợc Ai cập, Hyksơt có thế lực qn sự mạnh, đặc biệt là đội kỵ binh
thuyền chiến đã chiếm cứ đƣợc Ai cập, lập ra vƣơng triều ngoại tộc, thống

trị ngót 140 năm. Thời kỳ trung vƣơng quốc đến đây kết thúc, Ai cập bƣớc
sang thời kỳ lịch sử mới.
Năm 1570 trƣớc công nguyên, ngƣời Hyksôt bị đánh đuổi khỏi Ai
cập, đất nƣớc lại đƣợc thống nhất, thời kỳ tân vƣơng quốc bắt đầu. Trên cơ
sở nền kinh tế đã phát triển, do nhu cầu cƣớp đoạt của cải, nô lệ, thì các
Pharng vƣơng triều XVIII khơng ngừng mở rộng xâm lƣợc, nổi tiếng
nhất là Tutmôsit III. Đứng đầu nhà nƣớc tập quyền là các Pharaông nắm
mọi quyền lực tối cao: quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội, đồng thời là
ngƣời đứng đầu tôn giáo, dƣới Pharaông là 2 tể tƣớng: một ở Mempíp và
một ở Tebơ cai trị ở các châu. Sau khi Ramxét II chết (1250 trƣớc cơng
ngun) Ai cập lâm vào tình trạng li tán. Tebơ và phần miền Nam tách khỏi
Ai cập, Pharaông Ai cập phải dời đô về tam giác châu sông Nile. Cuộc
phân liệt này kết thúc thời kỳ tân vƣơng quốc.
Ai cập bƣớc sang thời kỳ hậu vƣơng quốc, là thời kỳ khủng hoảng
của xã hội cổ đại, thời kỳ loạn tranh của các thế lực, các cứ của địa phƣơng
– thời kỳ xâm lƣợc, chống xâm lƣợc kéo dài đến năm 30 trƣớc công
nguyên – là niên điểm kết thúc lịch sử cổ đại Ai cập.
1.3.4- Các quốc gia cổ đại khác trong khu vực.
1.3.4.1- Các quốc gia của người Phoenicia.
Phoenicia là một dải đất nhỏ hẹp nằm ở phía Đơng Địa Trung Hải,
phía Bắc giáp với Siria, phía Nam giáp với Palestin, phía Tây giáp với biển
Địa Trung Hải, phía Đông là núi rừng Libăng trùng điệp.
Ngƣời Phoenicia là một nhánh của chủng tộc Semite. Từ nửa đầu
thiên niên kỷ III trƣớc cơng ngun, xã hội có giai cấp dần dần hình thành

22


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập

và nhiều thị tộc lần lƣợt ra đời ở vùng ven biển. Mỗi thành thị về sau kết
hợp với vùng nông thôn phụ cận hợp thành một quốc gia thành thị hay
thành bang với nền kinh tế, chính trị độc lập, mỗi quốc gia thành thị
Phoenicia đều là một nhà nƣớc nhỏ theo chủ nghĩa chuyên chế kiểu
Phƣơng Đông, các vua Phoenicia nắm giữ cả vƣơng quyền lần thần quyền,
tuy nhiên tính chất và mức độ chuyên chế ở đây không rõ nét, không tập
trung bằng ở Ai cập hay ở Lƣỡng Hà.
1.3.4.2- Quốc gia của người Hittite.
Ngƣời Hittite định cƣ ở lƣu vực sông Halis ở miền bắc Tiểu Á. Họ
đã lập nên ở đây quốc gia chiếm hữu nô lệ vào khoảng đầu thiên niên kỷ II
trƣớc cơng ngun, và đã phát triển về phía nam đến tận biên giới Babylon
vào Siria. Nhờ sớm biết chế tạo và sử dụng đồ sắt, ngƣời Hittite đã trở
thành một bộ tộc hùng mạnh ở Tiểu Á. Một bộ luật cổ phát hiện đƣợc ở di
chỉ thành Hattusas cung cấp những thông tin khá phong phú về xã hội của
ngƣời Hittite. Đây là một nhà nƣớc chuyên chế sơ khai trong đó có nhiều
tàn dƣ của thế độ thị tộc.
Đế quốc Hittite tồn tại không lâu. Đến khoảng năm 1200 trƣớc công
nguyên, khi các bộ tộc Ấn - Âu từ bán đảo Balkan vƣợt eo biển Bosphore
xâm nhập Tiểu Á thì đế quốc Hittite bị tan rã. Mãi đến khi đế quốc Assyria
hùng mạnh lên thì ngƣời Hittite mới bị ngƣời Assyria chinh phục. Tuy vậy,
ngƣời Hittite đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong lịch sử văn minh của khu
vực Trung Cận Đơng nói riêng và lịch sử văn minh thế giới nói chung.
1.3.4.3- Về Palestime.
Vùng cao nguyên có nhiều núi hẹp và dài nằm giữa Syria và Ai cập
là quốc gia cổ xƣa của ngƣời Do Thái có tên gọi là Palestime hay Canaan.
Ngƣời Canaan là nhánh của ngƣời Semite sinh sống ở đây từ thiên niên kỷ
thứ III trƣớc công nguyên. Vào cuối thiên niên kỷ thứ II trƣớc công

23



Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
nguyên, bộ lạc khác của ngƣời Semite là Hebrew (ngƣời Do Thái) cũng
xâm nhập với ngƣời Canaan và họ dần dần thay thế ngƣời Canaan làm chủ
trên mảnh đất này.
Trong quá trình đấu tranh với ngƣời Plistine, trong xã hội ngƣời
Hebrew đã xuất hiện một số quý tộc quân sự có thế lực, mà nổi bật nhất là
Saoul. Dƣới triều của vua Solomon (972 – 932 trƣớc công nguyên) vƣơng
quốc Hebrew phát triển cực thịnh trên cơ sở chế độ nơ lệ. Ơng ra sức bóc
lột vơ vét của cải ở nhiều nơi về, xây dựng nhiều cung điện nguy nga cực
kỳ xa xỉ. Sau khi Solomon chết thì vƣơng quốc Hebrew bị chia làm hai
nƣớc nhỏ: Israel ở miền bắc và Judea ở miền nam. Vận mệnh của hai nƣớc
này trong lịch sử không giống nhau. Năm 722 trƣớc công nguyên, nƣớc
Israel bị đế quốc Assyria thôn tính, cịn Judea tồn tại trên 130 nữa, đến 586
trƣớc cơng ngun thì bị vƣơng quốc Babylon thơn tính. Do khơng tìm
đƣợc lối thốt trong thực tế, họ đã tìm lối thốt trong tƣ tƣởng, do đó đã
hình thành ra đạo Do Thái.
1.3.4.4- Đế quốc Assyria.
Assyria nằm ở trung lƣu sơng Tigril, phía bắc Lƣỡng Hà cổ đại. Vào
khoản thiên niên kỷ III trƣớc công nguyên ngƣời Semite đã thâm nhập với
ngƣời bản địa đó là Subari, họ đã dựng lên thành Assur rồi dần dần phát
triển thành quốc gia thành thị hay thành bang Assyria. Trong lịch sử, đế
quốc Assyria là đế quốc đầu tiên có lãnh thổ rộng lớn nhất, cũng là đế quốc
đầu tiên tập hợp đƣợc nhiều trung tâm văn hoá cổ đại nhƣ: Lƣỡng Hà, Iran,
Tiểu Á ... song chính sự bành trƣớng của quý tộc quân sự Assyria, đứng
đầu là vua Tigalath – Pileser (745 –727 trƣớc cơng ngun) và sau đó là
Sargon II (722-705 trƣớc cơng ngun) thì cực kỳ tàn khốc. Đế quốc
Assyria mang tính chất quân phiệt rõ rệt, biến đa số khác miền bị chinh


24


Qúa trình hình thành, phát triển và suy vong của Đế
quốc Ả rập
phục thành những tỉnh cuả mình. Đứng đầu mỗi tỉnh có một viên tổng đốc
do quốc vƣơng Assyria trực tiếp bổ nhiệm, họ có nghĩa vụ cống nạp, cung
cấp binh lính và ngoan ngỗn tn theo mệnh lệnh của vua Assyria.
Xây dựng trên sự tàn bạo, đế quốc Assyria suy sụp dần dần, ngƣời
Scythes từ Châu Âu tới tàn phá, ngƣời Babylon liên kết với ngƣời Ba Tƣ
xâm chiếm đế quốc này. Năm 612 trƣớc công nguyên thành Nineveh thất
thủ và năm 605 trƣớc công nguyên Assyria bị diệt vong.

CHƯƠNG II
SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG CỦA ĐẾ QUỐC Ả RẬP
(TỪ THẾ KỶ VII ĐẾN THẾ KỶ XIII)

2.1- Tình hình bán đảo Ảrập trước khi nhà nước Ảrập ra đời và
sự ra đời của nhà nước Ảrập.
2.1.1- Tình hình bán đảo Ảrập trước khi nhà nước Ảrập ra đời.
Bán đảo Ảrập rộng lớn với diện tích gần 3 triệu km2, gồm chủ yếu là
những vùng thảo nguyên khô cằn và sa mạc cháy bỏng, hầu nhƣ quanh năm

25


×