Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Bước đầu tìm hiểu về mô hình nhà nước kiểu mới ở việt nam năm đầu tiên sau cách mạng tháng tám (02

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.24 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, tiến hành cơng nghiệp hố hiện
đại hoá, Đảng và Nhà Nước ta đang phấn đấu xây dựng đất nước ''dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Trong đó nhiệm vụ cơ bản là xây dựng
một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân với mục đích là ''mọi người ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành''. Song một vấn đề hết sức quan trọng là
chúng ta xây dựng nó trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm, những bài học của quá
trình xây dựng nhà nước trước đó để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho công cuộc
xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới ngày nay. Bởi như có người đã từng nói
''chúng ta phải hỏi quá khứ, bắt nó giải thích cho hiện tại và đốn định cho tương lai'',
hay như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết.
''Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam''
Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tơn trọng quá khứ, giữ gìn những gì mà
chúng ta đã làm được trước đó, để góp phần vào việc xây dựng, phát triển và hoàn
thiện đất nước trong điều kiện lịch sử mới với mn vàn khó khăn và thử thách hiện
nay.
Một dấu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta là vì sao trong năm đầu tiên của nền cộng
hồ, khi Cách mạng tháng Tám vừa mới thành cơng, chính quyền nhà nước non trẻ
vừa mới ra đời nhưng vẫn đứng vững trong suốt ba mươi năm chiến tranh giải phóng
và đến nay nó vẫn tiếp tục phát huy được vai trị của mình
Do vậy, với nội dung của đề tài ''Bước đầu tìm hiểu về mơ hình nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (02/09/1945-19/12/1946)'',
hy vọng nó sẽ là một nguồn tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu, học tập, giảng
dạy môn lịch sử trong giai đoạn lịch sử quan trọng này. Đồng thời nếu có điều kiện
đi sâu nghiên cứu, phát triển thì nó sẽ là nguồn tài liệu quan trọng cho việc nghiên
cứu về mơ hình nhà nước trong năm đầu tiên của nền cộng hồ để góp phần vào việc
xây dựng nhà nước trong giai đoạn lịch sử hiện nay.
1



2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay thì đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bài viết, bài nói về
nhà nước kiểu mới ở nước ta, song ở phạm vi của thời gian là “năm đầu tiên sau
Cách mạng tháng Tám” thì có một số tác phẩm sau đây đã đề cập với nhiều góc độ
khác nhau.
2.1. Cuốn ''Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam'' của tác giả Nguyễn Thị
Phụng, xuất bản năm 1993 có đề cập một cách khá tồn diện về q trình hình thành,
tổ chức, hoạt động và cả hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn ở mức độ chung chung, sơ
lược.
2.2 Cuốn ''Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật'' của Nhà xuất bản Pháp
lý,xuất bản năm 1985 thì lại đề cập về vai trò của cá nhân Hồ Chủ Tịch thơng qua
bài viết bài nói chuyện, của Người về nhà nước trong đó có đề cập rất nhiều đến gian
đoạn từ ngày 2/9/1945 đến 19/12/1946.
2.3. Cuốn ''Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghệp xây dựng nhà nước kiểu mới
và pháp luật ở Việt Nam'' xuất bản năm 1982 của Nguyễn Ngọc Minh, thì đề cập đến
tồn bộ vai trị của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới và
pháp luật ở nước ta. Trong đó đối với giai đoạn năm đầu tiên của nền cộng hoà tác
giả đề cập nhiều vấn đề về nhà nước và pháp luật với vai trò to lớn của Hồ Chủ tịch
nhưng lại chưa nêu lên được cơ cấu tổ, chức và bản chất của nhà nước kiểu mới
trong giai đoạn lịch sử này.
2.4. Cuốn ''Hồ Chí Minh với nhà nước và pháp luật'' của Trung ương hội luật
gia Việt Nam và hội luật gia Nghệ - Tĩnh, xuất bản năm 1989 cũng còn đề cập một
cách chung chung về nhà nước kiểu mới trong năm đầu tiên của nền cộng hồ và
cịn thiếu những nhận xét, đánh giá của tác giả.
2.5. Trong bài viết ''Bản chất nhà nước Việt Nam trong Cách mạng tháng
Tám'' của Văn Tạo, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 17 tháng 9 năm 1999 thị lại chỉ
mới nêu và phân tích được rằng đó là nhà nước '' Của dân, do dân và vì dân''.


2


2.6. Trong bài '' Cách mạng tháng Tám 1945 và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước XHCN của dân do dân và vì dân'' của Nguyễn Trọng Phúc, đăng trên
Tạp chí Cộng sản số 24 tháng 8 năm 2002 thì cũng có đề cập đến việc tổ chức hoạt
động và bản chất nhà nước Việt Nam trong năm đầu tiên sau cách mạng tháng Tám
nhưng còn sơ lược, chưa cụ thể và nặng về vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.7. Trong bài ''Nhìn lại q trình xây dựng nhà nước Việt Nam kiểu mới'' của
Cao Văn Lượng, đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 4 năm 2000, thì lại đề cập
một cách dàn trải và thiếu trọng tâm đối với giai đoạn lịch sử này.
Ngồi ra cịn nhiều cơng trình ngiên cứu, nhiều bài viết khác có đề cập đến vấn
đề xây dựng nhà nước trong thời kỳ 1945-1946, nhưng tác giả không có điều kiện đi
sâu nghiên cứu hoặc khơng có điều kiện để trích dẫn. Nhưng trên cơ cở đó qua việc
tham khảo, chọn lọc để phục vụ cho cơng trình nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Là nghiên cứu về nhà nước Việt Nam kiểu mới,
được phản ánh trên các mặt: Quá trình hình thành nhà nước, sự ra đời và nội dung
của nhữngvăn bản pháp luật đầu tiên, hoạt động và bản chất của nhà nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu là từ ngày 02/09/1945 sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ cho đến ngày
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Lời kêu gọi kháng chiến ngày 19/12/1946.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nguồn tài liệu: Để phục vụ cho khoá luận tốt nghiệp này, tác giả dựa trên
nhiều nguồn tài liệu khác nhau như sách, báo, tạp chí và các cơng trình khoa học mà
đề câp đến vấn đề xây dựng nhà nước trong giai đoạn lịch sử này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: ở đây tác giả dựa vào nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như tổng hợp, phân tích, logic, lịch sử, đối chiếu, so sánhv.v…
Trong đó có hai phương pháp chủ đạo là tổng hợp và phân tích.

5. Bố cục của khố luận:
3


Ngồi mở đầu và kết luận,nội dung khố luận được chia làm hai chương.
Chương 1: Q trình lựa chọn mơ hình nhà nước ở Việt Nam (1858-1945).
Chương 2: Nhà nước Việt Nam kiểu mới năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám
(2/9/1945 - 19/12/1946)

4


MỤC LỤC

Mở đầu……………………………………………………………………….
Nội dung……………………………………………………………………..
Chương I. Q trình lựa chọn mơ hình Nhà nước ở Việt Nam (1858 - 1945)…….
1.1. Con đường cứu nước phong kiến với mơ hình Nhà nước quân chủ chuyên
chế (1858 - 1896)……………………………………………………….
1.1.1. Cuộc kháng chiến chống Pháp của Vua tôi nhà Nguyễn………………
1.1.2. Phong trào Cần Vương sự- tìm lại chế độ phong kiếnchuyên chế (1885- 1896)
1.2. Con đường cứu nước tư sản với kiểu nhà nước tư bản chủ nghĩa…………
1.2.1. Sĩ phu phong kiến Việt Nam với con đường cứu nước tư sản…………..
1.2.1.1. Mơ hình Nhà nước trong tư tưởng Phan Bội Châu……………………
1.2.1.2. Phan Châu Trinh với mơ hình Nhà nước tư bản chủ nghĩa…………...
1.2.2. Giai cấp tư sản Việt Nam và quá trình cứu nước trên lập trường tư sản.
1.3. Con đường cứu nước theo khuynh hướng vơ sản và sự hình thành
mơ hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa (1930 - 1945)……………………..
1.3.1. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản……………………………..
1.3.2. Xô Viết Nghệ Tĩnh - Mơ hình đầu tiên về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

1.3.3. Mặt trận Việt Minh bước phát triển mới về xây dựng chính
quyền trong phong trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945)……………
1.3.4. Khởi nghĩa từng phần và các hình thức chính quyền cách mạng
Chương II. Nhà nước Việt Nam kiểu mới năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám
(2/9/1945 - 19/12/1946)…………………………………………………
2.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
2.2. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước những điều kiện lịch sử mới…..
2.3. Quá trình xây dựng và củng cố chính quyền từ Trung ương đến địa phương
2.3.1. Xây dựng củng cố chính quyền Trung ương…………………………
2.3.2. Xây dựng củng cố chính quyền địa phương………………………….
2.3.3. Phát triển hệ thống các cơ quan chuyên chính………………………..
2.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền - hiến pháp đầu tiên……………………
2.4.1. Những văn bản pháp luật đầu tiên…………………………………….
2.4.2. Hiến pháp 1946………………………………………………………..
2.5. Những hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong năm đầu tiên của nền cộng hoà
2.6. Bản chất Nhà nước Việt Nam trong năm đầu của nền cộng hoà……….
5

11

6

6

6
6
6
8
10
10

10
12
14
16
16
18

20
23
26
26
29
32
33
41
42
44
44
47
48
54
54

6


2.6.1. Một Nhà nước của dân, do dân và vì dân………………………………
2.6.2. Một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ dựa trên cơ
sở liên minh công - nông - trí thức và thu hút nhân tài…………………
Kết luận………………………………………………………………………

Tài liệu tham khảo……………………………………………………………
Phụ lục

6


NỘI DUNG
Chương 1:
Q TRÌNH LỰA CHỌN MƠ HÌNH NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM(1858-1945)
Đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập, nhưng
ngay lập tức nó bước vào giai đoạn khủng hoảng về mọi mặt, khởi nghĩa nông
dân liên tiếp nổ ra, làm cho "cơn bệnh" khủng hoảng lại càng thêm trầm trọng,
các quy tắc Nho giáo bị đảo lộn. Đây cũng là thời điểm chủ nghĩa tư bản ở châu
Âu phát triển mạnh mẽ, đang chuyển dần sang giai đoạn chủ nghĩa để quốc, nhu
cầu về thị trường, nguồn nguyên liệu và nguồn nhân lực càng đặt ra cấp thiết hơn
bao giờ hết. Vì thế các nước tư bản phương Tây ồ ạt tiến hành xâm lược thuộc
địa, mà khu vực được họ chú ý nhất là châu Á- nơi làm thoã mãn nhu cầu phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Trong khi đó các nước châu Á lại đang chìm
trong''đêm trường trung cổ'', nên đây chính là điều kiện thuận lợi để các nước tư
bản phương Tây tiến hành chiến tranh xâm lược. Chính sự khủng hoảng nghiêm
trọng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn cộng với vị trí địa lý đặc biệt và sự
giàu có về tài nguyên thiên nhiên mà được ví là"rừng vàng , biển bạc , đất phì
nhiêu "đã kích thích sự xâm lược của tư bản phương Tây mà đi đầu là tư bản
Pháp . Năm 1858, thực dân Pháp đã tiến hành nổ súng xâm lược nước ta, hòng
biến nước ta thành thuộc địa của chúng và qúa trình xâm lược này đã được hoàn
tất vào năm 1884, với hoà ước Pa-Tơ-Nốt mà triều đình Huế đã ký với Pháp .
1.1 Con đường cứu nước phong kiến với mơ hình nhà nước quân
chủ chuyên chế (1858-1896).
1.1.1. Cuộc kháng chiến chống Pháp của vua tôi nhà Nguyễn (1858-1884)

Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã kéo tới dàn trận tại
cửa biển Đà Nẵng, chính thức tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta. Ngay

7


lập tức triều đình Huế đã điều lực lượng quân đội, do tướng Nguyễn Tri
Phương làm tổng chỉ huy lo việc chống giặc tại mặt trận Quảng Nam. Tại
đây quân xâm lược không thể tiến sâu vào được đất liền bởi quân đội nhà
Nguyễn đã tìm mọi cách ngăn chặn. Trước tình hình đó liên qn Pháp- Tây
Ban nha lại kéo vào Gia Định. Từ lúc kéo quân vào đây, quân xâm lược đã
nhiều phen nguy ngập bởi sự phản kháng mạnh mẽ của quân đội nhà Nguyễn
và một số lực lượng yêu nước của nhân dân ta. Nhưng với thái độ do dự, tư
tưởng sợ Pháp và cầu hoà, cùng với sự yếu kém thối nát của chính quyền
phong kiến buổi suy tàn nên thực dân Pháp lần lượt chiếm được ba tỉnh miền
Đông, rồi ba tỉnh miền Tây. Tiếp đó bè lũ thực dân hiếu chiến đã đem quân ra
đánh Bắc kỳ và Trung kỳ. Triều đình Huế đã cử nhiều tướng tài như: Nguyễn
Tri Phương, Hoàng Diệu, Lưu Vĩnh Phúc, Hoàng Tá Viên ,… tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nhưng kết quả là thực dân Pháp đã đặt
được ách đơ hộ trên tồn cõi nước ta mà nội dung chính được phản ánh trong
hồ ước Hắc Măng và hoà ước Pa Tơ Nốt.
Mặc dù cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của của vua
tơi nhà Nguyễn đã thất bại – và đó là sự thất bại về chiến lược, sách lược
trong đường lối kháng chiến chống một kẻ thù mạnh hơn ta cả một phương
thức sản xuất. Nhưng chúng ta thấy rằng cuộc kháng chiến chống xâm lược
đó phần nào thể hiện tinh thần tự vệ, tinh thần dân tộc, nhưng đây chính là
cuộc kháng chiến bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến đang trong
giai đoạn mục nát và"thối rữa". Chúng ta cần nhận thức một điều rằng những
hoà ước mà triều đình Huế đã ký kết với Pháp là nhằm bảo vệ ngai vàng, bảo
vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, họ đã đặt quyền lợi của giai cấp, của

dòng họ lên trên quyền lợi của dân tộc, để rồi dựa vào Pháp mà duy trì chế độ
chuyên chế của mình. Đến đây triều đình Huế thực chất chỉ cịn là chính
quyền phong kiến bù nhìn, làm tay sai cho Pháp để đàn áp và bóc lột nhân dân

8


ta. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nhằm bảo vệ chế độ
phong kiến, bảo vệ ngai vàng của vua tơi nhà Nguyễn đã hồn tồn thất bại
nhưng ngai vàng phong kiến vẫn còn trên danh nghĩa, điều đó cho thấy con
đường cứu nước chống thực dân Pháp xâm lược nhằm duy trì chế độ phong
kiến chuyên chế đến lúc này đã thất bại. Sự thất bại đó cũng là một điều dễ
hiểu và dễ thừa nhận vì một nhà nước phong kiến chuyên chế đang trong cơn
"hấp hối" thì khó mà ''gượng'' dậy được, nó lấy đâu ra sức mạnh để tự vệ.
Điều này càng khẳng định rằng trong lúc các nước tư bản châu Âu đang
chuyển mình sang giai đoạn chủ nghia đế quốc, hay một số nước ở châu Á
như Nhật Bản, Thái Lan đang tiến hành cải cách đất nước, nhằm mở đường
cho chủ nghĩa tư bản phát triển thì chế độ phong kiến nhà Nguyễn vẫn trì trệ
bảo thủ trong chính sách đối nội, đối ngoại. Về chính sách đối ngoại trong lúc
ánh sáng văn minh phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào các nước châu
Á thì nhà Nguyễn lại hồn tồn cự tuyệt với nó, cịn đối với nhà Thanh thì lại
tôn sùng một cách mù quáng. Bởi vậy sự tồn taị của mơ hình qn chủ chun
chế là khơng phù hợp với thời đại, khơng được lịng dân thì thất bại là tất yếu
1.1.2. Phong trào Cần Vương- sự tìm lại chế độ phong kiến
chuyên chế (1885-1896)
Hai hoà ước Hắc Măng (1883)và Pa-Tơ- Nốt (1884) được ký kết dưới
áp lực quân sự của thực dân Pháp, đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của nhà
nước phong kiến Việt Nam đôc lập và sự đầu hàng của nhà Nguyển trước tư
bản Pháp [28,63]. Tuy nhiên điều chúng ta dễ nhận thấy là tinh thần yêu
nước, tinh thần dân tộc của nhân dân ta, được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch

sử , chống giặc ngoại xâm thì khơng bao giờ mất đi mà nó vẫn âm ỉ cháy.
Riêng trong nội bộ triều đình Huế vẫn có một bộ phận những người yêu nước,
kiên quyết đánh giặc, nhưng do tình thế trước mắt mà buộc phải ngồi im chờ

9


thời cơ và sẵn sàng hành động khi thời cơ đến, mà tiêu biểu cho số đó là Tơn
Thất Thuyết. TônThất Thuyết đã ra sức tập hợp lực lượng, sẵn sàng phế truất,
trừ khử các ông vua, bon quan lại và hồng thân quốc thích có tư tưởng thân
Pháp hoặc sợ Pháp. Nhưng công việc chuẩn bị của ông trong giai đoạn đầu bị
thực dân Pháp phát hiện nên nhanh chóng thất bại. Sáng ngày 05-07-1885,Tơn
Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi, cùng đoàn tuỳ tùng chạy ra Quảng Trị. Tại
đây ông đã lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất,
nhưng do sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua
Hàm Nghi vượt qua đất Lào, rồi đến vùng Hà Tĩnh. Tại đây Hàm Nghi đã hạ
chiếu Cần Vương lần thứ hai vào ngày 20-09-1885. Hưởng ứngchiếu Cần
Vương, nhân dân ta khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu
nước đã sôi nổi đứng lên chống Pháp [3,67] .Về danh nghiã thì đây là phong
trào Cần Vương, song trên thực tế nó lại là một phong trào yêu nước, đấu tranh
chống lại sự thống trị của thực dân Pháp của nhân dân ta, chứ hoàn toàn khơng
có sự hiện diện của qn đội triều đình. Phong trào Cần Vương đã lôi kéo đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, với nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra trên khắp
các địa phương trong cả nước, như khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hùng
Lĩnh…Và kết quả cuối cùng là phong trào Cần Vương cũng đã thất bại, bởi sự
đàn áp đẫm máu của thực dân Pháp và mặt khác là do khâu tổ chức của phong
trào
Điều chúng ta dễ nhận thấy là ngay từ đầu tên gọi của nó có nghĩa là
giúp vua - nghĩa là nhằm ''khơi phục lại nước Việt Nam cũ'' hay nói cách khác
đi là xây dựng lại nhà nước quân chủ phong kiến ở Việt Nam nhằm khôi phục

và bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến [24,197] .Điều này một lần nữa
khẳng định lại rằng con đường cứu nước nhằm xây dựng lại kiểư nhà nước
phong kiến đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, so với tiến trình chung của lịch sử
nhân loại, mà hiện thân của nó là triều đình phong kiến nhà Nguyễn lúc bấy

10


giờ - đã không tranh thủ đươc sự ủng hộ rộng rãi và to lớn từ sức mạnh của
nhân dân lao động - những người làm nên lịch sử. Sự thất bại của phong trào
Cần Vương có nghĩa là kiểu nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến đã
hết vai trò lịch sử ở Việt Nam. [24,197].
1.2. Con đường cứu nước tư sản với kiểu nhà nước tư bản chủ
nghĩa
Đầu thế kỷ XX, sự thức tỉnh của châu Á cùng với phong trào dân chủ tư
sản ở châu Âu đã ít nhiều ảnh hưởng đến Việt Nam, làm xuất hiện những trào
lưu tư tưởng mới, làm nảy sinh các phong trào yêu nước và cách mạng mà đại
biểu xuất sắc là Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can…Họ tổ
chức các phong trào như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân. Bởi lúc
này do chính sách khai thác thuộc địa đã phần nào tác động đến toàn bộ nền
kinh - tế xã hội Việt Nam, dẫn đến sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng
của một số sỹ phu yêu nước. Mặt khác nó cũng làm cho các giai tầng trong xã
hội Việt Nam có những chuyển biến nhất định và xuất hiện một số giai cấp
mới, mà tiêu biểu là giai cấp tư sản. Vừa mới ra đời, giai cấp tư sản đã bước
ngay lên vũ đài lịch sử tiến hành đấu tranh đòi lại nền độc lập cho dân tộc. Tất
thảy họ đều muốn cứu nước, muốn địi quyền lợi cho giai cấp mình nhưng
theo những con đường cách mạng khác nhau dưới tư tưởng tư sản nhằm thiết
lập một mơ hình nhà nước hồn tồn khác với mơ hình nhà nước phong kiến,
đó là mơ hình nhà nước tư bản chủ nghĩa.
1.2.1. Sỹ phu phong kiến Việt Nam với con đương cứu nước tư sản

Như đã nói ở trên, tiêu biểu cho tầng lớp sỹ phu phong kiến tư sản hoá Việt
Nam đã chịu những tác động mạnh mẽ từ bên ngoài và những chuyển biến
trong nước, sau sự thất bại của phong trào Cần Vương nên họ đã đi tìm con

11


đường cứu nước mới là con đường cứu nước tư sản mà đại diện tiêu là Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh…
1.2.1.1.Mơ hình nhà nước trong tư tưởng Phan Bội Châu
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867, ở thôn Sa Nam, xã
Đồng Liệt, tổng Xuân Liễu, thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An - mảnh đất "địa
linh nhân kiệt". Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu
nước, ông đã từng đậu giải nguyên khoa thi hương(1900) tại trường thi Nghệ
An. Phan Bội Châu tham gia hoạt động yêu nước từ rất sớm. Nhưng trong giai
đoạn đầu Phan Bội Châu chưa vượt qua được tư tưởng bạo động ở thời kỳ
Cần Vương, của anh hùng lục lâm và những người trong đảng Cần
Vương[33,4], qua việc tổ chức đánh thành Nghệ An (1901). Qua thất bại Phan
Bội Châu ngày càng trưởng thành về mọi mặt và bước đầu ơng đã thấy được
vai trị to lớn cua nhân dân trong sư nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc,
nên ơng đã tiến hành đi trong Nam, ngồi Bắc để tập hợp lực lượng. Năm
1905, Phan Bội Châu sang cầu viện Nhật Bản. Mặc dù việc cầu viện không
thành nhưng qua viêc tiếp xúc với các chính khách Nhật, tận mắt thấy được
sự phát triển của Nhật Bản và tiếp xúc với Lương Khải Siêu cùng với những
"Tân thư", "Tân sách" mà ơng được tiếp xúc trước đó đã làm phong phú thêm
tư tưởng dân chủ trong con đường cứu nước của ông.
Lúc đầu tư tưởng dân chủ trong con đường cứu nước của Phan Bội
Châu là thành lập một tổ chức để tập hợp lực lượng, xây dựng tiềm lực để tiến
hành kháng chiến chống Pháp giành lại độc lập cho dân tộc, sau đó thiết lập
chế độ quân chủ lập hiến như ở nước Anh, nước Nhật…Phan Bội Châu cùng

với Nguyễn Hàm và một số người khác đã lập ra hội Duy Tân do Cường Để
làm chủ hội (1904). Việc chọn một người trong dịng dõi hồng tộc để làm
chủ hội Duy Tân khơng có nghĩa là nhằm mục đích khơi phục lại nhà Nguyễn

12


mà chỉ là biện pháp mang tính chất sách lược, là phương tiện để đạt được mục
đích chứ khơng phải là mục đích[33,6] . Vì theo như Phan Bội Châu kể lại thì
đây là sáng kiến của Nguyễn Hàm nhằm tập hợp lực lượng cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc còn sau khi đã giành được độc lập cho dân tộc thì sẽ
thiết lập một chế độ nhà nước mà Cường Để đóng vai trị"đại diện" trong chế
độ, cịn chính quyền thực sự vẫn nằm trong tay ba viện, trong đó hạ viện là
nơi đề ra các nghị quyết và hạ viện thì do dân bầu ra theo chế độ phổ thông
đầu phiếu. Lực lượng tham gia bầu cử là mọi tầng lớp nhân dân không phân
biệt sang hèn, giàu nghèo, lớn bé…Trong chế độ đó theo Phan Bội Châu thì
báo chí sẽ được tự do, giáo dục sẽ khơng mất tiền, quan thuế được phân bổ
đúng đắn, hình phạt thể xác được bãi bỏ…Những đạo luật được ban hành là
luật lệ được dựa trên cơ sở luật lệ của Nhật Bản và Châu Tử. Cương lĩnh đưa
ra như một nguyên lí của một chế độ quân chủ lập hiến, chứ không phải là
nền quân chủ chuyên chế kèm theo một nghị viện bù nhìn [33,7]
Đến khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công(1911), Phan Bội
Châu càng ngưỡng mộ Tôn Trung Sơn, nên ông đã từ Thái Lan về Trung
Quốc hoạt động. Tai đây ông đã thành lập Việt Nam Quang Phục Hội(1912)
sau khi đã tuyên bố giải tán Duy Tân hội mà mục đích là đánh đuổi thực dân
Pháp, khôi phục lại nền độc lập cho nước nhà và thành lập một chính thể mới,
đó là chính thể dân chủ cộng hồ và ơng tun bố rằng" đầu óc quân chủ " đã
xếp vào một xó.
Như vậy chúng ta thấy được rằng từ một con người được đào tạo trong
môi trường Nho giáo, Phan Bội Châu đã thốt ra khỏi nó và đi tìm một tư

tưởng mới đó là tư tưởng dân chủ tư sản với ý thức là sau khi hồn thành mục
đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc sẽ thành lập một
nước theo mơ hình nhà nước tư bản chủ nghĩa cho dù nó là quân chủ hay dân
chủ. Mặc dù sau này khi tiếp xúc với tư tưởng vơ sản, Phan Bội Châu đã có

13


sự thay đổi về tư tưởng của mình theo lập trường vô sản, nhưng trong tư
tưởng của ông đã từng chứa đựng tư tưởng dân chủ tư sản.
1.2.1.2.- Phan Châu Trinh với mơ hình nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Phan Châu Trinh sinh năm 1872, ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước,
phủ Tam Kỳ, tỉnh Quãng Nam. Năm 1900, Phan Châu Trinh đỗ cử nhân, năm
sau đỗ phó bảng, ơng được vào học trường Hậu Bổ rồi ra làm quan với chức
Thừa biện bộ lễ. Tại triều đình ơng được chứng kiến cảnh mục nát hủ bại của
quan trường nên sinh ra chán nản, có khi vài tháng khơng đến cơ quan
[33,14]. Trong khoảng thời gian đó, ơng cũng đã được gặp gỡ và giao du với
nhiều người có tư tưởng cải cách, canh tân như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên
Phổ… Được đọc các sách "Tân thư", "Tân văn" của Lương Khải Siêu, Khang
Hiểu Vi, tư tưởng dân quyền của Ruxô, Môngtexkiơ,… phong trào duy tân ở
Nhật Bản, cách mạng ở Mỹ, ở Pháp. Từ đó đã hình thành trong ông tư tưởng
dân chủ tư sản nhưng theo xu hướng cải cách. Phan Châu Trinh có đóng góp
rất lớn trong việc truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản mà cốt lõi là vấn đề dân
quyền. Ông kịch liệt phản đối chế độ quân chủ phong kiến, ông cho rằng
phong kiến là sâu mọt của dân, đục khoét của nước, là thủ phạm làm cho
nước Việt Nam lụn bại và mất độc lập nên chủ trương của Phan Châu Trinh là
thủ tiêu chế độ phong kiến. Phan Châu Trinh cũng kịch liệt lên án chính sách
cai trị, bóc lột, dung túng của thực dân Pháp đồng thời ông cũng rất đề cao vai
trị của người dân, ơng cho rằng việc cứu nước tuỳ thuộc vào người dân
nhưng muốn có được điều đó thì phải khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh

[33,14]. Phan Châu Trinh chủ trương xây dựng một xã hội có pháp luật và
quyền thuộc về người dân. Phan Châu Trinh chủ trương áp dụng chế độ Tam
quyền phân lập ở Việt Nam. Mà cụ thể là xây dựng bộ máy nhà nước, một hệ
thống chính trị bao gồm 2 viện, tổng thống, chính phủ và các bộ trưởng. Tổng
thống, chính phủ cũng từ 2 viện mà ra. Trong nước có hiến pháp và mọi

14


người phải luôn tôn trọng hiến pháp, nếu vi phạm pháp luật thì từ tổng thống
cho đến dân thường đều bị trừng phạt như nhau, các quan án ở một viện riêng
gọi là viện tư pháp. Quyền tư pháp, quyền hành chính của chính phủ và quyền
lập pháp của nghị viện đều đứng riêng và những người trong hệ thống chính
trị ấy đều do quốc dân lựa chọn qua bầu cử.
Như vậy tư tưởng cốt lõi của Phan Châu Trinh là lật đổ chế độ phong
kiến thối nát, hụ bại, mất hết tư cách về chính trị, dựa dẫm vào Pháp và ông
chủ trương xây dựng một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo chế độ tam
quyền phân lập, trong đó quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là ngang nhau
và đều thông qua lá phiếu của cử tri mà bầu ra. Trong xã hội thì ơng chủ
trương xây dựng một xã hội mà mọi người ngang nhau về quyền lợi và nghĩa
vụ từ tổng thống cho đến thứ dân, mọi người đều được bình đẳng với nhau
trước pháp luật, được tự do ngôn luận, tự do hội họp. Nhưng mơ hình nhà
nước dân chủ tư sản mà Phan Châu Trinh chủ trương xây dựng không phải
được tiến hành bằng một cuộc cách mạng để cứu nước, cứu dân, dành độc lập
rồi tiến lên xây dựng chế độ xã hội, mà nó lại được tiến hành bằng con đường
cải cách, dựa vào thực dân Pháp làm cho dân giàu, nước mạnh rồi đứng lên
dành quyền độc lập thông qua sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, đó quả là
một điều không tưởng.
1.2.2. Giai cấp tư sản Việt Nam và quá trình cứu nước trên lập
trường tư sản.

Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau giai cấp cơng nhân Việt Nam, trong
q trình hình thành và phát triển của mình, giai cấp tư sản Việt Nam ln bị tư
sản nước ngoài cạnh tranh, chèn ép. Do hoàn cảnh lịch sử đó nên giai cấp tư sản
vừa non yếu về kinh tế lại vừa bạc nhược về chính trị [3,254]. Cũng trong quá
trình hình thành và phát triển đó, giai cấp tư sản Việt Nam bị phân hố thành hai

15


bộ phận là tầng lớp tư sản mại bản - có quyền lợi kinh tế, chính trị gắn liền với
thực dân xâm lược nên rất phản động, còn bộ phận thứ hai là tầng lớp tư sản dân
tộc tuy non yếu về mọi mặt song ít nhiều họ cũng có tinh thần dân tộc. Trong
quá trình đấu tranh cách mạng thì tầng lớp tư sản dân tộc cũng phân hố thành 2
xu hướng là xu hướng cách mạng quốc gia và xu hướng cải lương tư sản.
Xu hướng cải lương tư sản đã thành lập được một số tổ chức như
đảng Lập Hiến, đảng Thanh Niên, đảng Thanh Niên Cao Vọng, đảng An Nam
Độc Lập,… họ cũng đã tiến hành được một số hoạt động trong nước như:
Phong trào tẩy chay Hoa kiều, chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hố (1919).
Phong trào chống độc quyền mua bán thóc gạo ở Nam Kỳ, chống độc
quyền cảng Sài Gòn (1923).
Đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh và đòi thả
Nguyễn An Ninh (1925 - 1926).
Song, những cuộc đấu tranh theo xu hướng cải lương chủ yếu đấu
tranh địi quyền lợi về kinh tế mà ít đếm xỉa đến quyền lợi về chính trị nên khi
bọn thực dân đế quốc nhân nhượng cho một số ít quyền lợi thì họ sẵn sàng
thoả hiệp và để cho phong trào quần chúng vượt qua. Đồng thời các tổ chức
Đảng mà họ tổ chức ra lại chưa có một đường lối đấu tranh rõ ràng, mục tiêu
cụ thể,phương pháp đúng đắn…
Đại diện tiêu biểu cho xu hướng cách mạng quốc gia là tổ chức
Việt Nam quốc dân đảng, được thành lập vào tháng 1 năm 1927.

Mục tiêu của Việt Nam quốc dân đảng là trước mắt làm cách mạng quốc
gia, sau làm cách mạng thế giới. Cụ thể là: Trước làm cách mạng, để đánh đổ
đế quốc, đánh đỗ ngôi vua, thiết lập một chế độ cộng hoà dân chủ ở Việt Nam
theo cách mạng tư sản Pháp 1789 và theo tư tưởng Tam dân của Tơn Trung
Sơn; sau đó giúp các dân tộc khác làm cách mạng giải phóng dân tộc.

16


Qua mục tiêu đấu tranh của Việt Nam Quốc Dân Đảng cho ta thấy rõ
ràng rằng mục tiêu đấu tranh mà họ đặt ra là nhiệm vụ dân tộc và dân chủ tức
là chống đế quốc và phong kiến. Sau đó đưa đất nước đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa, đây là một con đường nếu được tiến hành có phương pháp,
được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quần chúng nhân dân thì sẽ đạt được những
mục tiêu ban đầu đặt ra. Song trong tổ chức và hoạt động của Việt Nam Quốc
Dân Đảng lại lỏng lẽo, kết nạp đảng viên khơng có sự sàng lọc nên đã để cho
kẻ thù cài vào và phá tổ chức đồng thời tiến hành khủng bố, bắt bớ. Cho đến
khi trong tình thế vơ cùng khó khăn cấp bách thì Việt Nam Quốc Dân Đảng
lại phát động khởi nghĩa với mục tiêu là "Khơng thành cơng thì cũng thành
nhân" nên đã hồn toàn thất bại. Cuộc khởi nghĩa này đã đi vào lịch sử với tên
gọi khởi nghĩa Yên Bái, kể từ đây Việt Nam Quốc Dân Đảng hoàn toàn chấm
dứt con đường cứu nước của mình theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đây
cũng là mốc đánh dấu sự chấm dứt hoàn toàn con đường cứu nước theo
khuynh hướng tư sản ở Việt Nam và nhường chỗ cho khuynh hướng vô sản.
Nói như giáo sư Trần Văn Giàu thì chính các phong trào cách mạng này đã
''tạo nên một vườn ươm màu mỡ cho khuynh hướng cách mạng vô sản nảy
mầm và bén rễ''
1.3. Con đường cứu nước theo khuynh hướng vơ sản và sự hình
thành mơ hình nhà nước xã hội chủ nghĩa (1930 - 1945)
1.3.1. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản.

Trước sự bất lực của con đường cách mạng theo khuynh hướng tư sản,
dân tộc ta, nhân dân ta đã hoàn toàn tự nguyện lựa chọn con đường cách
mạng vơ sản cho chính sự phát triển của lịch sử dân tộc. Sở dĩ nói dân tộc ta,
nhân dân ta là người lựa chọn con đường cách mạng vơ sản là vì con đường
được lựa chọn là cho lịch sử dân tộc và phải được chính chủ thể của nó lựa

17


chọn. Vậy quá trình lựa chọn được bắt đầu từ khi nào? Được khẳng định từ
lúc nào và trong bối cảnh như thế nào? Chúng ta biết rằng cuộc chiến tranh
thế giới thứ I kết thúc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc phát triển đến độ sâu
sắc, các nước tư bản đế quốc dù thắng hay thua, trong chiến tranh đều bị suy
yếu. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra và dành
thắng lợi. Do đó, trong cuộc chiến tranh này cuộc cách mạng vô sản đầu tiên
thắng lợi ở nước Nga. Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới được thành
lập, mở ra một kỷ nguyên mới, một thời đại mới trong lịch sử. Đồng thời năm
1919, Lênin còn sáng lập nên một tổ chức mang tính chất quốc tế của giai cấp
vơ sản, đó là Quốc tế cộng sản, nó đã đi vào lịch sử với tên gọi Quốc tế thứ
ba. Tổ chức này chủ trương ủng hộ cách mạng thuộc địa, gắn cách mạng
thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và trực tiếp chỉ đạo các cuộc
cách mạng ở thuộc địa. Đặc biệt trong giai đoạn lịch sử này các Đảng cộng
sản ở các nước phương Đông thuộc địa và các nước châu Âu như Đảng cộng
sản Pháp, Đảng cộng sản Trung Quốc - là hai Đảng có ảnh hưởng trực tiếp tới
tình hình Việt Nam. Mặt khác, sau chiến tranh thế giới, để bù lại những thiệt
hại mà cuộc chiến này gây ra, tư bản Pháp khơng ngừng tăng cường chính
sách cai trị về chính trị, bóc lột về kinh tế ở Đơng Dương nói chung và Việt
Nam nói riêng bằng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, theo đó luồng tư
tưởng vơ sản đã tràn vào nước ta.
Về bối cảnh trong nước lúc này, giai cấp cơng nhân Việt Nam cũng đã

chuyển mình, đấu tranh từ tự phát sang tự giác. Từ đó chúng ta có thể xác
định là con đường cách mạng vơ sản ở nước ta đã xuất hiện q trình chọn lựa
từ những năm 20 của thế kỷ XX, nó gắn liền với quá trình truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam. Đặc biệt là sau khi Nguyễn
Ái Quốc trở về Quảng Châu - Trung Quốc, thành lập nên tổ chức Việt Nam
Cách Mạng Thanh Niên thì các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam lại biết nhiều

18


hơn về tư tưởng vô sản, đặc biệt là giai cấp cơng nhân, nhờ phong trào vơ sản
hố của hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên tiến hành. Quá trình lựa chọn
con đường cách mạng vô sản càng được khẳng định khi cùng một lúc ra đời 3
tổ chức cộng sản là An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng
và Đơng Dương Cộng Sản Liên Đồn vào năm 1929 và lịch sử đã chính thức
lựa chọn con đường cách mạng vô sản vào đầu năm 1930 bằng sự kiện khởi
nghĩa Yên Bái nổ ra và thất bại, cùng với nó là Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời. Một vấn đề đặt ra ở đây nữa là tại sao không từ bỏ con đường cách mạng
tư sản và lựa chọn con đường cách mạng vô sản ngay từ đầu, vì rằng con
đường cách mạng theo khuynh hướng tư sản đã đi được 20 năm nhưng vẫn
chưa có kết quả, cịn khuynh hướng vơ sản thì mới xuất hiện - rất tốt nhưng
cần phải kiểm nghiệm qua thực tiễn, lịch sử cần phải có thời gian bởi "Thời
gian là thước đo của chân lý".
Như vậy là qua quãng thời gian gần một thập kỷ kiểm nghiệm qua thực
tiễn, cuối cùng đến năm 1930 con đường cách mạng vô sản đã chính thức
được lịch sử dân tộc lựa chọn và từ đây con đường cách mạng Việt Nam hoàn
toàn đi theo con đường cách mạng vơ sản, điều đó có nghĩa là sau khi hoàn
thành nhiệm vụ dân tộc, dân chủ thì sẽ tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và mơ hình nhà nước sẽ được xây dựng là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Xô Viết Nghệ Tĩnh - Mơ hình đầu tiên về Nhà nước kiểu

mới ở Việt Nam.
Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời vào đầu năm 1930 đã đánh dấu sự
lựa chọn dứt khốt con đường cách mạng vơ san của lịch sử dân tộc ta. Ngay
trong Hội nghị thành lập Đảng, Hội nghị đã thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, điều lệ Đảng. Cương lĩnh đầu tiên này của Đảng đã xác định: Nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền, đánh

19


đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập,
tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản [25,171]. Nhiệm vụ cụ thể của
cuộc cách mạng đó là về xã hội thì dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền,
phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố. Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và
bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hồn tồn độc lập, dựng ra chính phủ
Công - Nông - Binh, tổ chức ra quân đội Cơng - Nơng. Về kinh tế: Thì thủ tiêu hết
các thứ quốc trái, thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho chính phủ công - nông - binh, thâu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ
nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo,
mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật làm 8 giờ [33,46]. Tiếp đến
trong Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì
cũng đã xác định: Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là tiến hành làm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thiết lập nền chun chính cơng - nơng, giai đoạn sau
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền chun chính vơ sản.
Đảng vừa mới ra đời đã lãnh đạo ngay một phong trào cách mạng 1930
- 1931. Đảng không phát động phong trào mà phong trào tự nó bùng nổ dưới
sự lãnh đạo của Đảng, phong trào ra đời cùng với Đảng, Đảng lãnh đạo đưa
phong trào chuyển từ tự phát lên tự giác và phát triển đến đỉnh cao. Có thể
khẳng định khơng có Đảng vẫn có phong trào cách mạng 1930 - 1931, nhưng
khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng thể có đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh.

Phong trào cách mạng 1930 - 1931 phát triển một cách mạnh mẽ hầu khắp các
tỉnh thành trong cả nước, trong đó tiêu biểu nhất là phong trào cách mạng ở
Nghệ - Tĩnh. Phong trào bắt đầu bùng nổ từ ngày 1/5/1930 nhân ngày Quốc tế
lao động với cuộc tổng bãi công của công nhân Bến Thuỷ, sau đó là những
cuộc biểu tình khổng lồ của quần chúng từ nông thôn kéo đến huyện lỵ, đây là
những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ như 3.000 nông dân huyện
Nam Đàn, 20.000 nông dân huyện Thanh Chương, 3.000 nông dân huyện Can

20


Lộc,…[32,206]. Những cuộc đấu tranh ngày một rầm rộ đó đã hạ uy thế chính
trị của chính quyền đế quốc và phong kiến, làm cho bọn tổng lý cường hào ở
Nghệ - Tĩnh run sợ. Liền sau những cuộc thị uy ấy, những cuộc đấu tranh
chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ, sôi nổi, dồn dập liên tiếp của quần chúng
ở các thôn, xã, tổng từ ngày 2/9/1930 đến tháng 6/1931 đã làm tan rã và sụp
đổ từng mảng bộ máy chính quyền của đế quốc và phong kiến ở cơ sở. Q
trình sụp đổ của chính quyền địch cũng đồng thời là q trình hình thành các
Xơ Viết ở hàng trăm làng, xã. Ở Nghệ An, Nông hội nắm được chính quyền ở
các làng xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn,
Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu. Tại Hà Tĩnh chính quyền Xô Viết
được thành lập ở 172 xã [25,206] phần lớn ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà
và Đức Thọ. Trong suốt khoảng thời gian tồn tại, các chính quyền Xơ Viết đã
nắm vững chun chính cơng-nơng: Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng;
bãi bỏ các thể chế và mọi thứ thuế do đế quốc đặt ra; chia lại ruộng đất cho
nơng dân; bắt địa chủ giảm tơ chính, bỏ tô phụ; tổ chức cho nông dân giúp đở
lẫn nhau trong sản xuất; lập các lớp cho nhân dân học chữ quốc ngữ; vận
động nhân dân bài trừ các hủ tục mê tín …
Sự thiết lập các "Xã bộ nơng" để đứng ra làm nhiệm vụ của chính
quyền cách mạng, trước hết nó thể hiện chức năng chun chính với kẻ thù.

Có thể nói những biện pháp trên đây của chính quyền Xơ Viết đã thực sự tạo
ra một xã hội mới ở nông thôn, nhân dân được sống trong tình dân tộc, bình
đẳng và bác ái. Xã hội mà người dân lao động được làm chủ cuộc sống của
mình. Xô Viết Nghệ - Tĩnh là sản phẩm lịch sử trong thời kỳ Đảng vừa mới ra
đời, chưa lường hết những khó khăn phức tạp của cuộc đấu tranh với bộ máy
thực dân phong kiến, trong lúc tình thế cách mạng chưa thuận lợi, phong trào
có phần nóng vội và nhận thức của quần chúng có phần đơn giản, nên cuối
cùng đã thất bại. Tuy vậy chính quyền Xơ Viết đã để lại nhiều ý nghĩa và bài

21


học kinh nghiệm quý báu về vấn đề xây dựng chính quyền và giữ vững nền
chun chính cơng - nơng. Trước hết nó chứng minh rằng mơ hình nhà nước
vơ sản (chính quyền cơng - nơng) là mơ hình phù hợp, đáp ứng những nguyện
vọng cấp thiết của nhân dân lao động, nói cách khác nó chứng minh bằng
thực tiễn tính đúng đắn của định hướng về nhà nước mà Đảng ta đã đề ra
trong các văn kiện đầu tiên trong ngày đầu thành lập Đảng. Đồng thời chính
quyền Xơ Viết là sự "phác thảo" đầu tiên về một hình thái nhà nước mới ở
Việt Nam, về mơ hình chính quyền ở nông thôn nếu được chuẩn bị và chỉ đạo
chặt chẽ chắc chắn sẽ trở thành hiện thực. Có thể nói chính qun Xơ Viết
Nghệ - Tĩnh nó gần giống như là mơ hình chính quyền Xơ Viết ở nước Nga
sau cách mạng Tháng Hai(1917).
1.3.3. Mặt trận Việt Minh - bước phát triển mới về xây dựng chính
quyền trong phong trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945).
Bước vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, mâu thuẫn giữa các nước
đế quốc với nhau và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với Liên Xô ngày càng
trở nên căng thẳng dẫn đến năm 1939, cuộc chiến tranh thế giơi thứ hai bùng
nổ. Nước Pháp đế quốc nhanh chóng nhảy vào cuộc chiến. Lợi dụng tình thế
chiến tranh, các nước đế quốc thực dân đã mạnh tay bóp nghẹt các phong trào

dân chủ trong nước và thực hiện chính sách hà khắc đối với thuộc địa. Đối với
nước ta: Những thành quả mà chúng ta đã giành được trong cao trào dân chủ
1936 - 1939 đều bị bọn đế quốc, phong kiến tìm mọi cách thủ tiêu. Trước tình
hình mới, Đảng ta chủ trương chỉ đạo chiến lược các hội nghị trung ương Đảng
lần thứ 6( 11-1939) , lần thứ 7 (11- 1940), lần thứ 8 (5 - 1945) đều đã xác định:
nhiệm vụ lâu dài và trước mắt của cách mạng Việt Nam vẫn là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, song vấn đề dân tộc được đặt lên trên hết và trước hết
tức là nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc, giành

22


chính quyền về tay nhân dân, cịn nhiệm vụ chống phong kiến chưa đặt ra trực
tiếp : Đúng như Hội nghị trung ương 8(5/1941) đã xác định " mâu thuẫn giữa
các dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật và bè lũ tay sai là
mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách" [25,509],
đồng thời đặt hẳn vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của mỗi nước bằng việc
thành lập ở Việt Nam mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, ở Lào mặt trận Ai
Lao độc lập đồng minh và ở Campuchia mặt trận Khơ Me độc lập đồng minh
và phương thức tiến hành là đấu tranh chính trị kết hợp với khởi nghĩa vũ trang.
Mà như chúng ta đã biết thì một cuộc khởi nghĩa nổ ra và giành thắng lợi thì
phải có ba yếu tố: Thứ nhất là phải có sự chuẩn bị đó là chuẩn bị về lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; thứ hai là phải có thời
cơ; và thứ ba là phải có quyết tâm cao để chớp thời cơ giành chính quyền.
Trong điều kiện thứ nhất thì việc thành lập mặt trận Việt Minh là một hình thức
nhằm đáp ứng cơng tác chuẩn bị cho khởi nghĩa giành thắng lợi sau này. Mặt
trận Việt Minh được thành lập chính thức vào ngày 19 - 5 - 1941 bao gồm các
tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc lấy tên là "Hội cứu quốc". Hội đã
đề ra hai mục tiêu cơ bản trong chương trình cứu nước đó là:
Làm cho nước Việt Nam hồn tồn độc lập

Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do
Đồng thời trong chương trình cứu nước, mặt trận Việt Minh đã đề ra
những chính sách căn bản về đối nội, đối ngoại:
Về chính trị: Thực hiện phổ thơng đầu phiếu , ban hành quyền tự do
dân chủ cho nhân dân, tổ chức quân đội cách mạng, tịch thu tài sản của bọn
đế quốc và Việt gian phản quốc, thực hiện nam, nữ bình đẳng và quyền dân
tộc tự quyết.

23


Về kinh tế : Bỏ thuế thân và các thứ thuế do đế quốc đặt ra; đặt thuế
mới nhẹ và cơng bằng; mở mang các ngành kinh tế
Về văn hố giáo dục: Huỷ bỏ nền giáo dục nô lệ, xây dựng nền giáo
dục quốc dân, lập các trường chuyên môn để đào tạo nhân tài; khuyến khích
và giúp đỡ trí thức phát triển tài năng.
Về xã hội: Thi hành luật lao động, lập nhà thương, nhà dưỡng lão, xây
dựng các nhà chiếu bóng, nhà diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện…để nâng cao trí
dục cho nhân dân.
Về ngoại giao: Huỷ bỏ những điều ước do bọn thống trị đã ký với bất
cứ nước nào; ký những hiệp ước giao hảo và bình đẳng với mọi nước về các
phương diện, chủ trương các dân tộc bình đẳng; kiên quyết chống những sự
xâm phạm đến quyền tự do độc lập của nước Việt Nam; liên hiệp với tất cả
các dân tộc bị áp bức trên thế giới
Với những chính sách tiến bộ và phù hợp như trên, Mặt trận Việt Minh
đã nhận được sự ủng hộ nhanh chóng và đơng đảo của các tầng lớp nhân dân.
Tổ chức của mặt trận phát triển mạnh mẽ và rộng khắp đến tận các thôn xã
trong cả nước. Từ chỗ là một tổ chức tập hợp quần chúng chuẩn bị cho khởi
nghĩa giành chính quyền, mặt trận đã phát triển và vươn lên thực hiện những
chức năng của một chính quyền cách mạng, đặc biệt hơn là ở những vùng căn

cứ địa và những vùng mới giải phóng. Vì vậy việc thành lập mặt trận Việt
Minh được đánh giá là một sự sáng tạo của Đảng ta trong q trình đấu tranh
giành chính quyền. Trong khi chưa giành được chính quyền, mặt trận Việt
Minh đã thực hiện hai chức năng cơ bản đó là: chức năng tập hợp quần chúng
để chống đế quốc và chức năng là một chính quyền cách mạng nhằm trấn áp
kẻ thù và xây dựng cuộc sống mới. Đó là hình thức tiền chính phủ vừa tránh

24


được xu hướng nóng vội, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể, vừa mang lại hiệu
quả cao trong lúc chờ đợi thời cơ đến.
1.3.4. Khởi nghĩa từng phần và các hình thức chính quyền cách mạng.
Cùng với việc thành lập mặt trận Việt Minh, Đảng ta còn xúc tiến xây
dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khi khởi nghĩa Bắc
Sơn(9-1940), đội du kích đầu tiên do Đảng lãnh đạo đã được thành lập sau phát
triển thành Cứu quốc quân. Tổ chức này cùng với Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân (thành lập trên cơ sở đôi tự vệ vũ trang Cao Bằng), đã hợp nhất lại
thành Việt Nam giải phóng quân (5- 1945). Tại căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn Võ Nhai và Cao Bằng, phong trào cách mạng phát triển rất mạnh. Đặc biệt ở
Cao Bằng đã xuất hiện một hình thức chính quyền khá sớm, đó là các "xã hồn
tồn", các "châu hồn tồn". Chính quyền đó trên thực tế đã giải quyết tất cả mọi
công việc trong việc tổ chức đời sống nhân dân. Đó là sự tập dượt để nhân dân
làm quen với cơng việc quản lí chính quyền. Việc xây dựng căn cứ địa cách
mạng và lực lượng vũ trang là những khâu chuẩn bị quan trọng trong việc thực
hiện chủ trương khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương để
tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đó cũng chính là đặc
điểm của quá trình hình thành nhà nước cách mạng ở nước ta.
Cuối năm 1944 đầu 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai
đoạn kết thúc. Tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến thuận
lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 09/03/1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đơng

Dương. Do dự đốn trước tình hình, nên ngay trong đêm 09- 03-1945, Ban
thường vụ trung ương Đảng đã họp và ra bản chỉ thị quan trọng "Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta". Bản chỉ thị nhận định: Cách mạng Việt
Nam đã bước vào thời kỳ "tiền khởi nghĩa'' và phát đông một phong trào
kháng Nhật mạnh mẽ trong toàn quốc. Đặc biệt là bản chỉ thị đã đề cập tới

25


×