Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

1 số câu hỏi Triết học Mác LêNin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.21 KB, 24 trang )

Câu 1: Nhận thức cảm tính là gì? Nhận thức lý tính là gì? Tại sao nhận thức phải đi từ
cảm tính đến lý tính?
*Nhận thức cảm tính: Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn. Ở
giai đoạn này, nhận thức của con người phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các giác quan,
được biểu hiện dưới 3 hình thức:
_ Cảm giác: là hình thức đầu tiên, giản đơn nhất của quá trình nhận thức ở giai đoạn cảm tính,
được nảy sinh do sự tác động trực tiếp của các khách thể lên các giác quan của con người, đưa lại
cho con người những thông tin trực tiếp, giản đơn nhất về thuộc tính riêng lẻ của sự vật. Cảm
giác chính là hình ảnh chủ quan của thể giới quan.
Ví dụ: Khi chạm tay vào vật nóng, bàn tay có cảm giác nóng và có phản ứng co lại.
_ Tri giác: là một hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động (nhận thức cảm tính).
Tri giác là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều cảm giác của con
người. Do đó, có thể nói “Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác”. Chính vì vậy, tri giác cho ta
hình ảnh về sự trọn vẹn hơn cảm giác.
Ví dụ: Khi cầm quả bóng đá, thơng qua các giác quan biết được quả bóng có hình cầu, làm bằng
da, có 2 màu đen và trắng.
_ Biểu tượng: là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính. Khác với cảm giác
và tri giác, biểu tượng là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc nhờ trí nhớ, khi sự vật không trực
tiếp tác động vào giác quan của con người. Biểu tượng là khâu trung gian để chuyển từ nhận thức
cảm tính lên nhận thức lý tính.
Ví dụ: Khi nhắc đến xe đạp, ngay lập tức người ta hình dung ra phương tiện có 2 bánh bằng cao
su, có bàn đạp và tay lái, ghi đơng...
*Nhận thức lý tính: (hay cịn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu
tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đốn, suy lý.
_ Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái qt, gián tiếp một, hoặc
một số thuộc tính chung có bản chất nào đó của một nhóm sự vật, hiện tượng được biểu thị bằng
1 từ hay cụm từ
Ví dụ: Thời điểm chưa có Nhà Nước, mọi vấn đề xã hội đều được điều chỉnh bằng quy phạm đạo
đức hay bằng cảm tính. Tuy nhiên khi có Nhà Nước ra đời, đã ban hành các điều lệ, mệnh lệnh
buộc dân phải tuân thủ. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển thành Pháp Luật: “Pháp luật là hệ
thống quy tăc xử sự chung do NN ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội


theo mong muốn, ý chí của con người”
_ Phán đốn: Là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng của thế giới trong ý thức con người, phán đốn là một hình thức của tư duy trừu tượng,
bằng cách liên kết các khái niệm lại để khẳng định hay phủ định một thuộc tính hay một mối liên
hệ nào đó của sự vật


Ví dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đốn vì có sự liên kết khái niệm
“dân tộc Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”
_ Suy lý (suy luận và chứng minh): là những hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó các phán
đoán đã liên kết với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận) được suy ra từ những
phán đốn đã biết làm tiền đề.
Ví dụ: Nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với “đồng là kim loại” thì ra được 1 phán đốn
khác “ kim loại đều dẫn được điện”.


Nhận thức phải đi từ cảm tính đến lý tính:

_ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là 2 giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại thống nhất
với nhau, liên hệ, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức của con người:
+ Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính, khơng có nhận thức cảm tính thì khơng có
nhận thức lý tính.
+ Ngược lại, nhờ có nhận thức lý tính mà con người mới đi sâu nhận thức được bản chất của sự
vật, hiện tượng.
_ Do sự thống nhất giữa các trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn:
+ Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là khâu kết thúc và đồng thời có vai trị kiểm tra tính chân thực các
kết quả nhận thức.
+ Q trình nhận thức thơng qua các vịng khâu nhận thức để ngày càng tiến sâu hơn vào bản
chất của các sự vật, hiện tượng. Kết thúc vòng khâu này cũng đồng thời là sự bắt đầu của một
vòng khâu mới của sự nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn.

+ Mỗi nấc thang mà con người đạt được trong quá trình nhận thức, đều là kết quả của cả nhận
thức cá nhân và cả nhận thức lý tính, được thực hiện trên cơ sở của hoạt động thực tiễn
 Nhận thức lý tính khơng thể thực hiện được nếu thiếu tài liệu, thơng tin do nhận thức cảm
tính đem lại, nhận thức lý tính làm cho nhận thức cảm tính trở nên sâu sắc và chính xác
hơn.

Câu 2: Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Vận dụng lý thuyết về mối quan
hệ biện chứng giữa lực lượng lao động và quan hệ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của
q trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam trong
thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội?
*Lực lượng sản xuất: là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
+ Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo
nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là
chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất của xã hội


+ Tư liệu sản xuất: là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động
và đối tượng lao động
*Quan hệ sản xuất: Là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá
trình sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý- trao đổi hoạt động, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Trong 3 quan hệ trên, tư liệu sản xuất đóng vai trị quan trọng nhất, quyết định 2 mối quan hệ còn
lại, đồng thời tác động trở lại bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển.
*Phân tích:
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngồi
ra, cịn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước để lại và phương thức sản xuất mầm
mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi
phương thức sản xuất thống trị. Mặt khác, trong thời kỳ quá độ chưa có thành phần kinh tế nào

giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảng, những
bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ thống nhất biện chứng. Tất yếu khách
quan là tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là vì:
+) Thứ nhất: Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, tiếp
quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu
gồm có nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, … của các nhà tư bản trong nước và ngồi nước- đó là kinh
tế Tư bản chủ nghĩa; tư hữu nhỏ gồm có nơng dân, bn bán nhỏ - đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại tư hữu trên là khác nhau. Đối với tư hữu lốn - kinh
tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hóa. Đối với tư hữu nhỏ thì có con
đường hợp tác hóa theo con đường nguyên tắc mà V . I . Lênin đã vạch ra là tự nguyện, quản lý
dân chủ, cùng có lợi, … đồng thời tuân theo quy luật khách quan.
+) Thứ hai: Sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan,
khách quan nên tất yếu có sự phát triển khơng đồng đều giữa các Lực lượng sản xuất và các
ngành, vùng, doanh nghiệp …. Chính sự phát triển khơng đồng đều đó quy định. Quan hệ sản
xuất, trước hết là hình thức, quy mô và Quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại.
Quan hệ sản xuất khơng giống nhau đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
+) Thứ ba: Để phát triển kinh tế, củng cố Kinh tế - Chính trị - Xã hội, Nhà nước xây dựng
những cơ sở kinh tế mới, hình thành thành phần kinh tế Nhà nước. Mặt khác, trong điều kiện
quốc tế hóa đời sống kinh tế thơng qua hợp tác và đầu tư nước ngồi, Nhà nước cùng các nhà Tư
bản, cơng ty trong và ngồi nước hình thành kinh tế Tư bản Nhà nước.

*** Vai trị của cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam: Tính tích cực của nền kinh tế nhiều thành phần biểu hiện qua các khía cạnh:
+) Có khả năng khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sứ mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế trong nước, tận dụng vốn và cơng nghệ của nước ngồi. Do đó phát huy được
cả nội lực và ngoại lực.


+) Giải quyết phần lớn công an việc làm cho nhân dân, phát triển làng nghề truyền
thống, tận dụng vốn và nhân cơng nhàn rỗi có hiệu quả, phát huy thế mạnh vốn có của con người

Việt Nam, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất.
+) Tạo ra sự đa dạng về quy mơ và trình độ kỹ thuật phù hợp với hiển trạng về cơ sở
vật chất và trình độ kỹ thuật của nước ta. Tạo sự liên kết, liên doanh với nước ngồi với chiều
hướng có lợi hơn.
+) Khi các thành phần kinh tế đều phát huy thế mạnh, hoạt động tích cực làm cho
năng suất lao động phát triển, từ đó nhanh chóng tăng cừơng kinh tế và nâng cao mức sống nhân
dân. Là bước khởi đầu, đặt nền móng cho thời kỳ quá độ với cơ sở vật chất kỹ thuật chắc chắn để
đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn Chủ nghĩa tư bản.
=> Kết quả thực tế công cuộc đổi mới từ 15 năm đã cho thấy mặt tích cực của cơ chế kinh tế
nhiều thành phần là rất to lớn. Việt Nam từ một nước nơng nghiệp lạc hậu đã trở thành một nước
có nền kinh tế tăng trưởng vững chắc với tốc độ tăng trưởng cao.

*** Sự hoàn thiện Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất theo đường lối của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa là kết quả của tiến trình lịch sử,
tiến trình đó được quy định bởi quy luật Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Thật vậy, Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất thể hiện hai đặc
trưng tác động biện chứng trong quá trình xã hội hóa Quan hệ sở hữu kinh
tế. Khi Lực lượng sản xuất cịn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều
hình thức sở hữu nhỏ và phân tán. Lực lượng sản xuất từng bước phát triển sẽ tỉ lệ thuận với tiến
trình tập trung hóa và xã hội hóa Quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu tồn dân, sự hình
thành các tập đồn kinh tế, cơng ty cổ phần, cơng ty đa quốc gia, các đại nông trại, . . . được coi
là biểu hiện của q trình xã hội hóa Quan hệ sở hữu ở một mức độ nhất định do kết quả tác
động biện chứng của Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất.Với cách nhìn đó thì chế độ công
hữu Xã hội chủ nghĩa được xác lập như một tất yếu khách quan bởi sự phù hợp giữa Quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ cao của Lực lượng sản xuất.
Nhìn trên góc độ khác, trong mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng Xã hội chủ
nghĩa, có thể thấy rằng kinh tế thị trường biểu thị nổi bật như phương thức vận động của Lực
lượng sản xuất, còn định hướng Xã hội chủ nghĩa thể hiện như Quan hệ sản xuất cần đạt tới
phương thức vận động của đó Chủ nghĩa Xã hội cũng có thể hiểu đó là một nền tảng kinh tế xã

hội được dựa trên chế độ đổi mới thực hiện được ý tưởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây
dựng một xã hội cơng bằng, văn minh với ý nghĩa đích thực của nó. Có lẽ do quy luật này mà
Đảng ta khẳng định tính nguyên tắc của phát triển Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa.


Câu 3: Vấn đề cơ bản của Triết học là gì? Tại sao nó lại được coi là vấn đề cơ bản của Triết
học? Các nhà duy vật và duy tâm trong lịch sử, về cơ bản, đã giải quyết vấn đề đó như thế
nào? Cho 1 vài ví dụ
a, Các vấn đề cơ bản của Triết học và cách giải quyết:
Theo Ăngghen vấn đề cơ bản của Triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại
và tư duy)
_ Mặt thứ nhất: Bản thể luận
Trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước và cái nào có sau? Và cái nào quyết
định cái nào?
*Cách giải quyết: + Duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
+ Duy vật: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
Hai cái giải quyết này tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm chung của 2 cách giải
quyết này đều thừa nhận 1 trong 2 nguyên thể (ý thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thể giới
_ Mặt thứ 2: Nhận thức luận:
Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay khơng?
Đại đa số các nhà Triết học theo chủ nghĩa duy tâm cũng như duy vật đều cho rằng, con người có
khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, các nhà Triết học duy vật cho rằng, con người có
khả năng nhận thức thế giới. Xong do vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý
thức nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Một số nhà triết học
duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới, nhưng sự tự nhận thức đó là
của tinh thần, tư duy..
b, Đó là vấn đề cơ bản của Triết học vì:
Lịch sử đấu tranh triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Vấn
đề cơ bản của Triết học chính là chuẩn mực để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy

tâm.
Có thể phân chia các hiện tượng của thế giới ra thành 2 loại: các hiện tượng vật chất và các hiện
tượng tinh thần. Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học dùng để chỉ hai loại hiện tượng đó.
Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên
ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, khơng
có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.
Vậy vật chất (tồn tại) và ý thức (tinh thần, tư duy) có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quy định cái nào? Các học thuyết triết học rất đa dạng, song đều
cũng phải trả lời câu hỏi đó, xem đó là điểm xuất phát lý luận. Câu trả lới này có ảnh hưởng trực
tiếp tới những vấn đề khác của triết học. Do đó vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất hay giữa
tư tuy với tồn tại (tinh thần với giới tự nhiên được coi là vấn đề cơ bản của triết học
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và
phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:


- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết
học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri
hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội lồi người.
Câu 4: Phân tích luận điểm của C.Mác: “sự phát triển của các hình thái xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên” ? Nhân tố chủ quan đóng vai trị gì đối với tiến trình phát triển của
lịch sử xã hội? Từ thực tế VN hiện nay, hãy lấy ví dụ cho vai trị đó?
a, Theo C.Mác: sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên:
Luận điệm đó được thể hiện ở các nội dung sau đây:
_ Một là, sự vận động và phát triển của xã hội khơng tn theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh
tế-xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học... trong đó, cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.

_ Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhận loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,.. của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay
gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
_ Ba là, q trình phát triển của hình thái kinh tế-xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sửu lồi người,
có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữa vai trị quyết định chính là
sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử
nhân loại, xét trong tính chất tồn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kkinh
tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
b, Nhân tố chủ quan đóng vai trị gì đối với tiến trình phát triển của lịch sử?
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trị của các nhân tố khác
đói với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ
thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng
chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều
kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong
lịch sử,.. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng
người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong
phú đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng trong tiến
trình phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua”
một hat một vài hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều
phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.


Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa
tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau,
trong đó có cả các nhân tố hoạt động chủ quan của con người, nó đóng vai trị là nhân tố thuộc
cơ chế vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Từ đó, lịch sử phát triển của xã hội được biểu
hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dangj và đa dạng trong tính thống nhất của nó.

c, Nhân tố chủ quan tại VN:
Vai trị của Đản Cộng Sản, của Nhà nước và năng lực làm chủ của nhân dân với tư cách là nhân
tố chủ quan quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước ta là không thể phủ nhận
được. Đảng và Nhà nước vừa có vai trị lãnh đạo, tổ chức, quản lý mang tính sáng tạo khơng thể
thay thế, quần chúng nhân dân là chủ thể thực hiện chủ trương, đường lỗi của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động. Khi “ý Đảng” và “lòng dân” cùng thống nhất
trí và đồng thuận sẽ tạo nên sức mạnh khơng gì lay chuyển nổi. Việc phát huy vai trị của những
nhân tố chủ quan đó là u cầu không thể thiếu, bảo đảm cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” từng bước trở thành hiện thực.
Nói đến nhân tố quan trọng của nước ta hiện nay chủ yếu là nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, năng lực làm chủ của nhân dân. Vì vậy, phát huy vai trò của
nhân tố chủ quan nghĩa là phải nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước và nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân trong việc tạo những tiền
đề vững chắc cho nền kinh tế thị trường, khai thác những thuận lợi, hạn chế những rủi ro từ sự
tác động của điều kiện khách quan; kịp thời phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh.
Điều đó được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
_ Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng;
Vai trò của Đảng với tư cách là nhân tố chủ quan, thể hiện ở chỗ Đảng xác định đường lối, chiến
lược, sách lược đúng đắn, từ đó tạo lập những điều kiện, tiền đề cần thiết bảo đảm cho những
mục tiêu phát triển của đất nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường
như hiện nay, việc giữ vững và không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng (với tư cách là
nhân tố quan trọng) là một trong những yêu cầu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng.
=> Phải không ngừng đổi mới tư duy lý luận, trước hết trước hết là tư duy kinh tế của Đảng,
không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của
các tổ chức đảng, tăng cường sự lãnh đạo và kiểm tra về phát triển kinh tế. Mặt khác, Đảng phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kiên trì đường lối đổi mới trên nguyên
tắc và sáng tạo; Đảng phải được xây dựng vững mạnh tồn diện về chính trị, tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao sức chiến đấu; phải thường xuyên chăm lo
xây dựng, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh, phẩm chất và
trí tuệ; phải gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân; tăng

cường và nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra, giám sát, không ngừng đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, nhất là phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được thực hiện một cách cụ thể và sinh
động trong hiện thực.
_ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước:


Nhà nước Việt Nam là chủ thể quản lý, đồng thời là chủ thể kinh tế lớn nhất của nền kinh tế nước
ta. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Nhà nước phải khẳng định vai trò trong việc bảo đảm cho thị
trường hoạt động hiệu quả. Nhà nước quản lý nền KT thông qua hệ thống pháp luật, các chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế, chính sách, cùng các công cụ kinh tế, trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc của thị trường để giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc và phù hợp với yêu cầu xây
dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. Sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước khơng chỉ khắc phục
những khuyết tật cố hữu của thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững mà
còn thực hiện công bằng xã hội, làm cho mọi người dân đều được hưởng những thành quả chung
từ sự tăng trưởng kinh tế, bảo đảm cho các mục tiêu của CNXH từng bước được thực hiện hóa.
Muốn vậy, Nhà nước phải khơng ngừng tự hồn thiện cho phù hợp với những yêu cầu mới, “tập
trung tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và mơi trường, điều kiện ngày càng minh bạch, an
toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh
bình đẳng trong kinh tế thị trường.
_ Nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân:
Rõ ràng, phát triển một nền kinh tế với mục tiêu vì sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân thì đó
cũng phải là sự nghiệ do chính nhân dân xây dựng. Do đó, phải từng bước hồn thiện cơ chế để
nhân dân đóng góp ý kiến, phân biệt xã hội và giám sát cơng việc của Đảng và Nhà nước, nhất là
các chính sách kinh tế, xã hội; đảm bảo để “nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình
đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham
gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”. Tuy nhiên, để phát huy quyền và
năng lực làm chủ của nhân dân, ngoài việc nâng cao chất lượng cuộc sống, kích thích lợi ích của
người lao động, phải nâng cao trình độ dân trí. Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục theo

hướng “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”, đổi mới nội
dung và phương pháp giáo dục theo hướng cập nhật, gắn học với hành, xây dựng xã hội học tập,
ưu tiên đầu tư cho giáo dục-đào tạo thực sự trở thành “quốc gia hàng đầu”. Giáo dục và đào tạo
phải được xem là khâu then chốt, là yếu tố quyết định trong việc xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao.
Câu 5: Nêu ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa 2 cặp phạm trù
nguyên nhân, kết quả và vận dụng vào vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay.
a, Ý nghĩa của phương pháp luận:
_ Vì mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên trong nhận thức và
thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân – quả. Trong thế giới hiện thực không thể tồn tại
những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi khơng có ngun nhân và ngược lại, khơng có
ngun nhân nào mà không dẫn tới những kết quả nhất định. Muốn nhận thức được sự vật, hiện
tượng ấy nhất định phải tìm ra nguyên nhân xuất hiện của chúng, muốn loại bỏ 1 sự vật, hiện
tượng nào đó khơng cần thiết, thì phải loại bỏ ngun nhân sinh ra nó.
_ Xét về mặt thời gian, nguyên nhân có kết quả trước nên khi tìm nguyên nhân của một sự vật,
hiện tượng cần tìm ở sự vật, hiện tượng đó mối liên hệ đã xảy ra trước khi sự vật, hiện tượng
xuất hiện. Trong thời gian hoặc mối quan hệ nào đó, vì ngun nhân và kết quả có thể đổi chỗ


cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau nên để nhận thức được tác dụng của một sự vật, hiện tượng và để
xác định được phương hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn, cần nghiên cứu sự vật, hiện
tượng đó trong mối quan hệ mà nó giữ vai trị là kết quả, cũng như mối quan hệ mà nó giữ vai trò
là nguyên nhân, sản sinh ra những kết quả nhất định.
_ Một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định, nên khi nghiên cứu
sự vật, hiện tượng đó khơng thể vội kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra nó; khi muốn gây ra
một sự vật, hiện tượng có ích trong thực tiễn cần phải lựa chọn đúng phương pháp thích hợp nhất
với điều kiện, hồn cảnh cụ thể chứ khơng nên rập khuôn theo phương thức cũ. Trong số các
nguyên nhân sinh ra 1 sự vật, hiện tượng có nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu,
nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Nên cần phân biệt rõ ngun nhân chính xác

trong các loại ngun nhân đó để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường
hợp cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
b, Vận dụng vào phân tích thực trạng mơi trường:
Trong lịch sử phát triển của mỗi quốc gia, nhất là sau cuộc cách mạng cơng nghiệp thì vấn đề
phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia luôn được đặt lên là vấn đề hàng đầu. Ở hầu hết các quốc gia
đều có khuynh hướng “phát triển kinh tế bằng bất cứ giá nào”. Chính cuộc chạy đua nhằm mục
tiêu phát triển kinh tế nhanh chóng đó đã khiến con người quên đi mơi trường sống của chính
mình, việc bảo vệ mơi trường bị xem nhẹ. Vì vậy gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Nguyên nhân của việc dẫn đến tình trạng mơi trường ở thời điểm hiện tại có thể được chia thành
1 số nguyên nhân chính sau:
*Nguyên nhân chủ quan:
_ Ý thức con người có lẽ là cái được nói đến ở đây. Cái gì cũng có 2 mặt của nó, sự tác động vào
thiên nhiên của con người cũng vậy. Nếu con người tác động vào thiên nhiên theo đúng quy luật
vốn có, tích cực thì nó sẽ trở nên phong phú, đa dạng. Ngược lại tác động tiêu cực thì con người
sẽ phải gánh chịu những hậu quả do chính họ đã gây ra.
_ Nhận thức của con người la nhân tố quyết định của họ đối với mơi trường. Vì lợi ích trước mắt,
mong muốn làm giàu cho cá nhân mà họ đã không nhận thức được việc làm của họ tác động xấu
đến môi trường. Trình độ dân trí cịn thấp, chưa hiểu biết tác dụng to lớn của rừng và môi trường
sống, chưa nắm được tác hại của việc hủy hoại môi trường sống của chính mình
_ Khai thác bừa bãi các tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên rừng - diện tích rừng ngày càng thu
hẹp hay cháy rừng. Nếu việc khai thác cạn kiệt của người dân là nhân tố quyết định thì chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là nhân tố tác động mạnh ý thức người dân. Thực tế,
chưa có nhiều chính sách pháp luật về mơi trường, việc tuyên truyền cũng như việc xử lý vi
phạm chưa được quan tâm, chú trọng; hay lực lượng kiểm lâm chưa đủ mạnh để răn đe, bắt giữ
các hành vi có hại – lâm tặc phá rừng.
_ Ý thức người dân kém trong việc xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải cơng nghiệp. Cố tình vi
phạm, đổ rác khơng đúng nơi quy định. Và kết quả của việc đấy là sức khỏe của con người bị
ảnh hưởng nghiêm trọng, bệnh tật ngày càng nhiều: tiêu chảy, hô hấp, đường ruột...Nguyên nhân



chủ yếu là sử dụng nguồn nước không đạt vệ sinh, mơi trường sống ơ nhiễm bởi khói bụi và chất
thải độc hại..Thực phẩm rau quả không được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
_ Dân số tăng lên cũng là trong những nguyên nhân khiến môi trường thay đổi. Dân số tăng
khiến việc sử dụng và khai thác các nguồn tài nguyên từ môi trường cũng tăng lên gây ảnh
hưởng đến mơi trường nước, khơng khí..
*Ngun nhân khách quan:
_ Nhu cầu người dân sử dụng phương tiện ngày 1 tăng do chất lượng cuộc sống được nâng lên.
Dẫn đến sự gia tăng của lượng khói bụi, khí thải độc hại... thải ra môi trường ngày càng nhiều
hơn, gây ô nhiễm môi trường.
_ Khả năng sử lý của các bộ phận xử lý rác thải chưa hoạt động hiệu quả: đội ngũ dọn dẹp vệ
sinh chưa đáp ứng đủ và xử lí kịp hết rác thải sinh hoạt và cơng nghiệp, việc thu gom cịn nhiều
vấn đề bất cập, chất lượng vệ sinh đơi khi cịn kém...gây mùi ơ nhiễm cho đất, nước, khơng khí..
*Giải pháp:
_ Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các vấn đề pháp luật và hệ thống tiêu chuẩn về môi
trường, đầu tư, xây dựng và quản lý các cơng trình xử lý rác, làm sạch môi trường..
_ Cần đưa nội dung giáo dục đến toàn dân nhất là tầng lớp thanh niên, nhằm tuyên truyền, vận
động ý thức bảo vệ môi trường, kêu gọi đoàn thể, các tổ chức doanh nghiệp.. tham gia các chiến
dịch bảo vệ mơi trường....
Câu 6: Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử. Vận
dụng ý nghĩa phương pháp luận này trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
a, Vai trò của quần chúng nhân dân với sự phát triển của lịch sử:
_ Yếu tố căn bản và quyết định của lực lượng sản xuất là quần chúng nhân dân lao động. Đó là
yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, làm cho phương thức sản xuất vận
động và phát triển, thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là lực lượng cơ bản của xã hội sản xuất ra toàn
bộ của cải vật chất, là tiền đề và cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của mọi xã hội,
trong mọi thời kỳ lịch sử.
_ Trong mọi cuộc cách mạng xã hội cũng như ở các giai đoạn biến động của xã hội, quần chúng
nhân dân luôn là lực lượng chủ yếu, cơ bản và quyết định mọi thắng lợi của các cuộc cách mạng
và những chuyển biến của đời sống xã hội. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, bắt đầu từ sự phát triển của các lực lượng sản xuất,

đến một giai đoạn phát triển nhất định nó mâu thuẫn với các quan hệ sản xuất, làm xuất hiện các
cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ hoạt động
sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Họ thực sự là chủ thể, lực lượng căn bản và chủ chốt,
là động lực cơ bản của mọi quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học và cơng nghệ,
và của mọi cuộc cách mạng xã hội.
_ Toàn bộ các giá trị văn hóa, tinh thần và đời sống tinh thần nói chung đều do quần chúng nhân
dân sáng tạo ra. Những sáng tạo trực tiếp của quần chúng nhân dân trong lĩnh vực này là điều


kiện, tiền đề, là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, tinh thần. Hoạt động phong phú, đa
dạng của quần chúng nhân dân trong thực tiễn là nguồn mạch cảm hứng vô tận, là chất liệu
không bao giờ cạn kiệt, là nguồn tài nguyên bất tận cho mọi sáng tạo tinh thần. Quần chúng nhân
dân cũng là người gạn lọc, lưu giữ, truyền bá và phổ biến các giá trị tinh thần làm cho nó được
chọn lọc, được bảo tồn vĩnh viễn.
b, Vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:
_ Từ kinh nghiệm trong cách mạng giải phóng dân tộc và thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa
những năm trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta rút ra bài học quý báu: sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Trong
quá trình đổi mới, Đảng ta cũng khẳng định: “Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Để cơng cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và
các thành phần kinh tế tham gia”. Đó chính là một trong những nguyên nhân thành công của sự
nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
_ Nhân dân là “mạch nguồn” dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
_ Đặc biệt, trong 10 năm gần đây, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban
hành nhiều văn bản chỉ đạo mang tính chiến lược về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về cơng tác dân
vận và phát huy vai trị của nhân dân trong giám sát, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện.
_ Tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới

_ Một là, các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt, triển khai tư tưởng
Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công
tác dân vận, về thực hiện dân chủ gắn với phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
_ Hai là, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện để Đảng luôn là lực
lượng tiên phong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và của cả dân tộc. Gắn đổi
mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng để xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng
trong thời kỳ mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
_ Ba là, Đảng, Nhà nước tiếp tục triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính sách “hợp lòng
dân”, nhằm chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là ở
những vùng đang cịn gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng trước đây, vùng sâu, vùng xa,
vùng cao, biên giới, hải đảo,... Tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển nhanh và bền vững, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, nhất là thu hẹp
dần khoảng cách và sự phân hóa giàu - nghèo trong cả nước. Dự báo, giải quyết tốt những vấn đề


xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm, những nguyện vọng
chính đáng của nhân dân.
_ Bốn là, tăng cường công khai, minh bạch, dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá
việc thực hiện công tác cán bộ.
Câu 7: Bản chất ý thức là gì? Tại sao phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh
cao nhất chỉ có ở con người?
a) Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q trình phản ánh tích
cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc người phân tích
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là
cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong

đó. Kết quả phản ánh của ý thức tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện lịch
sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng
phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác nhau, có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm,
thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau... thì kết quả phản ánh đối tượng
trong ý thức cũng rất khác nhau. Trong ý thức của chủ thể, sự phù hợp giữa tri thức và khách thể
chỉ là tương đối, biểu tượng về thế giới khách quan có thể đúng đắn hoặc sai lầm, và cho dù phản
ánh chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phản ánh gần đúng, có xu hướng tiến dần đến khách
thể.
- Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh
tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế
giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ rệt.
Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội. Thế
giới không thoả mãn con người và con người đã quyết định biến đổi thế giới bằng hoạt động thực
tiễn đa dạng, phong phú của mình. Thơng qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua
đó chủ động khám phá không ngừng cả bề rộng và chiều sâu của các đối tượng phản ánh.
b) Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở con người vì:
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở
thực tiễn xã hội – lịch sử. Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy
tâm quan niệm, nhưng nó cũng khơng phải cái tầm thường như người duy vật tầm thường gán
cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của 1 dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người;
nói cách khác, chỉ có con người mới có ý thức. Lồi người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận
động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật
chất để ý thức hoạt động, cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống phong phú tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy ý thức hình thành và khơng ngừng phát triển. Khơng có bộ óc con người, khơng có
hoạt động thực tiễn xã hội thì khơng thể có ý thức. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất
của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn


khác nhau về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng

định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Câu 8: Nhận thức là gì? Nêu những nguyên tắc cơ bản của nhận thức theo lý luận duy vật
biện chứng? Tại sao thực tiễn là mở đầu và kết thúc của nhận thức?
a, Nhận thức là:
_ nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
_ nhận thức là 1 quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là q trình đi từ chưa biết đến
biết, từ biết ít tới đến biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
Đây là một q trình, khơng phải nhận thức 1 lần là xong, mà có phát triển, có bổ sung và hồn
thiện. Trong q trình nhận thức của con người luôn luôn nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận
thức khinh nghiệm và nhận thức lý luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận
thức kinh nghiệm là nhận thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng hay các thí
nghiệm, thực nghiệm khoa học.
_ Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức chính là con người. Nhưng đó là con người hiện
thực, đang sống, đang hoạt động thực tiễn và đang nhận thức trong những điều kiện lịch sử - xã
hội cụ thể nhất định, tức là con người đó phải thuộc về một giai cấp, một dân tộc nhất định, có ý
thức, lợi ích, nhu cầu, cá tính, tình cảm,v... Con người là chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi
điều kiện lịch sử có tính chất lịch sử - xã hội. Khách thể nhận thức cũng có tính lịch sử - xã hội,
cũng bị chế ước bởi điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Khách thể nhận thức luôn luôn thay đổi
trong lịch sử cùng với sự phát triển của hoạt động thực tiễn cũng như sự mở rộng năng lực nhận
thức của con người. Khách thể nhận thức cũng không đồng nhất với đối tượng nhận thức. Khách
thể nhận thức rộng hơn đối tượng nhận thức.
b) Nguyên tắc cơ bản của nhận thức theo lý luận duy vật biện chứng
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người. - - Thừa
nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Khơng có
cái gì là khơng thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thơi.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo, Quá trình
phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến
bản chất.

_ Coi thực tiễn cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận
thức và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
c, Thực tiễn là mở đầu của kết thúc của nhận thức vì:
* Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức


_ Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, buộc
chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn
cung cấp nhứng tài liệu, vật kiệu cho nhận thức con người. Khơng có thực tiễn thì khơng có nhận
thức, khơng có khoa học, khơng có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến cùng là được
nảy sinh từ thực tiễn.
_ Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó
ln thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác
quan của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hồn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp q
trình nhận thức của con người tốt hơn.
_ Hoạt động thực tiễn cịn là cơ sở chế tạo ra các cơng cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển vi, kính thiên văn, máy vi tính, VV.. đã
mở rộng khả năng của các khí quan nhận thức của con người
=> Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở để nhận thức của con người nảy sinh, | tồn tại,
phát triển. Khơng những vậy, thực tiễn cịn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển
* Thực tiễn là mục đích của nhận thức
_ Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người
đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản
xuất và cải tạo xã hội. Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo xã hội buộc con người phải
nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ khơng phải để trang trí, hay phục vụ cho những ý tưởng viển vơng.
Nếu khơng vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học - kết quả
của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay
gián tiếp để phục vụ con người.
Câu 9: Lực lượng sản xuất là gì? Phân tích kết cấu của lực lượng sản xuất? Nêu vai trò của

tư liệu sản xuất trong kết cấu ấy?
a) Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng
mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự
nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người
_ Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất
và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất
định của con người và xã hội.
_ Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hóa” tạo ra sức
sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội các thời kỳ nhất
định.
b, Phân tích kết cấu lực lượng sản xuất:
LLSX bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động:


_ Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo
nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là
chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản
xuất.
_ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và
đối tượng lao động:
+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu
lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động
lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản
xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
+ Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong q trình sản xuất vật chất.
+ Cơng cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động
vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con
người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao

động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là “khí quan” của bộ óc, là tri
thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật
chất của quá trình sản xuất. Cơng cụ lao động giữ vai trị quyết định đến năng suất lao động.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân
sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử, là thước đo trình độ tác động, cải biến tự
nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau.
Câu 10: Tri thức là gì? Tri thức đóng vai trị gì trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn?
Cho ví dụ
a) Khái niệm tri thức:
_ Tri thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải
nghiệm hay thơng qua giáo dục. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý
thuyết hay thực hành. Mặc dù có nhiều lý thuyết về tri thức, nhưng hiện khơng có một định nghĩa
nào về tri thức được tất cả mọi người chấp nhận.
_ Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có
tri thức. Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng
tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó (hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới
nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội.”
b) Vai trò của tri thức trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn
Tri thức có vai trị rất lớn đối với đời sống - xã hội. Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại
mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối
nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kỹ thuật cao”. Tiêu


chí chủ yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực
tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Tri thức đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động
của con người qua các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục.
* Vai trò của tri thức đối với kinh tế:
_ Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác,
sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có
nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó: Tri thức khoa học - công nghệ

cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sở chủ yếu và phát triển rất mạnh. Nguồn vốn quan trọng
nhất, quý nhất là nguồn vốn trí tuệ. Sáng tạo và đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất
thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế mang tính học tập. Nền kinh tế lấy thị trường tồn cầu là mơi
trường hoạt động chính.
_ Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng
động là tri thức. Thực tiễn 2 thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa
học-cơng nghệ và tồn cầu hóa, kinh tế tri thức đang dần hình thành ở các nước ta. Tương lai của
bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phủ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu,
nguồn nhân lực và máy móc thiết bị... mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông
tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh. Vốn trí tuệ của cơng ty, tri thức, bí quyết và
phương pháp đội ngũ nhân viên và cơng nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn
thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Các cơng ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng
vào công nghệ hiện đại mà đã đạt được những thắng lợi ngồi cả sự mong đợi.
_ Ví dụ điển hình là cơng ty chế biến sữa Vinamilk từ tình trạng vơ cùng khó khăn đã vươn lên
sản xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. Tri thức giúp nền kinh tế
nước ta phát triển vững mạnh theo một đường lối vững chắc. Việt Nam đang dần dần hội nhập
quốc tế và giao lưu với các nền kinh tế thế giới. Để phát triển được nền kinh tế, chúng ta cần phải
có kiến thức nhất định và hiểu rõ về cơ chế hoạt động cũng như những khó khăn thuận lợi của
hoạt động kinh tế thế giới. Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Chính nhờ tri thức mà đất nước ta đang ngày càng phát triển và sử dụng tri thức
một cách phù hợp với thực tiễn hơn.
* Vai trò tri thức đối với chính trị:
Xã hội được phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu là nhờ một phần rất lớn từ bộ máy
chính trị nhà nước, là đầu não của một quốc gia. Để có thể điều hành xã hội đi đến thời đại mới,
ngày một bước gần hơn với chế độ xã hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp của vơ vàn sự
lĩnh hội về tri thức ở các lĩnh vực khác nhau. Mỗi một lĩnh vực là một chân trời tri thức mà con
người luôn khao khát được vươn tới, được lĩnh hội một cách trọn vẹn và từ những hiểu biết đó
họ kiến tạo thành những ý tưởng, xây dựng những bước đi vững mạnh hơn, đưa ra những chính
sách thiết thực hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Đại hội VI của Đảng đã
đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn

mạnh: “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất của mọi
hoạt động chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.


* Vai trị của tri thức đối với văn hóa - giáo dục:
_ Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hoá - giáo dục của một quốc gia. Giáo dục là nền tảng
của xã hội. Một xã hội phát triển là xã hội ở đó con người được hoàn thiện bản thân ở các lĩnh
vực, đặc biệt là đóng góp cho nền giáo dục ngày càng phát triển, cải tiến trên mọi phương diện.
Tri thức là “nguồn tài nguyên” vô giá của nhân loại. Chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn
hóa các nước và tạo nên nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải có
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục, biết về nội dung, phương pháp giáo dục của các
nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo dục của Việt Nam.
_ Qua những mặt yếu kém của nền giáo dục Việt Nam, có tri thức giúp chúng ta có sự hiểu biết
để đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục của nước ta vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại
lại vừa giữ gìn bản sắc văn hóa tốt của dân tộc Việt Nam. Nước ta đã áp dụng phương pháp giảng
dạy, học tập với các công nghệ tiên tới cùng với tính linh hoạt, độc lập, tự chủ nhưng đồng thời
vẫn giữ được văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc (tôn sư trọng đạo, yêu nước, nhân ái,...).
_ Trong số nhiều phương pháp giảng dạy hiện đại gắn liền với công nghệ, e-Learning đang là
phương pháp giáo dục có tiềm năng nhất cho các nước đang phát triển. Ý tưởng tạo khả năng cho
mọi người, bất kể họ ở đâu, phát triển kỹ năng và năng lực của họ và gắn nối với hệ thống giáo
dục quốc gia là rất có triển vọng.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự vận động quy luật này trong quy luật đổi mới của nước ta?
a) Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
Biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách quan. Sản
xuất vật chất của xã hội luôn ln có khuynh hướng phát triển. Sự phát triển đó, xét cho đến
cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện qua các trình độ khác nhau. Nói đến trình độ
của lực lượng sản xuất là nói đến trình độ của cơng cụ lao động (thủ cơng, cơ khí, cơng nghiệp

hiện đại...), trình độ của người lao động kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ ứng dụng khoa
học-kỹ thuật và cơng nghệ vào q trình sản xuất, trình độ tổ chức và phân cơng lao động xã
hội...). Chính trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định tính chất của lực lượng sản xuất và
được biểu hiện một cách rõ nét nhất ở sự phân cơng lao động xã hội.
_ Khi trình độ của lực lượng sản xuất chủ yếu là thủ cơng thì lao động của con người cịn mang
tính cá nhân riêng lẻ, một người có thể sử dụng được rất nhiều cơng cụ lao động khác nhau trong
quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Với trình độ của lực lượng sản xuất như vậy thì tính chất
của lực lượng sản xuất chủ yếu là mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, máy
móc cơng nghiệp thì một người khơng thể đảm nhận được tất cả các khâu của quá trình sản xuất,
mà mỗi người chỉ đảm trách được một khâu nào đó trong dây chuyền sản xuất. Q trình sản
xuất ấy địi hỏi phải có nhiều người tham gia, sản phẩm làm ra là sự kết tinh lao động của nhiều
người. Với trình độ của lực lượng sản xuất như vậy thì tính chất của lực lượng sản xuất là mang
tính xã hội.


Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất qua các trình độ khác nhau đã quy định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ấy.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất, trước hết là cơng cụ lao động lại là yếu tố
động, nó luôn luôn được con người cải tiến và phát triển, đã dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất hiện có và khi ấy xuất hiện sự địi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế
vào đó quan hệ sản xuất mới. Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội
dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội lại tương đối ổn
định (tĩnh).
Thông qua sự tác động nội tại của phương thức sản xuất đã dẫn đến quan hệ sản xuất cũ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới tiến bộ hơn, cao hơn ra đời. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học,
C.Mác đã kết luận: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức
sản xuất của mình và do thay đổi phương thức, cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất

cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay, đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối
xay chạy bằng máy hơi nước, đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(1). Lịch sử phát triển
của xã hội loài người đã chứng minh kết luận ấy.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơng cụ lao động cịn thơ sơ, chủ yếu là đồ đá, cung tên,
với người lao động chỉ biết săn bắt, lượm hái thì con người muốn duy trì sự sống, chống lại
những tai hoạ của tự nhiên họ phải lao động sản xuất theo cộng đồng, do đó quan hệ sản xuất lúc
này phải là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ cơng xã ngun thủy. Song, lồi người, vì sự tồn tại
và phát triển của mình họ phải tìm cách cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất.
Sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã biết trồng trọt và chăn
ni, sản xuất theo từng gia đình có năng suất lao động cao hơn, loài người bắt đầu sản xuất ra
những sản phẩm thặng dư, do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy tan rã và
quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ tư hữu chủ nơ bước đầu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ
đã làm cho sản xuất phát triển. Nhưng, loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát
triển lực lượng sản xuất; đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với đó là sự xuất hiện
của những ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu buôn bán các sản phẩm làm ra
phát triển hơn.
Do đó, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô khơng cịn phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất nữa, lúc này xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Nhưng lực lượng sản xuất vẫn không dừng lại ở đó.
Lồi người vẫn tiếp tục cải tiến cơng cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao
động bằng máy móc cơng nghiệp ra đời cùng với người lao động là những người công nhân
trong các nhà máy, xí nghiệp, phân cơng lao động đã mang tính xã hội. Do đó, quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ tư hữu địa chủ cần phải được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới - quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chính sự ra đời của quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho lực


lượng sản xuất trong xã hội tư bản phát triển đạt tới trình độ chun mơn hố sâu và xã hội hố
cao, đến lượt nó lại mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tự hữu tư bản chủ

nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này, tất yếu phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và
xác lập quan hệ sản xuất mới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã xác định Quan hệ sản
xuất mới ấy phải dựa trên chế độ cơng hữu xã hội chủ nghĩa và nó sẽ được hình thành từng bước
theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau của lịch
sử.
Trong sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, một mặt quan hệ sản xuất ln
ln do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định, nhưng mặt khác, bản thân quan hệ
sản xuất cũng có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất. Điều này được thể hiện trong
sự tác động trở lại của nó đến lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của
sản xuất, quy định xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những khả năng
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động biện chứng này đã diễn
ra như là một quy luật chung chi phối toàn bộ sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Ngày nay, sở dĩ chủ nghĩa tư bản vẫn cịn giữ được vị trí của nó, bởi lẽ, giai cấp tư sản có thể đã
nhận thức được tính quy luật này mà điều chỉnh một bộ phận của quan hệ sản xuất như, thay đổi
tỷ trọng của những hình thức sở hữu trong hệ thống kinh tế (ví dụ: tăng hay giảm thành phần sở
hữu nhà nước, lập ra sở hữu hỗn hợp Nhà nước - độc quyền, cổ phần hóa các doanh nghiệp, quốc
tế hoá hơn nữa sản xuất và tư bản, cải tổ lại cấu trúc của nền kinh tế và cơ chế kinh doanh)... Do
đó, chủ nghĩa tư bản vẫn cịn tạo ra được những khả năng nhất định để phát triển kinh tế, kể cả
việc họ vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
b) Sự vận dụng quy luật này trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tính quy luật này cũng tác động mạnh
mẽ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy
rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Cịn
quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc “tiên tiến” (theo ý muốn chủ quan của con người) hơn so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Do đó, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), VII (1991),
VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Đường lối đó xuất phát tư từ trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa khơng
đồng đều nên chúng ta khơng thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ thúc đẩy
quan hệ sản xuất vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất vốn có của chúng ta. Vì
vậy, thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra trong cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm năng của
sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động, kích thích lợi ích.. đối với các chủ thể lao động
trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước ta là “Phát triển lực lươngj sản xuất, phát triển kinh


tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phatts
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3
mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với việc củng cố và hồn thiện quan hệ sản
xuất thì điều cần thiết và tính quyết định là chúng ta phải phát triển lực lượng sản xuất. Muốn
phát triển lực lượng sản xuất thì khơng có con đường nào khác là phải tiến hành cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Quan niệm ấy về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy vấn đề then chốt của quá trình này ở
một nước nông nghiệp lạc hậu là cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên
tiên trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Song, đó khơng chỉ là
sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế,
mà cịn là cả một q trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho
sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Cơng nghiệp hóa
phải đi đơi với hiện đại hóa, kết hợp với những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng để phát
triển chiều rộng, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên
những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học, công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, có thể nói, cơng nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp,
được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và ln gắn bó với q trình hiện đại hóa. Sự

nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ấy phải thật sự lấy phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học
và công nghệ làm nền tảng và động lực. Phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của cơng cuộc
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh”.
Câu 12: Nêu khái niệm và cho ví dụ về bản chất và hiện tượng? Trình bày quan điểm biện
chứng duy vật về mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
quan hệ đó và rút ra bài học cho bản thân khi nhìn nhận và đánh giá con người?
1, Khái niệm và ví dụ:
_ Bản chất và hiện tượng là 1 cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác
Lênin. Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Hiện
tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra ngoài của những mặt, những mối liên hệ đó trong những
điều kiện xác định,
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mác Lênin cho rằng, cả ban chất và hiện tượng đều
tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật khơng do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được
tạo nên từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ
khách quan, đan xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định.
Những mối liên hệ tất nhiên đó tạo nên bản chất của sự vật. Vậy, bản chất là cái tồn tại khách
quan gắn liền với sự vật, còn hiện tượng là biểu hiện ra ngoài của bản chất, cũng là cái khách
quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.


Ví dụ: một trong những đặc tính cơ bản của ánh sáng là tính sóng. Hiện tượng được biểu hiện
của nó (qua thực nghiệm) là sự giao thoa bước sóng (có thể quan sát được).
2, Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Rút ra bài học:
_ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng,
còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định, khơng có bản chất tồn
tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như khơng có hiện tượng nào mà không biểu hiện của 1
bản chất đó; bản chất quyết định hiện tượng; khi bản chất thay đổi thì cũng kéo theo sự biến đổi

của hiện tượng tương ứng.
Vì vậy, có thể thơng qua việc quan sát các hiện tượng để nghiên cứu bản chất và ngược lại, khi
hiểu rõ bản chất của một đối tượng nghiên cứu thì có thể suy ra các khả năng biểu hiện của nó
khi xác định được các điều kiện có liên quan. Điều quan trọng nhất đối với nhận thức và thực
tiễn là cần phải nắm bắt được bản chất, trên cơ sở đó mới có thể giải quyết được căn bản hiện
tượng (giải thích hiện tượng, xóa bỏ hay tạo ra hiện tượng mới..)
Ví dụ trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát, thống kê các hiện
tượng (quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở tiến hành nghiên cứu (có thể thơng qua
việc xác lập các mơ hình giả thuyết,..) về bản chất của hiện tượng để giải thích hiện tượng quan
sát được.
Sự đối lập (mâu thuẫn) giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ: bản chất là cái
chung, cái tất yếu; còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng; bản chất là cái bên
trong, hiện tượng là cái bên ngoài; bản chất tương đối ổn định, còn hiện tượng thường xuyên
biến đổi. Vì vậy, khơng phải trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể từ hiện tượng quan sát
được trực tiếp rút ra bản chất tương ứng mà cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, xem xét những
nhân tố tác động làm sai lệch sự biểu hiện của một bản chất. Đó cũng chính là lý do tồn tại của
nghiên cứu khoa học: chỉ ra sự ẩn giấu của một bản chất qua hiện tượng biểu hiện có tính sai lạc.
Ví dụ, có thể thấy các hiện tượng “ảo ảnh” khi quan sát các hiện tượng tự nhiên; hoặc các
hiện tượng che giấu bản chất thực sự qua quan sát một số hiện tượng trong đời sống hoạt động
của con người và xã hội.
Nhìn nhận con người là một việc làm vừa khó khăn vừa rủi ro, nhưng nếu làm đúng thì “lợi
nhuận” hiển nhiên cũng rất lớn. Vì vậy, con người ta mặc dù không bao giờ hiểu hết được người
khác nhưng do yêu cầu cuộc sống, vẫn ln phải đưa ra các đánh giá tốt nhất có thể trong cơng
việc, tình cảm cũng như mọi mối quan hệ khác. Về phương pháp luận, đánh giá con người phải
hướng đến dự đoán về hành vi của cá nhân đó trong những trường hợp khác nhau, mà quan trọng
là cách cá nhân đó suy nghĩ ra sao, đặt vấn đề gì lên trước tiên khi đối mặt với hồn cảnh. Dựa
vào việc nghiên cứu mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, tôi nhận ra rằng, đứng trước một
số hiện tượng xảy ra trong đời sống, con người phần nào sẽ bộc lộ bản chất thật của mình.
Hiện tượng thứ nhất, đó là quyết định của con người khi đứng trước lợi ích.Con người ai ai
cũng có phần thích được hưởng lợi, và khi đối mặt với lợi ích, nhiều người sẽ rũ bỏ lớp ngụy

trang của mình để hiển lộ ra bản chất thật. Nếu một người nào đó sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà
gạt bỏ lương tâm, gạt bỏ tình thân, thậm chí từ bỏ cả đạo nghĩa, thì đó khơng phải là người ta có


thể đặt niềm tin.Còn nếu một người khi đối diện với lợi ích, khơng bỏ đi các ngun tắc nội tâm,
nhất
mực kiên định với đạo đức tín ngưỡng, chắc chắn sẽ có một lựa chọn đáng tơn trọng trong mọi
tình huống.
Hiện tượng thứ hai, cách đối đãi của con người với những người có địa vị thấp hơn họ. Nhìn
chung, con người khi đối diện với những người có địa vị thấp kém hơn thường dễ nảy sinh cảm
giác thấy bản thân mình vượt trội hơn. Nhưng nếu như có thể bng bỏ loại tâm tư này, khơng tỏ
ra mình lợi hại hơn đối phương, thì ngược lại càng được mọi người kính trọng.
Hiện tượng thứ ba, khi đối diện với việc thực hiện lời hứa. Một cá nhân khi phải đối diện với lời
hứa sẽ dễ bộc lộ bản chất của mình. Với bậc quân tử thì lời hứa đáng giá ngàn vàng, với những
gì mình đã hứa nhất định sẽ không bao giờ thất hứa. Người như vậy rất đáng tin cậy. Cịn với
những ai khơng thể giữ được lời hứa của mình, thì có thể suy ra trong cuộc sống họ cũng sẽ dễ
trở mặt trong những tình huống khác và khơng đáng tin cậy.
Câu 13: Theo học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, khi quan hệ sản xuất khơng phù hợp với
lực lượng sản xuất thì cần có những thách thức nào để tạo lập ra sự phù hợp giữa chúng?
Liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam?
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một
quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật do C. Mác phát hiện ra
và được trình bày trong nhiều tác phẩm của ông. Đây là quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong
tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận
động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn,
quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất. Theo
quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình thức phát triển” tất yếu của lực

lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cần quan niệm sự
phù hợp một cách biện chứng, lịch sử - cụ thể, trong q trình, trong trạng thái động. Do bản tính
của mình, lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn.
Vì vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng trong phương thức
sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản
xuất đồng thời cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản
xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể coi quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội. Sự biến đổi, phát triển xã hội xét đến


cùng là bắt nguồn từ quy luật này. Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật
hoạt động của con người, tồn tại và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều
kiện thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Vì vậy việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói
chung, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia dân tộc, từng giai đoạn
phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình quốc tế. Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội
IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan
duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly
khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng
lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển Những hậu quả thì ngược lại.
Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sảnxuất bị
kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu,
mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản

xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa;
coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía
là khơng thể nóng vội làm trái quy luật.
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý
chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”,
phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, ln
ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực
chất chính là quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách quan, trong gần 30 năm
qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.
_ Chúng ta nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển. Sự “phù hợp” ở đây là
sự phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và định
hướng xã hội chủ nghĩa.
_ Khơng ngừng hồn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và


hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Thực hiện chủ trương trên, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để

khuyến khích, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo
thêm động lực cho người lao động.
- Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Thực hiện đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa
dịch vụ. . - Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại
lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn minh của thế giới;
kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.

Mục lục:



×