Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Mon Khoa hoc quan ly giao duc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.56 KB, 81 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHOA SƯ PHẠM. PGS.TS. TRẦN ĐÌNH TUẤN. TẬP BÀI GIẢNG KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC (Dùng cho đào tạo Thạc Sĩ quản lý giáo dục). HÀ NỘI 2013.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Chuyên đề 1 QUẢN LÝ GIÁO DỤC LÀ MỘT KHOA HỌC PGS.TS.Trần Đình Tuấn MỞ ĐẦU: Ý nghĩa, sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này: Trong thực tế, cán bộ quản lý giáo dục còn có nhiều cách hiểu chưa nhất quán về những vấn đề chung của khoa học quản lý giáo dục. Ví dụ: Bản chất QLGD là gì? Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của QLGD là gì? Chức năng quản lý là gì? Khi nào quản lý theo chức năng? Khi nào quản lý theo các thành tố? Quản lý theo nguyên tắc? Quản lý theo PP nào? Do đó dẫn đến tình trạng thiếu nhất quán trong hoạt động quản lý. Mục đích: Nhằm trang bị cho người học những hiểu biết tổng quát về QLGD, làm cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc nghiên cứu môn học và vận dụng trong thực tiễn QLCL ĐT . Nội dung cơ bản: I. Những vấn đề chung về quản lý giáo dục 1. Khái niệm quản lý 2. Khái niệm QLGD 3. Bản chất QLGD 4. Đặc điểm QLGD 5. Các quan điểm QLGD II. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu khoa học QLGD 1. Đối tượng nghiên cứu của khoa học QLGD 2. Nhiệm vụ nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục 3. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học QLGD Phương pháp: Kết hợp lên lớp với tự nghiên cứu. Lấy tự nghiên cứu là chính. Tài liệu tham khảo: 1. Trần Đình Tuấn, Tập bài giảng Khoa học quản lý giáo dục 2. Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, Nxb Giáo dục 3. Bùi Minh Hiền, Quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, HN 2006.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Khái niệm về quản lý * Vai trò của quản lý Quản lý là một hoạt động phổ biến diễn ra trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt nó có liên quan mật thiết đến sự hợp tác và phân công lao động. C.Mác đã xem quản lý là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lao động xã hội. Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hành những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”1. * Khái niệm quản lý Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”(2). Quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên tục của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc và các phương pháp cụ thể nhằm thực hiện các mục tiêu xác định. Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như: xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch; tổ chức thực hiện, điều chỉnh các hoạt động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý. Sự xuất hiện của hoạt động quản lý trong xã hội dẫn đến mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý và những mối quan hệ qua lại của các nhân tố trong hệ thống quản lý. Những mối quan hệ phức tạp ấy người ta gọi là quan hệ quản lý một kiểu của quan hệ xã hội và là đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý. Khoa học quản lý đi sâu vào nghiên cứu bản chất của các mối quan hệ quản lý và các quy luật vận động, phát triển của chúng, trên cơ sở đó đề xuất những con đường, phương pháp tối ưu cho sự quản lý hệ thống xã hội nhằm tạo điều kiện cho nó vận hành thuận lợi đạt tới mục tiêu xác định. * Các học thuyết quản lý 1 2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 480 Từ điển Giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2001, tr. 326.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Khoa học quản lý được hình thành, phát triển trên nền tảng của những tiến bộ khoa học và công nghệ, thành tựu của những giá trị văn hoá - tinh thần, song đặc biệt nó gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp. - Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor (1856-1915) - người Mỹ. Một trong những lý thuyết quản lý tiêu biểu phải kể đến đầu tiên là Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor. Taylor đã đề xuất ra những nguyên tắc cơ bản để quản lý một cách khoa học, cải tiến quy trình tuyển dụng, huấn luyện nhân viên và tìm kiếm một phương pháp hữu hiệu nhất để hoàn thành công việc. Tuy nhiên, trường phái quản lý khoa học trong khi đề cao vai trò trung tâm của công nghệ đã ít quan tâm đến khía cạnh con người trong sản xuất. Họ cho rằng, nhân công là một yếu tố của hao phí sản xuất và cũng là một yếu tố bất định. - Thuyết quản lý hành chính. Đại biểu của trường phái này là Henry Fayol (1841-1925), người Pháp Trong tác phẩm “Quản lý công nghiệp và quản lý tổng quát„ Henry Fayol đã đề xuất một trong những vấn đề then chốt nhất của lý luận quản lý dựa trên nguyên tắc về sự phân công lao động trong quản lý và vấn đề các chức năng quản lý. Theo ông, quản lý có các chức năng cơ bản là dự đoán và lập kế hoạch tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. - Thuyết quản lý bàn giấy Đại biểu cho trường phái này là nhà xã hội học người Đức Max Weber (1864-1920). Quản lý kiểu bàn giấy là một hệ thống dựa trên những nguyên tắc hệ thống thứ bậc, sự phân công lao động và quy trình sản xuất, kinh doanh. Theo M.Weber, để quản lý tốt một tổ chức cần xác định rõ những vấn đề quy luật, chuẩn mực của tổ chức, phân định rạch ròi quyền hạn của mỗi cấp quản lý, có những cam kết ràng buộc mỗi thành viên với tổ chức và ngược lại. Trên đây là một số trường phái quản lý truyền thống tiêu biểu. Nhìn chung, các lý thuyết đó đều nhấn mạnh đến những nguyên tắc quản lý, đề cập các mối quan hệ quản lý và đề cao vai trò của nhà quản lý. Ngày nay, các quan điểm quản lý truyền thống đó vẫn được nghiên cứu, cải tiến và vận dụng. Song các quan điểm.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> quản lý hiện đại đã chú ý nhiều hơn đến việc tạo điều kiện để những nhà quản lý có ứng xử hợp lý khi động chạm đến khía cạnh con người trong một tổ chức (quan điểm hành vi); tiếp cận hệ thống trong quản lý (quan điểm hệ thống); coi trọng bốn chức năng quản lý chủ yếu: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo - lãnh đạo và kiểm tra; coi trọng tính hiệu quả, xem con người là nguồn lực chủ yếu để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất (lý thuyết quản lý hiệu quả)… 2. Khái niệm quản lý giáo dục Nếu xem quản lý là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi hoạt động xã hội, thì quản lý giáo dục cùng là một thuộc tính tất yếu của mọi hoạt động giáo dục có mục đích. Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục, song thường người ta đưa ra quan niệm quản lý giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô. QLGD  Vĩ mô  Vi mô a. Quản lý cấp vĩ mô: Quản lý vĩ mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản lý vi mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường. Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục quốc dân nhằm huy động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Như vậy, quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm làm cho toàn bộ hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Chủ thể quản lý điều khiển các thành tố trong hệ thống quản lý thông qua hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống đó. Tính chất chỉ huy – chấp hành là đặc trưng nổi trội trong quan hệ quản lý. Tuy nhiên, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý đều có mục đích chung. Quản lý giáo dục có nhiệm vụ tạo ra và duy trì một môi trường thuận lợi để mỗi cá nhân có thể hoạt động đạt được hiệu quả cao trong quá trình đạt đến mục đích chung. b. Ở cấp độ vi mô Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm điều khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng, đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích, mục tiêu đã xác định với hiệu quả cao nhất. Tiếp cận theo góc độ điều khiển học, có thể hiểu quá trình quản lý giáo dục là hoạt động tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục đích, mục tiêu giáo dục của nhà trường. Theo khái niệm trên, quá trình quản lý giáo dục được hiểu như một quá trình vận động của các thành tố có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong hệ thống tổ chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung, phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý. Các thành tố đó luôn vận động trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau, đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội chung quanh. + Như vậy, thuật ngữ “quản lý nhà trường” có thể xem là đồng nghĩa với quản lý giáo dục ở tầm vi mô. Song cần nhận rõ tác động của chủ thể quản lý đến nhà trường có hai loại tác động từ bên ngoài và tác động bên trong nhà trường..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> + Tác động từ bên ngoài nhà trường là tác động của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các hoạt động dạy học, giáo dục của nhà trường. + Tác động từ bên trong là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính nhà trường nhằm huy động, điều phối, giám sát các lực lượng giáo dục của nhà trường thực hiện có chiến lược, có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và giáo dục đặt ra. Đó là sự tác động của thủ trưởng, người chỉ huy cấp trên đối với các tổ chức cấp dưới thuộc quyền. Sự tác động đó phải có mục đích, có kế hoạch và phải tuân theo các nguyên tắc quản lý. Tiểu kết: Quá trình quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đưa hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu dự kiến và tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục vừa là một hiện tượng xã hội (hiện tượng hoạt động, lao động, công tác), vừa là một loại quá trình xã hội (quá trình quản lý) đồng thời cũng là một hệ thống xã hội (hệ thống quản lý). 3. Bản chất của quản lý giáo dục - Theo GS. Hà Thế Ngữ: Bản chất của quá trình quản lý giáo dục là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý3. - PGS.TS. Trần Kiểm : Bản chất quản lý giáo dục là một quá trình diễn ra những tác động quản lý4. - Theo trục lý luận trên, quản lý giáo dục được hiểu là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý giáo dục đến hệ thống giáo dục. Tiếp cận dưới góc 3. Hà Thế Ngữ, Bản chất của quản lý và các chức năng cơ bản của quản lý giáo dục, trong cuốn Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.373 4 Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, Nxb. Giáo dục, tr.39.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> độ hoạt động, quản lý giáo dục là sự nối tiếp nhau của các hoạt động mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng bị quản lý. Bản chất của quản lý giáo dục là quá trình diễn ra những tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong hệ thống giáo dục. Để nhận thức bản chất của quản lý giáo dục, cần phải làm rõ đặc trưng của bản chất đó. Bản chất quản lý giáo dục được thể hiện trên những đặc trưng cơ bản như sau: a. Quản lý giáo dục là hoạt động phối hợp giữa chủ thể QL với ĐT QL Quản lý giáo dục là hoạt động của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.  Chủ thể quản lý: Là cá nhân (Giám đốc, Trưởng phòng, Hiệu trưởng ...) Là một tổ chức hay tập thể (Bộ GD-ĐT; Ban giám hiệu nhà trường...)  Đối tượng quản lý là nhân tố mà chủ thể quản lý nhằm vào để tác động. Trong giáo dục, đối tượng quản lý gồm: Hệ thống giáo dục quốc dân, Hệ thống quản lý giáo dục, Các chủ thể quản lý, Nhân viên cấp dưới; Tập thể giáo viên, học sinh  Đối tượng quản lý phải điều chỉnh thích nghi với chủ thể quản lý. Thủ trưởng mới, phương pháp quản lý mới. Cả hệ thống phải điều chỉnh cho phù hợp phương pháp mới đó. Cấp dưới phải điều chỉnh theo cấp trên. Ví dụ: Hiệu trưởng mới, đặt ra những yêu cầu mới đối với các cơ quan, khoa giáo viên và đơn vị trong nhà trường. Các đầu mối và mọi thành viên trong nhà trường phải điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới đó.  Chủ thể quản lý phải điều chỉnh thích nghi với đối tượng quản lý..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Đối tượng quản lý mới, có những đặc điểm mới về tâm lý, lứa tuổi, về nghề nghiệp, về giới tính, dân tộc, văn hoá...Thủ trưởng phải điều chỉnh phương pháp quản lý cho phù hợp đối tượng mới đó. Ví dụ: Hiệu trưởng mới, đặt ra những yêu cầu mới đối với các cơ quan, khoa giáo viên và đơn vị trong nhà trường. Có một số cá nhân và tổ chức tiếp nhận những yêu cầu đó với các thái độ khác nhau (Phản ứng, Thờ ơ, thiếu tích cực) Chủ thể quản lý là Hiệu trưởng phải điều chỉnh các yêu cầu đã đưa ra. Ví dụ: Dạy cao học cho quân đội có yêu cầu khác dạy cho cao học dân sự b. Quản lý giáo dục là quá trình diễn ra những hoạt động nối tiếp nhau của chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý thông qua một loạt các hoạt động nối tiếp nhau. Các hoạt động quản lý bao gồm các bước: Thu nhận và phân tích thông tin; Ra quyết định quản lý; Đưa ra những tác động quản lý; Thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái mới của các đối tượng bị quản lý. - Thu nhận và phân tích thông tin + Vai trò của thông tin trong quản lý Thông tin là huyết mạch, làm nên sự vận động của quá trình quản lý. Hoạt động quan trọng hàng đầu của quản lý là thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái của đối tượng bị quản lý. Để quản lý và điều khiển hoạt động của hệ thống giáo dục thì người quản lý phải nắm bắt được thông tin về hệ thống đó. Những thông tin đó sẽ giúp người quản lý có cách nhìn nhận khách quan về hệ thống giáo dục, từ đó đưa ra những quyết định quản lý và những tác động quản lý phù hợp với hệ thống. Chất lượng, hiệu quả quản lý giáo dục phụ thuộc chủ yếu vào việc nắm thông tin về hệ thống giáo dục của chủ thể quản lý. Thông tin trong quản lý giáo dục là thông tin có tính 2 chiều.  Thông tin từ chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng phải đưa ra các thông tin (quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, chương trình…), đó chính là các thông tin điều khiển. Sau đó, chủ thể quản lý phải thường xuyên theo dõi, thu nhận các thông tin phản hồi về kết quả thực hiện các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của đối tượng quản lý.  Thông tin phản hồi. Từ đối tượng quản lý đến chủ thể quản lý. Đối tượng quản lý tiếp nhận các thông tin điều khiển của chủ thể để định hướng hoạt động, xác định kế hoạch hoạt động và tự điều khiển mình nhằm thực thi các chỉ thị, mệnh lệnh yêu cầu chủ thể quản lý. + Yêu cầu thu nhận và phân tích thông tin Thông tin về hệ thống giáo dục phải được xem xét trên những dấu hiệu đặc trưng về dung lượng, số lượng, chất lượng và giá trị của thông tin.  Dung lượng thông tin đối với hệ thống giáo dục là khả năng chứa thông tin của thông báo về hệ thống đó. Nếu một thông báo có dung lượng càng lớn thì nó phản ánh càng nhiều về hệ thống.  Số lượng thông tin là lượng thông báo về hệ thống giáo dục mà người quản lý hệ thống giáo dục đó tiếp nhận được trong một quảng thời gian xác định. Một thông báo có số lượng thông tin cao là thông báo mà người tiếp nhận cảm nhận được nhiều thông tin về hệ thống.  Chất lượng thông tin đối với hệ thống giáo dục là khả năng thông báo về bản chất của hệ thống giáo dục đó. Một thông tin càng có chất lượng cao khi nó phản ánh càng rõ những mặt bản chất, quy luật vận động và sự phát triển của hệ thống.  Giá trị thông tin là mức độ thoả mãn nhu cầu nghiên cứu hệ thống giáo dục của thông báo đối với người tiếp nhận thông tin. Một thông báo có giá trị về thông tin là thông báo mà người tiếp thu nó có cảm nhận và hiểu biết nhiều về bản chất của hệ thống giáo dục đó. - Ra quyết định quản lý.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Sau khi đã nắm chắc các thông tin, người quản lý dựa trên sự phân tích các thông tin đã nắm được để đề ra quyết định quản lý. + Vai trò của việc ra quyết định: Ra quyết định quản lý là bước khó khăn nhất và quan trọng nhất của hoạt động quản lý. Quyết định quản lý khi đã ban hành sẽ trở thành mệnh lệnh mang tính pháp lý, giữ vai trò định hướng cho mọi hoạt động quản lý. Quyết định quản lý đúng đắn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của hệ thống phát huy được hiệu quả tốt nhất. Ngược lại đôi khi điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ nhưng hiệu quả hoạt động của hệ thống không cao vì thiếu những quyết định quản lý chính xác. + Yêu cầu: Quyết định quản lý giáo dục phải đảm bảo tính khoa học khách quan, tính phù hợp với thực tiễn và tính hiệu quả. Khi đề ra một quyết định quản lý đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc đến lợi ích và sự ảnh hưởng của quyết định đó đến mọi đối tượng liên quan. Quyết định quản lý giáo dục không được mâu thuẫn với các điều khoản trong luật giáo dục và các quy định chung của Nhà nước và không đối lập với các quyết định đã được ban hành đang còn hiệu lực. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm về sự ảnh hưởng của quyết định đó. (Phạm vi ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng, tích cực, tiêu cực) - Tổ chức thực hiện quyết định + Vai trò: Sau khi đã có quyết định quản lý đúng đắn thì việc tổ chức thực hiện quyết định đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của hoạt động quản lý. Tổ chức thực hiện quyết định quản lý là bước đưa ra những biện pháp tác động quản lý lên đối tượng bị quản lý..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Những biện pháp tác động này chính là những biện pháp điều khiển hoạt động của đối tượng quản lý, của toàn bộ hệ thống giáo dục. + Yêu cầu: Những biện pháp tác động này phải có tính mục đích xác định, phải nhằm chuyển hoá quyết định quản lý giáo dục thành hiện thực, Những biện pháp tác động lên đối tượng quản lý phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo trong các điều kiện sư phạm cụ thể. Ở nhà trường, những tác động của chủ thể quản lý giáo dục phải phát huy được tính tích cực hoạt động của đối tượng bị quản lý. Phải tạo ra sự phối hợp hoạt động cùng nhau giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý. - Thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái mới của các đối tượng bị quản lý + Vai trò: Đây là bước cuối cùng trong một chu kỳ của hoạt động quản lý, đồng thời cũng là bước đầu tiên của chu kỳ hoạt động tiếp theo. Sau khi thực hiện các tác động quản lý, chủ thể quản lý phải thu nhận và phân tích thông tin về trạng thái mới của đối tượng bị quản lý. Việc nắm bắt và phân tích chính xác thông tin về trạng thái mới của đối tượng bị quản lý sẽ giúp cho người quản lý đánh giá đúng về hiệu quả của quyết định quản lý đã ban hành và đánh giá đúng các biện pháp tổ chức thực hiện của hệ thống quản lý. + Yêu cầu đối với chủ thể quản lý là phải phát hiện, đánh giá chính xác sự biến đổi của đối tượng bị quản lý sau khi có tác động quản lý. Dựa trên sự đánh giá đó để phát hiện chỗ mạnh, chỗ yếu của hoạt động quản lý và có biện pháp điều chỉnh cho những hoạt động tiếp theo..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Các hoạt động quản lý giáo dục diễn ra kế tiếp nhau, mỗi hoạt động là một bước, một giai đoạn tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý. Giữa các bước đó vừa có tính độc lập tương đối vừa có quan hệ biện chứng với nhau, vừa hỗ trợ cho nhau, vừa chế ước lẫn nhau. Thực hiện tốt bước này sẽ là cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả của bước tiếp theo. Vì vậy, trong quản lý giáo dục không được tuyệt đối hoá hoặc đơn giản hoá, xem nhẹ bất cứ một bước nào.. Tóm lại, bản chất của quản lý giáo dục là hoạt động của chủ thể và đối tượng quản lý giáo dục, nhằm phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời hình thành, phát triển nhân cách người được giáo dục. 4. Đặc điểm của quản lý giáo dục a. Quản lý giáo dục thuộc phạm trù quản lý xã hội - Quan hệ quản lý trong giáo dục là một loại quan hệ xã hội đặc biệt. Đó là quan hệ được tạo thành bởi sự tác động qua lại giữa người và người trong các hoạt động quản lý giáo dục. Trong mối quan hệ đó, mỗi người vừa là chủ thể quản lý, vừa là đối tượng quản lý và hoạt động quản lý vừa là hoạt động chuyên môn của cơ quan quản lý, vừa là hoạt động mang tính xã hội hoá. - Xét theo quan điểm hệ thống, ngành giáo dục là một bộ phận trong hệ thống tổ chức xã hội nói chung. Quản lý giáo dục tuân theo quy luật chung của quản lý xã hội và chịu sự quy định của quản lý xã hội. Quan hệ quản lý giáo dục đựơc đan kết bởi tất cả các loại quan hệ xã hội. Quan hệ quản lý giáo dục phản ánh tính chất và trình độ phát triển của quan hệ xã hội. Quan hệ quản lý giáo dục mang tính lịch sử, tính giai cấp. Mỗi chế độ xã hội khác nhau có phương thức quản lý xã hội khác nhau và cũng có phương thức quản lý giáo dục khác nhau. Trong những giai đoạn phát triển khác nhau của một chế độ xã hội có những mối quan hệ xã hội khác nhau và có cách thức quản lý khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> - Cũng như khoa học quản lý xã hội nói chung, khoa học quản lý giáo dục được xây dựng dựa trên những thành tựu của nhiều bộ môn khoa học, như khoa học Mác – Lênin, khoa học tổ chức - điều khiển (bao gồm lý thuyết hệ thống, điều khiển học, lý thuyết thông tin…). Khác với khoa học quản lý xã hội nói chung, khoa học quản lý giáo dục còn được xây dựng dựa trên thành tựu của các khoa học giáo dục, mà trực tiếp là thành tựu của tâm lý học và giáo dục học. Giáo dục học cung cấp những quy luật, những đặc điểm và những kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình giáo dục, đào tạo làm cơ sở cho khoa học quản lý giáo dục. Điều đó làm cho quản lý giáo dục có nét riêng so với các lĩnh vực khác của quản lý xã hội. Yêu cầu: Một là, quản lý giáo dục phải tuân thủ theo cơ chế quản lý nhà nước. Các hành động quản lý giáo dục được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo được tổ chức thành hệ thống theo các cấp. Đó là các cơ quan chuyên trách về giáo dục và đào tạo. Hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục được tiến hành dựa trên hệ thống văn bản pháp quy của nhà nước. Hai là, quản lý giáo dục phải coi trọng quản lý con người. Quản lý giáo dục là tổ chức một cách khoa học lao động của những người tham gia giáo dục, là phát triển đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần của họ. Như vậy, quản lý giáo dục là quản lý mối quan hệ giữa con người với con người trong lĩnh vực hoạt động giáo dục. Con người là chủ thể có ý thức, họ tiếp nhận tác động của chủ thể quản lý một cách có ý thức. Vì vậy, để phát huy được vai trò nhân tố con người, đòi hỏi nhà quản lý phải am hiểu về con người, có những tác động quản lý phù hợp với đặc điểm của con người..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Quản lý con người trong lĩnh vực giáo dục nhằm đào tạo con người. Tức là dạy cho họ thực hiện vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với xã hội. Dạy cho họ một nghề nghiệp cụ thể nào đó để họ làm tròn trách nhiệm xã hội của mình, vì sự phát triển xã hội và phát triển bản thân. Ba là, quản lý giáo dục thuộc phạm trù phương pháp Phương pháp quản lý rất đa dạng, luôn mềm dẻo, linh hoạt sáng tạo. Người quản lý phải thương xuyên nghiên cứu đổi mới phương pháp cho phù hợp với điều kiện sư phạm cụ thể. Phương pháp quản lý quan hệ chặt chẽ với mục đích, mục tiêu quản lý, luôn hướng tới thực hiện các mục đích, mục tiêu quản lý. Nhưng quản lý không phải là mục đích hoạt động của chủ thể quản lý. Nếu nhận thức không đúng về vấn đề này sẽ dẫn đến hành động quản lý không đúng. Bốn là, quản lý giáo dục phản ánh các thuộc tính quản lý xã hội + Thuộc tính tổ chức - kỹ thuật. Tổ chức là thuộc tính đầu tiên của quản lý xã hội. Mọi hoạt động xã hội của con người đều phải được tổ chức. Tổ chức tạo ra các quan hệ xã hội hợp lý trong lao động. Quản lý phải tổ chức cho con người cải tiến kỹ thuật, khai thác các tính năng tác dụng kỹ thuật. Con người gắn kết với phương tiện kỹ thuật tạo thành lực lượng lao động. Nhà quản lý phải quan tâm bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề của người lao động, giúp họ tích cực cải tiến và làm chủ phương tiện kỹ thuật, nâng cao hiệu quả lao động. + Thuộc tính kinh tế - xã hội. Mục tiêu của quản lý giáo dục là tạo ra hiệu quả kinh tế của giáo dục. Hiệu quả kinh tế của giáo dục bao gồm hiệu quả trong và hiệu quả ngoài của giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trong lĩnh vực giáo dục, hiệu quả kinh tế thường gắn với hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là làm biến đổi xã hội. Giáo dục đào tạo ra một lớp người có trình độ dân trí cao, có văn hoá, có những phẩm chất làm biến đổi cơ cấu tổ chức xã hội. * Liên hệ: Trong nhà trường đại học quân sự quan hệ quản lý có những nét đặc trưng biểu hiện tính đặc thù của lĩnh vực hoạt động quân sự. Ngoài quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý còn có quan hệ chức vụ, cấp bậc, đồng chí, đồng đội theo quy định của điều lệnh. Các quan hệ đó luôn đan xen lẫn nhau, cùng tồn tại. Vì vậy, việc phân định chủ thể và đối tượng quản lý giáo dục cần phải được xem xét trong từng hoàn cảnh cụ thể. Một trong những nét đặc thù của các nhà trường đại học quân sự là mục tiêu đào tạo kép. Nhà trường đại học quân sự vừa đào tạo người sĩ quan chỉ huy, lãnh đạo theo chức danh vừa đào tạo nhà chuyên môn nghiệp vụ theo một lĩnh vực khoa học cụ thể. Mục tiêu đào tạo quy định mục tiêu quản lý giáo dục. Mục tiêu quản lý giáo dục cùng với mục tiêu đào tạo quy định bản chất của quản lý giáo dục nhà trường đại học quân sự.. b. QLGD là môn khoa học liên ngành, có tính ứng dụng cao (xem tr. 73) - Khoa học quản lý giáo dục có tính liên ngành, có quan hệ với nhiều khoa học khác. Quan hệ với khoa học Mác - Lenin (ba bộ phận hợp thành) Quan hệ với khoa học quản lý. Quan hệ với khoa học tổ chức (các quy luật phát triển tổ chức) Quan hệ với điều khiển học. Gồm lý thuyết hệ thống, lý thuyết điều khiển, lý thuyết thông tin, vận trù học, . . . Quan hệ với khoa học giáo dục. Gồm các ngành của khoa học giáo dục. Quan hệ với Tâm lý học. Tâm lý học quản lý, tâm lý học sư phạm, tâm lý học giao tiếp, ứng xử... Quan hệ với các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, các khoa học công cụ, hỗ trợ....

<span class='text_page_counter'>(17)</span> - Khoa học quản lý giáo dục có tính ứng dụng cao. Bởi vì quản lý giáo dục là lĩnh vực hoạt động thực tiễn của con người, là lĩnh vực phương pháp. Khoa học quản lý giáo dục phải bám sát thực tiễn và ứng dụng vào thực tiễn. Không có khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng. - Đặc điểm này đặt ra yêu cầu gì? (xem yêu cầu của nguyên tắc QL) c. Quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. - Quản lý giáo dục là một khoa học. Đó là khoa học tổ chức, điều khiển các tổ chức và các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Quản lý khoa học có đối tượng, có nhiệm vụ, có phương pháp nghiên cứu riêng. Quản lý giáo dục phải tuân theo quy luật khách quan. - Quản lý giáo dục là một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật nắm giữ thông tin, nghệ thuật tổ chức, điều khiển các mối quan hệ trong tổ chức. Nghệ thuật tổ chức giáo dục con người. „Giáo dục khéo“ kết hợp với chính sách, kỷ luật. Quản lý không phải chỉ bằng mệnh lệnh hành chính mà phải bằng cả các phương pháp tâm lý, thuyết phục, động viên, chăm lo con người. - Đặc điểm này đặt ra yêu cầu gì? + Để có những tác động quản lý hợp quy luật, phát huy được hiệu quả và chất lượng của các nguồn lực giáo dục, đòi hỏi nhà quản lý phải có tri thức quản lý, có quan điểm tiếp cận thực tiễn quản lý đúng đắn, có phương pháp quản lý cụ thể phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, hoạt động quản lý là một khoa học, cần được đối xử một cách khoa học, nhà quản lý không thể mang tác phong tuỳ tiện, đơn giản, chủ quan. + Quản lý giáo dục đồng thời còn là một nghệ thuật, vì quản lý giáo dục là quản lý quá trình đào tạo, hình thành và hoàn thiện nhân cách, nó đòi hỏi nhà quản lý muốn đạt được chất lượng và hiệu quả quản lý cao luôn luôn phải trau dồi tài nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ và phong cách công tác chuẩn mực cùng với phong cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo với con người..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 5. Các quan điểm về quản lý giáo dục - Quan điểm hiệu quả Cơ sở xuất phát của quan điểm này là áp dụng tư tưởng kinh tế vào quản lý giáo dục. Theo quan điểm hiệu quả, quản lý giáo dục phải được thực hiện sao cho hiệu số giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống giáo dục phải đạt đến cực đại. - Quan điểm kết quả Quan điểm kết quả là quan điểm quản lý giáo dục chú ý tới việc đạt được mục tiêu giáo dục nhiều hơn chú ý đến hiệu quả kinh tế của nó. Cơ sở khoa học của quan điểm này là dựa vào những thành tựu của khoa học tâm lý và giáo dục. - Quan điểm đáp ứng Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và chính trị, quan điểm đáp ứng nghĩa là trong quản lý giáo dục cần hướng tới làm cho hệ thống giáo dục, phục vụ, đáp ứng các đòi hỏi của sự phát triển đất nước, phát triển xã hội. Trên đây là một số quan điểm tiêu biểu trong quản lý giáo dục. Trong thực tế, vận dụng các quan điểm trên cần có sự kết hợp hài hoà để phát triển giáo dục một cách tối ưu, đạt được mục tiêu cao nhất là hình thành, phát triển nhân cách con người, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục Trước hết, cần nhận rõ sự khác nhau giữa đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục với đối tượng của chủ thể trong hoạt động quản lý giáo dục. Trong thực tiễn giáo dục và đào tạo, đối tượng quản lý bao gồm: hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống quản lý giáo dục, các quan hệ quản lý, các chủ thể quản lý cấp dưới, tập thể và cá nhân giáo viên, học sinh, ….

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Ví dụ: Trong nhà trường, đối tượng quản lý là các nguồn lực giáo dục của nhà trường (tập thể và cá nhân giảng viên, học viên) và các mối quan hệ trong hệ thống giáo dục của nhà trường. Trong khoa học quản lý giáo dục, đối tượng nghiên cứu là các quan hệ quản lý giáo dục. Đối tượng của khoa học quản lý giáo dục là các quan hệ quản lý giáo dục và các quy luật vận động, phát triển của chúng. Giáo dục là một hệ thống hoạt động phức tạp với những hành vi có mục đích. Sự phát triển của hệ thống giáo dục là kết quả của sự tác động qua lại giữa những con người được kết hợp thành những nhóm, những tổ chức riêng biệt. Những cá nhân và những nhóm xã hội riêng lẻ đó không có vai trò như nhau và đồng đều trong hệ thống giáo dục. Đó là lý do xuất hiện cơ chế điều khiển và các cơ quan đặc thù để tổ chức, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra các hoạt động giáo dục. Những mối quan hệ giữa các cơ quan đó là tất yếu, khách quan và thuộc phạm vi những quan hệ quản lý. Các quan hệ quản lý giáo dục rất đa dạng phức tạp. Có thể nêu ra ở đây một số mối quan hệ chủ yếu như: - Một là, quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong hệ thống tổ chức quản lý giáo dục Ví dụ: ở nhà trường, như quan hệ giữa ban giám đốc (hoặc ban giám hiệu), các cơ quan chức năng (phòng, ban trực thuộc) với các khoa, bộ môn, các đơn vị quản lý học viên (hệ, tiểu đoàn, đại đội, lớp …), các đơn vị phục vụ… - Hai là, quan hệ trong nội bộ hệ thống quản lý giáo dục, Bao gồm: quan hệ giữa các cấp quản lý (quan hệ dọc) Ví dụ như quan hệ giữa Cục Nhà trường với Phòng Đào tạo, giữa phòng với các ban chức năng …; Quan hệ giữa các bộ phận trong một cấp quản lý (quan hệ ngang)..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Ba là, quan hệ giữa người lãnh đạo và người dưới quyền trong mỗi bộ phận quản lý (quan hệ tòng thuộc). Ngoài ra theo chức năng quản lý giáo dục, cần phải tính đến mối quan hệ giữa các khâu, các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra …trong quá trình quản lý giáo dục. Các quan hệ quản lý giáo dục thể hiện rõ tính chất khách quan và chủ quan của chúng. Mặt khách quan thể hiện ở chỗ, các quan hệ quản lý giáo dục, chịu sự chi phối của đường lối, quan điểm phát triển giáo dục của Đảng, của quân đội; vận động theo các quy luật giáo dục, quy luật quản lý. Mặt chủ quan thể hiện ở chỗ, các mối quan hệ đó đều thông qua con người, do con người xây dựng lên và hoàn thiện chúng để phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu quản lý. * Liên hệ: Các quan hệ quản lý giáo dục ở đại học quân sự phản ánh rõ đặc điểm của một tổ chức quân sự, mang tính thứ bậc, chỉ huy và chỉ đạo. Điều 58, Điều lệ Công tác nhà trường quân đội quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người chỉ huy, quản lý nhà trường nêu rõ: “Người chỉ huy cơ quan, đơn vị được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ chỉ đạo công tác nhà trường cấp mình và quản lý nhà trường quân đội thuộc quyền”. Đương nhiên, theo mối quan hệ dọc của hệ thống quản lý giáo dục trong quân đội, tất yếu nảy sinh quan hệ thứ bậc và cơ chế quan hệ ở đây là chỉ huy - phục tùng. Bên cạnh các quan hệ thứ bậc, chỉ huy - phục tùng nêu trên, quản lý giáo dục ở đại học quân sự còn có những mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa các cơ quan (phòng, ban chức năng), với các khoa bộ môn, các đơn vị quản lý học viên; và các mối quan hệ đa chiều khác với các nhà trường, cơ quan quản lý trong và ngoài quân đội .. Tóm lại, khoa học quản lý giáo dục nghiên cứu các mối quan hệ quản lý mang tính tất yếu, vốn có, đa dạng và phức tạp trong hoạt động quản lý, trên cơ sở đó, phát hiện và khái quát những quy luật vận động, phát triển của chúng, tạo ra cơ sở khoa học để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với tư cách là một khoa học, quản lý giáo dục phải được xây dựng dựa trên nền tảng của những sự kiện, dữ liệu khoa học trong thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục; có cơ cấu nội dung phù hợp, phản ánh được những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý như: những cơ sở phương pháp luận; cơ sở lý luận của việc tổ chức quản lý giáo dục; những vấn đề về công nghệ, phương pháp, phương tiện quản lý giáo dục, những vấn đề về tổng kết kinh nghiệm, dự báo sự phát triển và đổi mới quản lý giáo dục trong các nhà trường quân sự … Vì vậy, để hình thành và phát triển khoa học quản lý giáo dục, cần giải quyết tốt những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây : - Nghiên cứu, xác định những quan điểm, nguyên tắc với tư cách là cơ sở phương pháp luận của quản lý giáo dục. - Nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm, bản chất, quy luật vận động, phát triển, cũng như chức năng, cơ cấu bộ máy quản lý giáo dục. - Nghiên cứu xác định những mô hình tổ chức, công nghệ, phương pháp, phương tiện quản lý giáo dục . - Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm cũng như dự báo sự phát triển, xu hướng đổi mới tổ chức lao động, kĩ năng, nghệ thuật, hiệu quả quản lý giáo dục. Để giải quyết tốt những nhiệm vụ nêu trên, khoa học quản lý giáo dục phải kế thừa những thành tựu của các khoa học có liên quan, đặc biệt là khoa học quản lý và khoa học giáo dục; phải bám sát thực tiễn quản lý giáo dục sinh động ở các cơ sở giáo dục; phải kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận với khảo sát, điều tra và thực nghiệm, thí nghiệm những giải pháp tác động nhằm cải tạo hiện thực. Nhạy bén nắm bắt những xu hướng vận động của thực tiễn quản lý giáo dục. Trên cơ sở đó, dự báo sự phát triển của nó và đề xuất phương hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý giáo dục. 3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> a. Phương pháp luận nghiên cứu quản lý giáo dục - Cũng như các khoa học xã hội khác, chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng phương pháp luận của quản lý giáo dục. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa quy luật vận động khách quan và hoạt động tự giác của con người có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn hoạt động quản lý và lý luận quản lý giáo dục. - Quản lý giáo dục còn dựa trên một cơ sở phương pháp luận quan trọng là tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng CSVN về giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền giáo dục Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng, về giáo dục con người phát triển toàn diện và những quan điểm của Đảng ta về đổi mới, chấn hưng giáo dục và chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là những định hướng quan trọng cho quản lý giáo dục hiện nay. - Trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý giáo dục, cần phải có quan điểm tiếp cận phù hợp. Các quan điểm: tiếp cận hệ thống, tiếp cận chức năng, tiếp cận lịch sử - lôgic, tiếp cận thực tiễn là chỗ dựa phương pháp luận quan trọng để bảo đảm cho kết quả nghiên cứu quản lý giáo dục có độ chính xác, độ tin cậy và mang tính khả thi cao. b. Các phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục Trong nghiên cứu quản lý giáo dục, thường áp dụng một số phương pháp đặc trưng sau đây: - Phương pháp hệ thống: Phương pháp này xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống. Phương pháp này đòi hỏi phải xem quản lý như một hệ thống cấu trúc gồm các thành tố. Trong đó, chứa đựng các mối quan hệ tất yếu, vận hành theo những quy luật phát triển của quá trình quản lý..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Phương pháp lôgic trong nghiên cứu quản lý giáo dục đòi hỏi sự vận dụng các quy luật lôgic của tư duy hình thức và tư duy biện chứng để hình thành, sắp xếp các khái niệm, phạm trù quản lý giáo dục... - Phương pháp mô hình hoá trong nghiên cứu quản lý giáo dục là phương pháp tạo ra các mô hình cấu trúc, chức năng quản lý giáo dục để nghiên cứu, dự báo sự phát triển của chúng, giúp cho các chủ thể quản lý có những tác động hợp quy luật. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục là phương pháp phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá các kinh nghiệm quản lý giáo dục trên cơ sở lý luận quản lý giáo dục để từ đó rút ra những bài học có tính quy luật nhằm tiếp tục phổ biến, vận dụng chúng vào thực tiễn quản lý giáo dục. Các phương pháp nêu trên là sự cụ thể hoá các quan điểm tiếp cận khoa học trong nghiên cứu quản lý giáo dục. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Trong nghiên cứu hoạt động quản lý giáo dục, cần sử dụng chúng như một hệ thống và kết hợp chặt chẽ chúng với phương pháp thực nghiệm, thử nghiệm để đảm bảo độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu cũng như tính khả thi của những giải pháp, kiến nghị về quản lý được đề xuất từ những kết quả đó. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích bản chất của quản lý giáo dục và khái quát những đặc điểm của hoạt động quản lý giáo dục? Ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục đối với người cán bộ, giảng viên trong các nhà trường quân sự? 2. Phân tích đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu quản lý giáo dục?.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Chuyên đề 2 QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC Đặt vấn đề: Quản lý giáo dục là một quá trình diễn ra theo lôgíc nối tiếp nhau của các giai đoạn như sau: Thu nhận và phân tích thông tin về đối tượng QL. Ra quyết định QL. Tác động, điều khiển đối tượng QL. Thu nhận và phân tích thông tin phản hồi từ ĐT QL. Sơ đồ : Quá trình QLGD. Để thực hiện quá trình quản lý trên đây, đòi hỏi chủ thể quản lý phải có hiểu biết về các vấn đề cơ bản như sau: - Chức năng quản lý. - Nguyên tắc quản lý, - Phương pháp quản lý - Hệ thống quản lý. - Thông tin về quản lý Đây cũng là nội dung cơ bản của lý luận QLGD mà chúng ta sẽ nghiên cứu. Nội dung chuyên đề: Trong thời gian 4 tiết lên lớp, chỉ tập trung giới thiệu 3 vấn đề lớn: - Chức năng quản lý - Nguyên tắc quản lý - Phương pháp quản lý Phương pháp Kết hợp lên lớp với tự nghiên cứu. Lấy tự nghiên cứu là chính. GV giới thiệu một số nội dung cơ bản trong các mục lớn. HV phải tự nghiên cứu những nội dung còn lại và tự suy ra các nội dung có liên quan như: Lô gíc quá trình QLGD, thông tin trong QLGD, Cấu trúc các thành tố trong QLGD,... Thời gian: tiết Tài liệu tham khảo: 1.Trần Kiểm, Khoa học quản lý giáo dục, Nxb Giáo dục 2. Bùi Minh Hiền, Quản lý giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm, HN 2006.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> I. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC Chức năng quản lý giáo dục là gì? Chức năng quản lý là một phạm trù chiếm vị trí then chốt trong các phạm trù cơ bản của khoa học quản lý, là những loại hoạt động bộ phận tạo thành hoạt động quản lý tổng thể, là những loại hoạt động quản lý đã được tách riêng, chuyên môn hoá. Các chức năng quản lý là những hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích đến tập thể người. Trong các tài liệu nghiên cứu về lý luận quản lý, người ta phân biệt thành hai loại là chức năng cơ bản và chức năng cụ thể. Các chức năng cơ bản của quản lý là những chức năng quản lý chung, mà bất cứ chủ thể quản lý nào, dù ở cấp độ nào của quản lý với bất cứ quá trình quản lý tương ứng, với bất cứ đối tượng quản lý nào cũng đều phải thực hiện. Như vậy các chức năng cơ bản của quản lý cũng là tất yếu khách quan, vốn có của bản chất quản lý giáo dục nói chung cũng như quản lý nhà trường nói riêng. Các công trình nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa đến một kết luận tương đối thống nhất về 4 chức năng cơ bản của quản lý. Đó là: Chức năng kế hoạch hoá; chức năng tổ chức; chức năng kích thích; chức năng kiểm tra.. Chức năng Kế hoạch hoá. Chức năng Tổ chức. Chức năng Điều khiển. Chức năng Kiểm tra. THÔNG TIN QUẢN LÝ. Sơ đồ: Các chức năng quản lý giáo dục.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> 1. Chức năng kế hoạch hoá Một tổ chức sư phạm, một tập thể lao động, một nhà trường, trong đó mọi thành viên phải liên kết với nhau cùng hoạt động thực hiện nhiệm vụ của tập thể mình và của bản thân mình. Nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý là làm thế nào để mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức. Đấy là chức năng kế hoạch hoá của nhà quản lý. Kế hoạch hoá bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của hệ thống quản lý và bị quản lý. a. Vai trò, nhiệm vụ của lập kế hoạch trong quản lý giáo dục - Vai trò của lập kế hoạch: + Lập kế hoạch giúp cho nhà quản lý có khả năng ứng phó với sự thay đổi. Lập kế hoạch đòi hỏi dự báo được những thời cơ, thách thức, dự kiến các tình huống, các rào cản và cách thức xử lý. Trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế hiện nay vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. + Lập kế hoạch giúp cho nhà quản lý nắm chắc các mục tiêu của tổ chức. Nhà quản lý có cái nhìn tổng quát, toàn diện hiện tại và tương lai, thấy được sự tương tác giữa các bộ phận. Qua đó điều chỉnh hoạt động của bản thân và tổ chức đúng hướng. + Lập kế hoạch cho phép nhà quản lý lựa chọn những phương pháp tối ưu, tiết kiệm nguồn lực, tạo hiệu quả hoạt động cho toàn bộ tổ chức. Tránh được những quyết định tản mạn, vội vàng, kếm hiệu quả. + Là cơ sở cho việc kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo một cách chính xác, khách quan. Khắc phục được những đánh giá cảm tính, tùy tiện..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Lập kế hoạch có các nhiệm vụ như sau: + Xác định mục đích và nhiệm vụ phát triển nhà trường, hoàn thiện quá trình sư phạm, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo + Xác định các con đường và các phương tiện hiện thực để hoàn thành các nhiệm vụ và đạt tới các mục đích đã nêu + Xác định nhịp độ phát triển và tỉ lệ cân đối giữa các môn học, các hình thức học, các hoạt động giáo dục, các thành tố của quá trình giáo dục của nhà trường. Tóm lại, Kế hoạch hoá là chức năng quan trọng nhất của việc lãnh đạo, vì rằng lập nên kế hoạch tức là soạn thảo và thông qua những quyết định quản lý quan trọng nhất. Công tác kế hoạch hoá bao gồm dự báo, vạch chiến lược, xây dựng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, các kế hoạch tác chiến hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày. Xác định quy trình và điều kiện bảo đảm sự vận hành của quá trình sư phạm trong nhà trường. b. Các loại kế hoạch giáo dục Có bốn cách phân loại chủ yếu: - Dựa vào yếu tố thời gian, có: Kế hoạch dài hạn 10-15 năm (Kế hoạch chiến lược) Kế hoạch trung hạn 5-7 năm Kế hoạch ngắn hạn 1-2 năm (kế hoạch năm học) - Dựa vào quy mô quản lý, có: Kế hoạch tổng thể Kế hoạch bộ phận - Dựa vào nguồn lực giáo dục, có: Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất Kế hoach quản lý tài chính. Kế hoạch phát triển đội ngũ, ....

<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Dựa vào hoạt động giáo dục, có: Kế hoạch dạy học Kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp, ... Việc phân chia các loại kế hoạch chỉ là tương đối. Chẳng hạn kế hoạch chiến lược cũng có thể coi là kế hoạch tổng thể. c. Quy trình lập kế hoạch Bước 1: Chuẩn bị lập kế hoạch  Nhận thức đầy đủ yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trên. Phải nghiên cứu, quán triệt các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo về những vấn đề có liên quan đến giáo dục.  Xem xét tình trạng lập K.H. hiện nay ( Xem mẫu )  Xác định lý do lập K.H. và sự sẵn sàng của tổ chức  Tổ chức nhân sự, phân công nhiệm vụ.  Chuẩn bị kế hoạch công tác  Xác định và thu thập dữ liệu về tổ chức và môi trường  Dự báo tình huống và cách xử lý Bước hai, phân tích trạng thái xuất phát của đối tượng quản lý. Trong quản lý giáo dục, người ta thường sử dụng phương pháp phân tích SWOT để phân tích trạng thái của đối tượng quản lý. Nội dung phân tích: S  Điểm mạnh (Strengths) W  Điểm yếu (Weaknesses) O  Thời cơ (Opportunities) T  Nguy cơ (Threats) Phương pháp phân tích SWOT cho chúng ta bức tranh toàn cảnh về đối tượng quản lý. Đây là căn cứ quan trọng để hoạch định kế hoạch quản lý..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Bước ba, xác định nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch. Đây là điều kiện bảo đảm cho kế hoach khả thi. Nguồn lực giáo dục có 2 dạng : Nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên trong giữ vai trò quyết định. Bởi vì, nguồn lực bên trong mạnh mới có khả năng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên trong, chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giữ vai trò là yếu tố quyết định. Bước bốn, lập kế hoạch giáo dục. Cấu trúc nội dung bản kế hoạch thường tuân theo khung kỹ thuật chung. Thông thường một bản kế hoạch phải có cấu trúc như sau: - Đánh giá tình hình: Bao gồm thuận lợi, khó khăn, những tác động bên trong, bên ngoài đến sự phát triển của giáo dục. - Đề xuất quan điểm chỉ đạo chung cho sự phát triển giáo dục trong tương lai. (cử một tổ chức, một cơ sở giáo dục) - Xác định mục tiêu sẽ đạt đến trong tương lai: Bao gồm mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể. - Đề xuất các giải pháp phát triển giáo dục trong tương lai. - Đề xuất các biện pháp tổ chức thực hiện: Xây dựng chương trình hành động theo từng giai đoạn, từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: Khung Kế hoạch chiến lược giáo dục 2010-2020 CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2011-2020 PHẦN MỞ ĐẦU I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 1. Những thành tựu 2. Những bất cập và yếu kém II. BỐI CẢNH VÀ THỜI CƠ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2011-2020 1. Bối cảnh quốc tế và trong nước 2. Thời cơ và thách thức III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> IV. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẾN NĂM 2020 1. Mục tiêu tổng quát 2. Mục tiêu cụ thể V. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 1. Đổi mới quản lý giáo dục 2. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục 3. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục 4. Tăng nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính giáo dục 5. Tăng cường gắn đào tạo với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội 6. Tăng cường hỗ trợ phát triển giáo dục đối với các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội 7. Phát triển khoa học giáo dục 8. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC 1. Hai giai đoạn thực hiện Chiến lược 2. Phân công thực hiện chiến lược CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2011-2020. d. Yêu cầu lập kế hoạch Để lập kế hoạch giáo dục phải trả lời được 4 câu hỏi như sau : - Chúng ta đang ở đâu? (Where are we now ?) Để trả lời câu hỏi này, nhà quản lý giáo dục phải mô tả tình huống thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức, những tác động từ bên ngoài, bên trọng. Phải phân tích môi trường giáo dục, phân tích nhu cầu xã hội, cộng đồng, đánh giá chất lượng giáo dục hiện tại. - Chúng ta muốn đi đến đâu trong tương lai? (Where do we want to be in the future ?) Để trả lời câu hỏi này nhà quản lý cần phải xác định được sứ mệnh, tầm nhìn, định ra mục tiêu trước mắt, mục tiêu lâu dài cho sự phát triển. - Làm thế nào để đến đó? (How will we get there ?) Để trả lời câu hỏi này nhà quản lý cần phải dự kiến giải pháp và xác định kế hoạch hành động. Xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của các bộ phận trong tổ chức..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Làm thế nào để đo được bước tiến lên? (How do we measure our progress ?) Để trả lời câu hỏi này nhà quản lý cần phải kết hợp đánh giá định tính với định lượng. Bằng cách xây dựng chế độ thông tin xuôi, ngược, thông tin chéo để kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động. Mặt khác phải xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá định lượng chính xác kết quả đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch. 2. Chức năng tổ chức a. Vai trò, nhiệm vụ của chức năng tổ chức - V.I.Lênin đã nói về vai trò của tổ chức như sau: Tổ chức, tổ chức và tổ chức. Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga. Trong thực tiễn giáo dục, đôi khi chất lượng giáo dục thấp, thậm chí yếu kém không phải vì thiếu đội ngũ giáo viên giỏi hay thiếu cơ sở vật chất và các điều kiện đảm bảo mà do công tác tổ chức thiếu khoa học, không phất huy được sức mạnh tập thể, không khai thác hết các nguồn lực trong và bên ngoài. - Chức năng tổ chức của quản lý giáo dục là thiết kế cơ cấu, phương thức và quyền hạn hoạt động của các bộ phận (cơ quan) quản lý giáo dục trong tổ chức (nhà trường) sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức. Chức năng tổ chức trong quản lý giáo dục là thực hiện các nhiệm vụ xây dựng tổ chức sao cho phù hợp với đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn. Bao gồm: - Xây dựng cấu trúc tổ chức của đối tượng quản lý: phòng, khoa, hệ, tiểu đoàn, lớp, các tập thể tổ, nhóm, ban của giáo viên và học viên. - Xây dựng cấu trúc tổ chức của chủ thể quản lý. Bao gồm hệ thống quản lý giáo dục của nhà trường, lựa chọn, thiết kế các kiểu cấu trúc quản lý sao cho phù hợp với đối tượng quản lý và có khả năng tác động đến hệ thống được quản lý nhằm bảo đảm thực hiện mục đích và nhiệm vụ được đề ra. - Tạo ra một mạng lưới quan hệ tổ chức (quan hệ phụ thuộc và phối hợp; quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm; phân cấp, phân quyền) trong hệ được quản lý và hệ quản lý, giữa hiệu trưởng, giáo viên, nhân viên và học viên..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Tuyển lựa, sắp xếp, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường và đội ngũ cán bộ kiêm chức của các lớp học viên, sao cho có khả năng thực hiện các nhiêm vụ, chức trách đã định. - Tổ chức một cách khoa học lao động của các tập thể trong nhà trường, bao gồm lao động dạy, lao động học, lao động quản lý, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sư phạm. Vấn đề sơ đẳng nhất, đồng thời cũng là vấn đề cơ bản nhất của công tác tổ chức là trả lời chính xác và rõ ràng các câu hỏi sau đây: làm gì, ai làm, làm lúc nào, với trách nhiệm và quyền hạn gì? b. Các kiểu cơ cấu tổ chức trong quản lý giáo dục - Kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến (đường thẳng) Kiểu cấu trúc trực tuyến nghĩa là người lãnh đạo thực hiện tất cả các chức năng quản lý, người thừa hành (bộ phận hay cá nhân) nhận và thực hiện mệnh lệnh trực tiếp của thủ trưởng. Ưu điểm: Thuận lợi cho việc thực hiện chế độ một thủ trưởng. Thông tin trực tiếp không bị sai lệch. Chỉ đạo nhanh và sâu sát thực tế. Nhược điểm: Đòi hỏi người chỉ huy phải có kiến thức sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực. Không tận dụng được đội ngũ chuyên gia có trình độ cao trên từng lĩnh vực. Dễ dẫn đến đến độc đoán, chuyên quyền trong quản lý. - Kiểu cấu trúc chức năng Dưới người lãnh đạo có các đơn vị chuyên môn (phòng, ban chức năng) làm nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị thực hiện quyết định của thủ trưởng và kiểm tra việc thực hiện đó. Mối liên hệ giữa các thành viên trong hệ thống rất phức tạp. Những người thừa hành nhiệm vụ ở cấp dưới không chỉ phải thi hành mệnh lệnh của người cao nhất, mà còn của những người lãnh đạo thuộc các cơ quan chức năng. Ưu điểm: Thu hút được các chuyên gia chuyên sâu trên từng mặt công tác. Giảm được áp lực công việc cho lãnh đạo cao nhất..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Nhược điểm: Mệnh lệnh của người chỉ huy phải qua cơ quan chức năng, đôi khi bị hiểu không đúng, không đầy đủ. Đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa lãnh đạo các cơ quan chức năng với người lãnh đạo cao nhất. Dễ sinh ra mệnh lệnh trái ngược nhau, làm cho cấp dưới khó xử lý. - Cơ cấu trực tuyến - chức năng. Đây là kiểu cơ cấu được áp dụng rộng rãi trong quản lý. Người lãnh đạo cao nhất được sự giúp đỡ của các bộ phận chức năng chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quyết định. Việc truyền lệnh đi theo tuyến. Nhưng quyền lực vẫn tập trung ở người chỉ huy cao nhất. Thí dụ: Cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ trưởng được cơ quan tham mưu giúp việc và chỉ đạo trực tuyến thông qua các thứ trưởng phụ trách về từng mặt. Ưu điểm: Cơ cấu này khắc phục được những nhược điểm của hai kiểu cơ cấu trên. Trong thực tế, các kiểu cơ cấu tổ chức quản lý trên đây không tách biệt nhau một cách rạch ròi. Chúng kết hợp, đan xen lẫn nhau, nhưng vẫn xoay quanh một cơ cấu chủ đạo giúp cho hệ thống vận hành có hiệu quả. - Tổ chức chính thức và không chính thức. Tổ chức chính thức là tổ chức có trong các văn bản pháp lý. Các mối quan hệ trong tổ chức chính thức được quy định rõ ràng. Quản lý bằng mệnh lệnh là chủ yếu. Tuy nhiên phải mềm dẻo để phát huy sức mạnh của các thành viên. Tổ chức không chính thức là tổ chức không có trong các văn bản pháp lý. Được hình thành trên cơ sở tự nguyện, sự đồng cảm về tâm lý, lứa tuổi, nghề nghiệp, sở thích. Người lãnh đạo không được bổ nhiệm mà được suy tôn. Quan hệ quản lý ở đây là quan hệ giao tiếp..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> - Cơ cấu ma trận. Do đòi hỏi của thực tiễn mà cơ cấu ma trận trong quản lý ngày càng phát triển. Đặc điểm của cơ cấu này là ngoài những người lãnh đạo theo tuyến và các bộ phận chức năng, còn có những người lãnh đạo đề án, phối hợp hoạt động của các bộ phận cùng thực hiện một chương trình nào đấy. Sau khi hoàn thành chương trình, những người tham gia thực hiện lại trở về đơn vị cũ của mình. Ưu điểm: Cơ cấu ma trận có tính năng động cao, tạo điều kiện cho việc sử dụng có hiệu quả năng lực của các chuyên gia. Đòi hỏi người lãnh đạo phải có trình độ sâu, rộng và có năng lực tổ chức tốt. Nhược điểm: Cơ cấu này chỉ thích hợp với các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn. Dễ sinh ra mất ổn định về tổ chức cho các đơn vị có chuyên gia đi làm nhiệm vụ. Đôi khi một bộ phận biên chế ở cơ quan này nhưng lại đồng thời vừa làm việc cho cơ quan khác. - Cơ cấu tổ chức của nhà trường quân đội thường được thực hiện theo kiểu cấu trúc chức năng, bao gồm: - Ban giám đốc, giám hiệu - Các cơ quan nghiệp vụ và Hội đồng tư vấn - Các khoa giáo viên - Các đơn vị học viên - Các đơn vị phục vụ c. Nguyên tắc xây dựng cơ cấu tổ chức trong quản lý giáo dục - Xác định cơ cấu tổ chức phải gắn với mục đích, mục tiêu và nội dung hoạt động của hệ thống. Tùy theo mục tiêu hoạt động và tổ chức hệ thống. Mục tiêu của hệ thống càng lớn thì cơ cấu tổ chức càng lớn, và ngược lại. Cơ cấu tổ chức còn phụ thuộc vào tính chất, nội dung công việc cụ thể. Tùy theo công việc mà cơ cấu tổ chức cho thích hợp. M --> N --> CCTC.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> - Xây dựng cơ cấu tổ chức phải đảm bảo nguyên tắc chuyên môn hóa và cân đối. Bố trí cán bộ phải đúng chuyên môn được đào tạo. Phân công nhiệm vụ cho các nhóm tổ chức phải cân đối để vừa sức và phát huy được năng lực của mọi cá nhân tổ chức. Phải cân đối cả trách nhiệm và quyền lợi. Tránh tình trạng tập trung quyền lực vào một số bộ phận nào đó. Hoặc quá nhấn mạnh trách nhiệm mà không chú trọng quyền lợi. - Xây dựng cơ cấu tổ chức phải đảm bảo nguyên tắc chuẩn hóa. Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa là một giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo. Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, nhân viên. Tất cả các thành viên phải được xem xét bố trí công việc khi đạt được các chuẩn theo quy định. Các tổ chức phải được chuẩn hóa về số lượng, chất lượng, cơ cấu. Đồng thời chuẩn hóa về cơ chế hoạt động. - Xây dựng cơ cấu tổ chức phải phù hợp với tầm quản lý của cán bộ quản lý. Tầm quản lý (span of management) là giới hạn quản lý mà người quản lý có thể giám sát có hiệu quả. Có tầm quản lý rộng, tầm quản lý hẹp. Không có giới hạn chung cứng nhắc về tầm quản lý. Tùy theo điều kiện cụ thể mà xác định tầm quản lý cho thích hợp. 3. Chức năng điều khiển, chỉ đạo thực hiện Sau khi hoạch định kế hoạch và sắp xếp tổ chức, người cán bộ quản lý phải điều khiển, chỉ đạo cho hệ thống hoạt động theo đúng kế hoạch nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Chức năng điều khiển có các nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Ra các quyết định quản lý và tổ chức chỉ đạo các lực lượng trong tổ chức thực hiện các quyết định đó. - Đưa ra những biện pháp tác động quản lý kích thích, khuyến khích, tạo động cơ (moti-vation), tích cực hoá (activiation) hoạt động của cả hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> - Lựa chọn các phương tiện và các hình thức tác động đến hệ thống các nhân tố của hành vi con người, khuyến khích về vật chất cũng như tinh thần đối với mọi thành viên của tập thể, khiến họ thực hiện và giải quyết sáng tạo các nhiệm vụ giáo dục, giảng dạy, học tập, rèn luyện, cũng xây dựng và phát triển nhà trường. Nhân tố cơ bản của hành vi con người, và cũng là đòn bẩy để quản lý con người là những nhu cầu của con người. Vì vậy, việc đưa ra các quyết định quản lý và những biện pháp tác động lên đối tượng quản lý phải nghiên cứu, quan tâm, chú ý đến và xây dựng nhu cầu như là những nhân tố của hành vi con người. 4. Chức năng kiểm tra Kiểm tra là chức năng xuyên suốt trong quá trình quản lý và là chức năng của mọi cấp quản lý, bao gồm từ việc xác định các tiêu chí thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, đo đạc việc thực hiện và điều chỉnh các sai lệch nhằm làm cho toàn bộ hệ thống quản lý đạt mục tiêu đã định. Kiểm tra là hoạt động kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích, tổng kết. Kiểm tra bao gồm các nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Quan sát và xét lại xem tiến trình thực tế của quá trình sư phạm cũng như của toàn bộ hoạt động của hệ thống (nhà trường) có phù hợp với các quyết định quản lý, phù hợp với kế hoạch chương trình, chuẩn mực, quy tắc, chế độ, công nghệ,… đã được đề ra không. - Thu nhập, hệ thống hoá, phân tích, đánh giá các kết quả thực tế của tác động quản lý đến các tiểu hệ thống, đến các thành viên trong hệ thống đó. - Phát hiện những sai lệch của các hoạt động quản lý, của quá trình sư phạm và hoạt động của nhà trường so với các yêu cầu của các quyết định quản lý, chỉ ra các nguyên nhân gây nên những sai sót đó, để làm cơ sở cho các quyết định các biện pháp nhằm khắc phục các sai lệch nói trên. Đặc điểm của chức năng kiểm tra trong công tác quản lý giáo dục là vạch ra và khắc phục kịp thời những yếu kém trong quá trình sư phạm và trong hoạt động của tổ chức, đồng thời phát hiện và phổ biến các kinh nghiệm tiên tiến về quản lý..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Các chức năng cơ bản nói trên, trên thực tế tồn tại xen kẽ nhau và đòi hỏi phải được phối hợp và thống nhất. Hoạt động hợp nhất các chức năng đó chính là hoạt động lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo đôi khi được coi như là một chức năng độc lập. Để thực hiện các chức năng quản lý đó cần thiết phải có các thông tin về quá trình sư phạm, về các hoạt động trong nhà trường, về tình hình phát triển giáo dục. Không có thông tin thì không thể tiến hành kế hoạch hoá, tổ chức, kích thích, điều chỉnh, phối hợp. Vì vậy quá trình thực hiện các chức năng quản lý cần phải coi trọng việc thu thập thông tin, phải gắn chặt việc thu thập thông tin với các hoạt động kiểm tra và tự kiểm tra. II . CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Khái niệm về nguyên tắc quản lý giáo dục Nguyên tắc quản lý giáo dục là những luận điểm cơ bản phản ánh các yêu cầu và tiêu chuẩn trong hoạt động quản lý, có vai trò chỉ dẫn hành động của chủ thể và đối tượng quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, nội dung và mục tiêu quản lý đã xác định. Nguyên tắc quản lý giáo dục được xác định, hình thành từ các quy luật, nhân tố khách quan của quá trình quản lý và nó phản ánh các mặt, mối liên hệ tất yếu, cơ bản, bền vững (các quy luật) của quá trình quản lý. Nguyên tắc quản lý giáo dục có vai trò chỉ dẫn toàn bộ tiến trình quản lý; Nguyên tắc quản lý giáo dục, là những luận điểm cơ bản, được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển sự nghiệp giáo dục. Có nhiều cách phân chia các nguyên tắc khác nhau. Phân chia theo nhóm, ta có các nhóm nguyên tắc như sau: Nhóm thứ nhất: Những nguyên tắc chính trị - xã hội. Nhóm nguyên tắc này bao gồm các nguyên tắc cụ thể như sau: - Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp - Nguyên tắc kết hợp Nhà nước và nhân dân.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> - Nguyên tắc tập trung dân chủ - Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Đây là những nguyên tắc chung, biểu thị những đặc điểm chính trị, biểu thị tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động quản lý giáo dục. Phản ánh các quy luật, các quan hệ, các quá trình khách quan của giáo dục và quản lý giáo dục. Nhóm nguyên tắc thứ hai: Những nguyên tắc tổ chức quản lý giáo dục. Nhóm nguyên tắc này bao gồm các nguyên tắc cụ thể như sau: - Nguyên tắc thống nhất trong hệ thống quản lý - Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ - Nguyên tắc kết hợp tập thể, cá nhân, chế độ thủ trưởng - Nguyên tắc tổ chức quản lý cán bộ. Những nguyên tắc này phản ánh việc tổ chức của chủ thể quản lý giáo dục. Tức là phản ánh sự tổ chức bên trong của chủ thể quản lý, đồng thời sự tổ chức các tác động quản lý của chủ thể. Đó là các nguyên tắc xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục ở tất cả các cấp quản lý. Nhóm thứ ba: Những nguyên tắc về hoạt động quản lý giáo dục. Nhóm nguyên tắc này bao gồm các nguyên tắc cụ thể như sau: - Nguyên tắc hiệu quả quản lý - Nguyên tắc kết hợp các lợi ích. - Nguyên tắc chuyên môn hoá - Nguyên tắc phối hợp các phương pháp quản lý. Những nguyên tắc này phản ánh hoạt động quản lý của toàn bộ bộ máy quản lý cũng như của từng cán bộ quản lý giáo dục. Các nguyên tắc này đều có quan hệ, tác động lẫn nhau. Chúng đề cập đến việc tổ chức cụ thể hoạt động quản lý hay là lao động quản lý của cơ quan hay cán bộ quản lý giáo dục. Các nhà trường quân sự thường chia theo các nguyên tắc quản lý giáo dục cụ thể như sau: - Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> - Nguyên tắc tập trung dân chủ - Nguyên tắc kế hoạch hoá - Nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả - Nguyên tắc chuyên môn hóa Các nguyên tắc quản lý giáo dục là một thể thống nhất biện chứng, luôn quan hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ và chế ước lẫn nhau trong quá trình quản lý. Mỗi nguyên tắc phản ánh, chi đạo những mặt, khía cạnh khác nhau của hoạt động quản lý vốn dĩ đa dạng và phức tạp. Việc thực hiện có hiệu quả hoặc kém hiệu quả một nguyên tắc nào đó sẽ tác động hỗ trợ, thúc đẩy hoặc kìm chế đến nguyên tắc khác, ảnh hưởng chung đến sự tiến triển chất lượng quá trình quản lý giáo dục.. Nhóm 1: Những nguyên tắc chính trị - xã hội. Nhóm 2: Những nguyên tắc tổ chức QL giáo dục. Nhóm 3: Những nguyên tắc về hoạt động quản lý giáo dục. - Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp - Nguyên tắc kết hợp Nhà nước và nhân dân - Nguyên tắc tập trung dân chủ - Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Nguyên tắc thống nhất trong hệ thống QL - Nguyên tắc kết hợp QL theo ngành và lãnh thổ - Nguyên tắc kết hợp tập thể, cá nhân, chế độ thủ trưởng - Nguyên tắc tổ chức quản lý cán bộ. - Nguyên tắc hiệu quả quản lý - Nguyên tắc kết hợp các lợi ích. - Nguyên tắc chuyên môn hoá - Nguyên tắc phối hợp các phương pháp QL.. 2. Nội dung và yêu cầu của các nguyên tắc quản lý giáo dục a. Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp trong quản lý giáo dục.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> - Đây là nguyên tắc cơ bản, chủ đạo trong hệ thống nguyên tắc quản lý giáo dục, có vai trò định hướng tư tưởng, quan điểm chính trị cho toàn bộ quá trình quản lý giáo dục và chỉ đạo đối với các nguyên tắc khác. Tính Đảng, tính giai cấp trong quản lý giáo dục là cơ sở xác định phương hướng tư tưởng và mục đích chính trị của hoạt động quản lý giáo dục. Nội dung nguyên tắc phản ánh sự phụ thuộc khách quan của hoạt động quản lý giáo dục vào sự lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật nhà nước, nhiệm vụ, … và phản ánh thực tiễn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến Đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với mọi hoạt động quản lý giáo dục đào tạo Thực chất nguyên tắc này là đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện và mọi mặt của Đảng cộng sản Việt Nam, và của các cấp ủy Đảng đối với toàn bộ hoạt động quản lý giáo dục. - Tính Đảng, tính giai cấp trong hoạt động quản lý giáo dục thể hiện ở chỗ: mọi hoạt động quản lý giáo dục , từ xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch, chương trình nội dung, lựa chọn và sử dụng các hình thức, phương pháp quản lý đều phải đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp, theo đúng định hướng trong các nghị quyết của Đảng về giáo dục đào tạo. Như vậy theo tinh thần trên, các chủ trương, chính sách và các quyết định của chủ thể quản lý giáo dục phải xuất phát từ đường lối của Đảng, đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa, gắn chặt với sự phát triển của xã hội và theo đúng định hướng phát triển trong thời kì mới. Đồng thời hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục, chống và đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục . Nguyên tắc tính Đảng, tính giai cấp trong quản lý giáo dục phản ánh sự thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng với hành động của các chủ thể quản lý. Biểu hiện ở chỗ: Các cơ sở giáo dục phải có những biện pháp và hình thức quản lý giáo dục thích hợp, thực hiện hiệu quả đường lối chính sách, nghị quyết về giáo dục đào tạo, nguồn nhân lực bậc cao của Đảng..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách trong quản lý giáo dục, tổ chức Đảng các cấp cần ra nghị quyết lãnh đạo, thông qua các nguyên tắc, chế độ, quy định của tổ chức Đảng đối với hoạt động quản lý giáo dục. Còn hệ thống chỉ huy quản lý giáo dục sử dụng biện pháp hành chính - pháp luật thông qua các chỉ thị, mệnh lệnh, quy phạm pháp luật, điều luật, quy tắc…để thực hiện đường lối, nghị quyết của tổ chức Đảng, vì lợi ích của tổ chức giáo dục. Do đó thực hiện nguyên tắc này, không chỉ là sự quán triệt quan điểm và hành động chính trị trong quản lý giáo dục, mà còn là biện pháp, hình thức thực hiện quan điểm chính trị đó. Ví dụ: tổ chức, quản lý việc tuyển sinh, thi cử, cấp văn bằng chứng chỉ…như thế nào để quán triệt, thực hiện có hiệu quả quan điểm, chủ trương, chỉ tiêu phát triển giáo dục đào tạo được xác định trong Nghị quyết Đảng uỷ nhà trường. Yêu cầu: - Mọi hoạt động quản lý giáo dục đều phải mang tính Đảng sâu sắc; - Trong hoạt động quản lý giáo dục phải quán triệt sâu sắc và thực hiện theo quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, nhiệm vụ giáo dục trong từng giai đoạn cách mạng, từng năm học, khoá học. - Đồng thời phải lấy hiến pháp, pháp luật nhà nước và các quy chế, quy định của Bộ giáo dục đào tạo và Bộ chủ quản làm điểm tựa xuất phát và làm tiêu chí để xem xét, đánh giá hiệu quả công tác quản lý giáo dục. - Quán triệt và thực hiện tốt các yêu cầu trên, đảm bảo cho quá trình quản lý giáo dục vận hành, phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho hoạt động quản lý giáo dục phát triển phù hợp, thống nhất với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cách mạng. b. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục Cơ sở xác định nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục, là từ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta và bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Hiến pháp nước ta ghi rõ: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”5 Quan hệ giữa dân chủ và tập trung là quan hệ thống nhất biện chứng. Điều này đã được Lênin chỉ rõ: “sự thống nhất trong những vấn đề cơ bản, chủ yếu, lại được bảo đảm bằng nhiều vẻ trong nhiều chi tiết, trong những đặc điểm riêng biệt, trong cách tiếp cận vấn đề, trong những biện pháp” 6. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Phải dân chủ rộng rãi dưới sự lãnh đạo tập trung và tập trung đúng mức trên nền tảng dân chủ rộng rãi”7 Tiếp cận dưới góc độ khoa học quản lý, về thực chất nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục chỉ rõ sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong quản lý giáo dục. Mặt thứ nhất, đòi hỏi phải tăng cường quản lý tập trung để quyết định những vấn đề trọng yếu trong giáo dục, tạo sự thống nhất, phục tùng ý chí của lãnh đạo, chỉ huy quản lý các cấp. Tập trung trong quản lý giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động của chủ thể quản lý, ngăn chặn khuynh hướng vô chính phủ, cục bộ bản vị, chỉ thấy lợi ích trước mắt, lợi ích của cá nhân, bộ phận mà không thấy lợi ích chung. Tập trung trong quản lý, đảm bảo cho quá trình giáo dục có chất lượng, hoạt động theo những tiêu chí đã xác định, phát triển đúng hướng, đúng quy luật vận động phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo . Mặt thứ hai, đòi hỏi phải phát huy, mở rộng tối đa quyền dân chủ và tính chủ động cao của các bộ phận, đơn vị, cá nhân trong quản lý giáo dục, sẽ giải. 5 6. 7. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 15. V. I. Lênin: Bàn về tổ chức và quản lí nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 179 Bác Hồ với nhân dân Hà Nội, Hà Nội, 1980, tr. 100.. ..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> phóng năng lực tiềm ẩn của các chủ thể quản lý, làm tăng hiệu quả các nguồn lực trong giáo dục đào tạo. Thuật ngữ “dân chủ” trong quản lý giáo dục cần được hiểu: Sự nghiệp giáo dục đào tạo là của mọi thành viên, mọi biểu hiện thiếu trách nhiệm trong quản lý, thực hiện nhiệm vụ của từng thành viên đều trực tiếp ảnh hưởng chất lượng quản lý giáo dục và sản phẩm giáo dục. Yêu cầu - Trong mọi hoạt động quản lý giáo dục phải kết hợp chặt chẽ giữa tập trung và dân chủ; nghiêm túc thực hiện “Tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm” nhằm phát huy cao độ vai trò người chỉ huy, chủ thể quản lý các cấp với phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, bằng dân chủ bàn bạc và tính chủ động cao trong thực hiện nhiệm vụ. - Thấy rõ sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt trong công tác quản lý: Tập trung phải trên cơ sở dân chủ; dân chủ phải dẫn đến tập trung, từ đó tìm biện pháp thực hiện tốt từng mặt. - Cần quy định rõ trách nhiệm cá nhân người chỉ huy, lãnh đạo các cấp, nhất là quá trình chuẩn bị và ra các quyết định quản lý. Lãnh đạo tập thể để phát huy tính chủ động, sáng tạo và trí tuệ tập thể; song nó không giảm nhẹ trách nhiệm cá nhân từng thành viên trong tập thể đó. Không nên tách rời, xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá từng mặt, vì dễ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán cá nhân, hoặc dân chủ hình thức, tự do quá trớn, vô chính phủ, thụ động…dẫn đến kém hiệu quả, trực tiếp làm giảm sút chất lượng sản phẩm đào tạo của nhà trường đại học quân sự v.v… c. Nguyên tắc kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục Cơ sở khoa học của nguyên tắc kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục là lý luận của khoa học quản lý, chức năng kế hoạch hoá và thực tiễn quản lý giáo dục đào tạo..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Tư tưởng chính của nguyên tắc kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục chỉ rõ: Mọi hoạt động của các chủ thể quản lý giáo dục chỉ có thể đạt chất lượng, hiệu quả khi các hoạt động đó luôn đảm bảo tính kế hoạch cao; tức là quản lý bằng kế hoạch và thông qua kế hoạch để quản lý quá trình giáo dục đào tạo. Nguyên tắc kế hoạch hoá trong hoạt động quản lý biểu hiện ở chỗ: Mọi hành động thực tiễn trong quản lý giáo dục đào tạo của chủ thể phải xây dựng thành kế hoạch chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ và dựa vào kế hoạch đó để quản lý con người và công việc. Đồng thời tiến hành triển khai tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch đã xây dựng, phê duyệt. Ví dụ như: kế hoạch dài hạn (chiến lược đào tạo), kế hoạch tuyển sinh, kế hoạch khoá học, năm học, kế hoach bồi dưỡng giáo viên, kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học, kế hoạch xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và thiết bị trường học v.v. Quản lý giáo dục là một quá trình, lĩnh vực phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động, loại hình công việc; muốn đạt hiệu quả cao trong những công việc cụ thể, cần có sự phối hợp nhiều lực lượng tham gia. Vì vậy, để hoạt động quản lí giáo dục đạt chất lượng cao, vận động, phát triển đồng bộ, thống nhất, phù hợp với quy luật giáo dục, thì tính kế hoạch hoá trong hoạt động quản lý phải được đảm bảo. Kế hoạch hoá trong quản lý giáo dục là một tất yếu; nó không chỉ là chức năng, mà còn là một luận điểm (nguyên tắc) cơ bản trong hoạt động quản lý giáo dục. Yêu cầu: -Trên cơ sở nhiệm vụ giáo dục đào tạo, tiến hành xây dựng các kế hoạch hành động cụ thể, tỉ mỉ…trình cấp trên phê duyệt; chủ thể quản lý dựa vào đó thực thi nhiệm vụ quản lý, tránh hành động tự do, tuỳ tiện. Yêu cầu trong triển khai xây dựng kế hoạch phải phù hợp với các quy luật giáo dục; nhất là việc xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp, hình thức giáo dục. Kế hoạch xây dựng phải thống nhất, chặt chẽ, từ dưới lên và từ trên xuống. Kế hoạch nhỏ, ngắn hạn phải phục vụ cho hoàn thành kế hoạch lớn, dài hạn; đồng.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> thời kế hoạch lớn, dài hạn phải được triển khai thành nhiều kế hoạch nhỏ, ngắn hạn. Trong kế hoạch quản lý giáo dục cần phân công, phân cấp và giao nhiệm vụ rõ ràng đến từng bộ phận, từng cá nhân, từ nội dung công việc đến thời gian hoàn thành và yêu cầu đạt được. Đồng thời xác định sự phối hợp hoạt động giữa các bộ phận, cơ quan chức năng để kế hoạch quản lý được thực hiện đồng bộ, nhịp nhàng đúng tiến trình. Trong tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, cần huy động, điều hành và động viên nguồn nhân lực tiến hành có hiệu quả công việc theo kế hoạch đã phê duyệt Thường xuyên kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch hoạt động của từng cá nhân, bộ phận, kịp thời phát hiện và điều chỉnh những sai sót, thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra v.v… d. Nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả trong quản lý giáo dục Đây là nguyên tắc phù hợp với bản chất và mục tiêu quản lý. Cơ sở xác định nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả trong quản lý giáo dục là lý luận về khoa học quản lý và thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục. Bởi vì quản lý giáo dục là một khoa học, do vậy cần dựa trên cơ sở các khoa học chuyên ngành, liên ngành và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào quá trình quản lý, tạo ra hiệu quả giáo dục, hiệu quả xã hội và hiệu quả cao của bản thân hoạt động quản lý. Có thể nói, tính khoa học và hiệu quả là thước đo năng lực của chủ thể quản lý giáo dục. Thực chất nội dung nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả trong quản lý giáo dục chỉ rõ: Chất lượng quá trình quản lý giáo dục, phụ thuộc vào chủ thể quản lý vận dụng hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ trong hoạt động quản lý; và trong điều kiện nguồn lực nhất định, với thời gian cho phép chủ thể quản lý có thể tạo ra nhiều kết quả có chất lượng, đạt mục tiêu giáo dục, mục tiêu quản lý như mong muốn. Nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả trong quản lý giáo dục có quan hệ chặt chẽ (quan hệ nhân quả) với chất lượng, kết quả quản lý. Có thể một hoạt động.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> quản lý nào đó được coi là có kết quả, nhưng chưa chắc đã có hiệu quả, bởi tiêu tốn nhiều sức lực của nhà quản lý. Để vận dụng, quán triệt nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và hiệu quả trong quản lý giáo dục cần thực hiện có hiệu quả các yêu cầu như: Mọi hoạt động quản lý giáo dục muốn đạt chất lượng cao, phải dựa trên cơ sở quy luật khách quan của quá trình giáo dục và các thành tựu khoa học công nghệ. Ví dụ như: Khoa học Mác – Lênin giúp chủ thể quản lý có cơ sở phương pháp luận khoa học trong tiến hành hoạt động quản lý. Còn khoa học tâm lí như: tâm lí học lãnh đạo, tâm lí học sư phạm, tâm lí học xã hội…cung cấp những quy luật giúp chủ thể quản lý xử lí đúng đắn mối quan hệ người - người trong hoạt động quản lý giáo dục. Trong hoạt động quản lý giáo dục để tính khoa học và hiệu quả được đảm bảo, đòi hỏi chủ thể quản lý cần nắm vững khoa học giáo dục và quản lý giáo dục, vì chúng chính là công cụ, cơ sở lí luận trực tiếp trong hành động của họ. Ngoài ra chủ thể quản lý còn phải nắm vững, vận dụng các thành tựu của khoa học về tổ chức, điều khiển học, vận trù học v.v… Mặt khác, cần tăng cường sử dụng công nghệ thông tin vào các khâu, các hoạt động của quá trình quản lý giáo dục như: quản lý hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, xây dựng kế hoạch dạy học cho các khóa, đối tượng đào tạo, đánh giá và quản lý kết quả đào tạo v.v…Bởi vì, ngày nay công nghệ thông tin đã và đang trở thành công cụ thường xuyên trong mọi hoạt động của con người, do đó để giảm sức lao động, tăng hiệu quả hoạt động quản lý giáo dục, thì tăng cường sử dụng công nghệ thông tin là yêu cầu trọng yếu. Đồng thời yêu cầu cán bộ quản lý các cấp phải nắm vững nội dung nguyên tắc, diễn biến tình hình của đối tượng quản lý, có biện pháp sáng tạo, phù hợp với thực tiễn; có tầm nhìn xa và rộng trong hoạt động quản lý giáo dục. Trong hoạt động quản lý cần tránh nhìn sự vật và sự phát triển của nó một cách thiển cận, chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục, chỉ thấy trước mắt mà không thấy lâu dài, phải trên quan điểm toàn diện, tổng thể để thấy rõ tác động dây chuyền của hoạt.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> động quản lí. Bên cạnh đó cần hiểu rõ đặc trưng của giáo dục, một hoạt động mà kết quả của nó xuất hiện sau một thời gian nhất định , từ đó tìm biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lí giáo dục v.v… e. Nguyên tắc chuyên môn hóa trong quản lý giáo dục Cơ sở xác định nguyên tắc chuyên môn hoá trong quản lý giáo dục là mục tiêu, chức năng, sự đòi hỏi cao về chất lượng quản lý giáo dục và sản phẩm giáo dục. Tư tưởng chính của nguyên tắc chỉ rõ: Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý giáo dục cần phải chuyên môn hoá mọi hoạt động, lĩnh vực quản lý và tiến hành quản lý giáo dục theo chất lượng chuyên môn của đối tượng quản lý. Hoạt động quản lý giáo dục phải được thực hiện bởi những người có chuyên môn và kinh nghiệm, được đào tạo kĩ năng nghề nghiệp theo đúng vị trí trong guồng máy của hệ thống quản lý; do đó chủ thể quản lý cần căn cứ vào chất lượng hoạt động chuyên môn của đối tượng quản lý để quản lý họ thì mới có kết quả. Quản lý giáo dục là hoạt động phức tạp, với nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau như: hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học của các bộ môn ở khoa giáo viên, các đơn vị quản lý học viên và cơ quan chức năng. Trong các cơ quan chức năng cũng có những tính chất chuyên môn riêng biệt. Do đó cần chuyên môn hoá từng lĩnh vực; tính chuyên môn hoá càng cao, chuyên sâu, thì trách nhiệm cá nhân, hiệu quả quản lý quá trình giáo dục càng lớn. Quản lý theo chuyên môn nghĩa là, căn cứ vào kết quả hoạt động chuyên môn và chất lượng công việc của từng con người cụ thể để để quản lý họ. Thực tiễn quản lý giáo dục cho thấy: càng phân định rõ ràng, cụ thể chức năng, yêu cầu và tính chất nhiệm vụ chuyên môn của đối tượng quản lý; càng hiểu rõ chất lượng công việc của từng trợ lý nghiệp vụ, ngành…bao nhiêu, thì chất lượng, hiệu quả quản lý càng cao. Ngược lại, nếu tính chuyên môn hoá thấp; kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ các cấp còn hạn chế; trình độ chuyên môn của nhân viên nghiệp vụ ở các cơ quan chức năng thấp và sử dụng cán bộ không đúng chuyên môn được đào tạo…là.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong guồng máy và chất lượng hiệu quả quản lý giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm giáo dục. Để vận dụng, quán triệt nguyên tắc đảm bảo chuyên môn hoá trong quản lý giáo dục cần thực hiện có hiệu quả yêu cầu như: Chuyên môn hoá cao độ mọi lĩnh vực hoạt động quản lý giáo dục; thường xuyên đặt ra yêu cầu, tiêu chí phấn đấu về trình độ cho từng lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ của các chủ thể quản lý. Kết hợp chặt chẽ, hài hoà việc quản lý con người (quản lý hành chính) với quản lý theo chất lượng, hiệu quả công việc, tránh tuyệt đối hoá từng mặt trong hành động quản lý. Thường xuyên quan tâm bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục theo hệ thống chương trình nhất định; tạo điều kiện cho họ nâng cao trình độ nghiệp vụ, chất lượng công việc, hoàn thành nhiệm vụ chức trách được giao. Chủ thể quản lý giáo dục cần phải có trình độ hiểu biết nhất định về khoa học giáo dục và kinh nghiệm giảng dạy, giáo dục. Bởi lẽ, sự ít am hiểu về khoa học giáo dục, nhất là những kiến thức của khoa học sư phạm như: lý luận dạy học, lý luận giáo dục và kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục…là nguyên nhân dẫn đến kém hiệu quả trong công tác quản lý và tự làm mất uy tín của mình, góp phần trực tiếp làm giảm chất lượng giáo dục. Vì thế, nguyên tắc chuyên môn hoá trong quản lý giáo dục là một luận điểm cơ bản quan trọng, việc quán triệt và vận dụng các yêu cầu trên là đòi hỏi trọng yếu nhằm đem lại chất lượng, hiệu quả cao trong hành động thực tiễn của chủ thể quản lý giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục. Tóm lại, các nguyên tắc quản lý giáo dục được trình bày, phân tích trên là một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa các mặt, các nhân tố và phạm trù cơ bản của quá trình quản lý, tạo nên hệ thống yêu cầu, tiêu chuẩn, chỉ dẫn và định hướng cho hoạt động quản lý giáo dục. Các nguyên tắc quản lý giáo dục trên vừa phản ánh góc độ chính trị - xã hội, góc độ tổ chức và hoạt động thực tiễn của quá trình.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> quản lý giáo dục. Do đó trong thực tiễn, chủ thể quản lý phải biết vận dụng khéo léo và phối hợp hài hòa các nguyên tắc để quá trình quản lý vận hành, phát triển đúng quy luật và mục tiêu xác định. III . CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Khái niệm và cơ sở khoa học của phương pháp quản lý giáo dục a. Khái niệm về phương pháp quản lý giáo dục Phương pháp quản lý giáo dục là hệ thống những cách thức, biện pháp tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, nội dung và mục tiêu quản lý đã xác định. Hệ thống quản lý giáo dục luôn tồn tại ở hai trạng thái: trạng thái tĩnh (cơ cấu bộ máy và các cơ chế, thể chế quản lý giáo dục v.v…) và trạng thái động thể hiện trong quá trình quản lý giáo dục. Trong đó quá trình quản lý giáo dục (hệ thống quản lý ở trạng thái động) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động quản lý giáo dục. Nếu phương pháp luận quản lý giáo dục là cơ sở định hướng cho hoạt động quản lý, cơ cấu quản lý giáo dục (hệ thống quản lý ở trạng thái tĩnh) đặc trưng cho trình độ tổ chức, thì quá trình quản lý giáo dục đặc trưng cho đời sống thực của hoạt động quản lý, điều này lại do phương pháp quản lý giáo dục quyết định. Do đó có thể nói, phương pháp quản lý là nhân tố năng động nhất trong quá trình quản lý; nó là nhân tố làm biến đổi hệ quản lý từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Nó luôn phải thích nghi với những biến đổi bên trong (thay đổi quy mô tổ chức giáo dục, thay đổi quy mô và chất lượng đội ngũ giáo viên…) và bên ngoài hệ thống giáo dục như: tiến bộ khoa học kĩ thuật, môi trường kinh tế - xã hội, môi trường văn hoá giáo dục v.v… b. Cơ sở khoa học của phương pháp quản lý giáo dục Cơ sở khoa học của các phương pháp quản lý giáo dục bắt nguồn từ mục đích, bản chất hoạt động quản lý giáo dục, trực tiếp là từ những nguyên tắc quản lý giáo dục. Đồng thời nó được đúc rút, khái quát từ thực tiễn, kinh nghiệm quản lý giáo dục tiên tiến. Trình độ hoàn thiện và hiệu quả của các phương pháp quản lý.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> giáo dục phụ thuộc vào mức độ phù hợp của chúng đối với những cơ sở khoa học giáo dục, những nguyên tắc quản lý giáo dục và trình độ phát triển của các tổ chức trong bộ máy quản lý giáo dục. Vì vậy, phương pháp quản lý giáo dục tồn tại khách quan, nó đem lại hiệu quả cao trong thực tiễn quản lý giáo dục; song việc sử dụng nó không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể quản lý. Vấn đề là sử dụng, lựa chọn và phối hợp chúng như thế nào trong số các phương pháp quản lý cho phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng quản lý cụ thể nhằm đạt mục tiêu của tổ chức, điều đó tùy thuộc vào trình độ, nghệ thuật của chủ thể quản lý và chứa đựng dấu ấn chủ quan của họ. Có nhiều ví dụ cho thấy nếu chỉ có mục tiêu, mặc dù mục tiêu tốt đẹp đến đâu mà không có phương pháp tốt và sử dụng không phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng cụ thể thì mục tiêu cũng chỉ là điều mơ ước. 2. Các phương pháp quản lý giáo dục a. Phương pháp hành chính - pháp luật. Phương pháp hành chính - pháp luật là hệ thống những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực nhà nước, nhằm thực hiện có hiệu quả các nội dung và mục tiêu quản lý giáo dục đã xác định. Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính - pháp luật trong quản lí giáo dục là sự cưỡng bức đơn phương của chủ thể quản lý; một bên ra quyết định, một bên phục tùng. Do đó quan hệ ở đây là quan hệ giữa quyền uy và phục tùng, giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ giữa cá nhân và tổ chức. Cấp trên ra lệnh, ban hành các quyết định quản lý, cấp dưới phải chấp hành, phục tùng và tuân theo. Có nhiều hình thức thực hiện phương pháp hành chính - pháp luật, đó là: luật (Luật Giáo dục) điều lệ (Điều lệ công tác nhà trường), quy chế (quy chế tổ chức và hoạt động giáo dục đào tạo của các trường), nghị quyết, quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh và các văn bản hành chính v.v….

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Phương pháp hành chính - pháp luật được sử dụng nhằm hai mục đích: tổ chức và điều chỉnh. Mục đích thứ nhất, chủ thể quản lý ban hành các văn bản pháp quy để quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức, các bộ phận trong tổ chức. Ví dụ, điều lệ công tác nhà trường quy định mục đích, mục tiêu, quy mô, cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động của các bộ phận trong nhà trường như: phòng, khoa, ban, các đơn vị học viên; vai trò, nhiệm vụ của giáo viên, học viên, cán bộ công nhân viên; trách nhiệm, quyền hạn của hiệu trưởng nhà trường. Quy định quan hệ hoạt động trong nội bộ cũng như các đối tượng quản lý với chủ thể khác ngoài nhà trường như: quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo…với hoạt động của các nhà trường. Mục đích thứ hai, chủ thể quản lý thông qua các hình thức như: chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ theo phương hướng nhất định, nhằm đảm bảo sự đúng hướng và phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Ví dụ như chỉ thị về tuyển sinh nhằm tuyển chọn được những người ưu tú và chấn chỉnh uốn nắn những thiếu sót, làm giảm uy tín của nhà trường v.v... Yêu cầu: Để sử dụng có hiệu quả phương pháp hành chính - pháp luật trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý cần thực hiện tốt yêu cầu cơ bản như: - Xác định rõ căn cứ khoa học của các quyết định quản lý giáo dục liên quan đến hoạt động của chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý; - Cân nhắc đầy đủ lợi ích của các bộ phận, lực lượng có liên quan khi thực hiện quyết định quản lý, tránh một chiều và nhất là thiếu khách quan, chỉ nghĩ đến lợi ích của chủ thể quản lý, bộ phận mà không vì lợi ích chung. - Nắm vững thực trạng đối tượng quản lý, bảo đảm có những thông tin đầy đủ về vấn đề liên quan đến quyết định quản lý..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> - Quyết định quản lý phải rõ ràng, dứt khoát, dễ hiểu, có địa chỉ người, bộ phận thực hiện, thời gian bắt đầu có hiệu lực và phải gắn chặt với quyền hạn, trách nhiệm của người ra quyết định v.v… - Cần chú ý khắc phục nhược điểm của phương pháp này, đó là dễ xuất hiện tình trạng hành chính quan liêu, nặng giấy tờ, quyết định không đủ căn cứ, thiếu thông tin cần thiết, gây tổn thất không nhỏ cho tổ chức…từ đó xuất hiện những người lãnh đạo lạm dụng quyền hành, nhưng lại trốn tránh trách nhiệm trước tổ chức. b. Phương pháp giáo dục - tâm lý Phương pháp giáo dục - tâm lý là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý lên nhận thức, trí tuệ, tình cảm, ý thức và nhân cách của đối tượng quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả các nội dung và mục tiêu quản lý đã xác định. Cơ sở khách quan của phương pháp giáo dục - tâm lý là các quy luật nhận thức - tư duy, các quan hệ và quy luật tâm lý - giáo dục - xã hội. Hoạt động quản lý giáo dục diễn ra trong môi trường giáo dục, vì thế phương pháp giáo dục - tâm lý rất phù hợp và được sử dụng nhiều. - Thực chất của phương pháp này, là thông qua những mối quan hệ liên nhân cách để tác động đến đối tượng quản lý, nhằm cung cấp, trang bị kiến thức, hình thành những quan điểm đúng đắn, nâng cao khả năng, trình độ thực hiện nhiệm vụ của họ. Đồng thời chuẩn bị tư tưởng, tình cảm, ý thức trách nhiệm, lòng kiên trì và tinh thần tự giác, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng quản lý, tạo không khí lành mạnh trong tổ chức, các bộ phận khi thực hiện nhiệm vụ. Mục đích sử dụng phương pháp giáo dục - tâm lý, là nhằm tác động vào nhận thức của đối tượng quản lý bằng lý lẽ, làm cho họ nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu cầu của chủ thể quản lý; từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu đó..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Bởi vì nhận thức là cơ sở của thái độ và hành vi, nhận thức đúng sẽ có thái độ, hành vi đúng; và có thể làm cho con người thay đổi nhận thức bằng các tác động nhẹ nhàng, vì bản chất con người là tốt, không ưa sự cưỡng bức về tư tưởng và những tác động nặng nề. Trong quản lý giáo dục, phương pháp giáo dục - tâm lý được sử dụng nhiều, vì do đặc điểm của môi trường hoạt động giáo dục và tính hiệu quả cao của nó. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ đúng - sai , phải - trái , tốt - xấu , lợi - hại , thiện - ác…để từ đó nâng cao tính tự giác trong công việc, gắn bó với tổ chức, cơ quan, đơn vị và nhà trường. Yêu cầu: Để sử dụng có hiệu quả phương pháp giáo dục - tâm lý trong quản lý giáo dục, cần thực hiện tốt các yêu cầu cơ bản như sau: - Tôn trọng nhân cách con người. Không ép buộc, mà giáo dục, thuyết phục động viên tình cảm để mọi thành viên trong nhà trường tự nguyện thừa nhận và tuân theo các quyết định quản lý. - Chú trọng phân tích cơ sở khoa học của các quyết định quản lý, tạo sự thống nhất trong quan niệm và hành động của các thành viên trong tổ chức. - Cần dùng người có uy tín để thuyết phục và bằng lý trí, tình cảm, xây dựng lòng tin giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý; thuyết phục không hiệu quả thì mới dùng phương pháp khác; cần giáo dục, thuyết phục chung với tất cả các thành viên và khi có vấn đề vướng mắc của cá nhân thì mới thuyết phục riêng. - Động viên tính tích cực, tự giác của các thành viên trong thực hiện nhiệm vụ; đồng thời hình thành niềm tự hào, tạo lòng tự tin cho đối tượng quản lý vào bản thân họ và các thành viên trong bộ phận, đơn vị mình. - Xây dựng nề nếp chính quy trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách và hình thành các thói quen, tập quán lành mạnh, từ đó tạo thành “văn hóa” trong hoạt động quản lý giáo dục c. Phương pháp kích thích bằng vật chất, tinh thần.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Phương pháp kích thích bằng vật chất, tinh thần là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế (vật chất) và tinh thần, nhằm phát huy ở họ tiềm năng, trí tuệ, tình cảm, ý chí, trách nhiệm và quyết tâm hành động vì lợi ích chung, thực hiện mục tiêu quản lý đã xác định. Những kích thích về vật chất như: Nâng các thang, bậc lương, tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt, lao động, nhà ở…cho giáo viên, cán bộ quản lý; tiền thưởng cho giáo viên và học viên giỏi, v.v… Các kích thích về tinh thần như: phong danh hiệu thi đua, danh hiệu giáo viên giỏi các cấp, nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân v.v…Ngoài ra, các kích thích về chính trị như kết nạp Đảng, về khoa học như tạo điều kiện cho giáo viên đi học sau đại học…cũng thuộc loại kích thích tinh thần. Những kích thích về vật chất và tinh thần trên có ý nghĩa tích cực đối với con người, khiến họ lao động nhiều hơn, tốt hơn, năng suất hơn để có những cống hiến xứng đáng cho tập thể. Trong thực tiễn quản lý giáo dục, chủ thể quản lý đã và đang sử dụng phương pháp này và mang lại những kết quả nhất định. Yêu cầu : - Yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp này trong quá trình quản lý, là cần kết hợp hài hòa các kích thích vật chất và tinh thần; tránh tuyệt đối hoá, tách rời từng mặt. Bởi vì, nếu quá coi trọng kích thích vật chất sẽ tầm thường hóa con người, vả lại cũng không phù hợp với môi trường giáo dục, trong đó phần lớn là những nhà giáo hoạt động trong lĩnh vực sư phạm; ngược lại, nếu quá coi trọng kích thích tinh thần sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Thực tiễn quản lý giáo dục cho thấy, nếu tuyệt đối hoá những kích thích về vật chất, sẽ dễ nảy sinh ở con người tư tưởng tư hữu và sự hám lợi. Còn bản thân những khuyến khích về tinh thần, tự nó không làm thỏa mãn nhu cầu về vật chất.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> của con người; và vì thế không thể đưa lại hiệu lực lớn nhất cho việc nâng cao tính tích cực trong hoạt động quản lý. Do đó chỉ có sự thống nhất, tác động lẫn nhau và kết hợp hài hòa các khuyến khích vật chất với khuyến khích về tinh thần, đó mới là nguồn gốc thúc đẩy để không ngừng nâng cao tính tích cực của chủ thể quản lý, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động quản lý giáo dục. - Đa dạng hoá các loại hình kích thích về tinh thần và vật chất. Kích thích bằng sự tỏ thái độ đồng tình, bằng sự tham gia hưởng ứng, bằng sự quan tâm, … - Kích thích đúng lúc, đúng chỗ, đúng người, đúng việc. Căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, đối tượng cụ thể để có những tác động thích hợp. 3. Yêu cầu chung khi lựa chọn, sử dụng các phương pháp quản lý giáo dục Các phương pháp quản lý giáo dục trình bày trên, là những gợi ý đối với các nhà quản lý và để sử dụng hiệu quả từng phương pháp đã có các yêu cầu riêng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý, muốn đạt hiệu quả cao cần thực hiện tốt một số yêu cầu chung sau đây: a. Sử dụng phương pháp quản lý giáo dục phải phù hợp với mục đích của quản lý giáo dục. Có thể nói mục đích quản lý giáo dục quyết định việc lựa chọn phương pháp quản lý. Người lãnh đạo, các chủ thể quản lý giáo dục có quyền lựa chọn phương pháp quản lý; song không có nghĩa là chủ quan, tùy tiện, bởi mỗi phương pháp quản lý khi sử dụng sẽ tạo ra một ưu thế trội, một cơ chế tác động mang tính khách quan vốn có của nó. Trong quản lý, không phải bất cứ lúc nào và bất kể đối tượng nào, (cán bộ quản lý, giáo viên, học viên…) người đứng đầu tổ chức cũng có thể dùng cách ra mệnh lệnh là đạt hiệu quả. Điều quan trọng và quyết định hiệu quả hoạt động quản lý giáo dục, là mệnh lệnh đó nhằm mục đích gì? Mang lại lợi ích cho cá nhân hay tập thể? Và từ mục đích ấy mà lựa chọn, sử dụng phương pháp này hay phương pháp kia nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động quản lý..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> b. Sử dụng phương pháp quản lý giáo dục phải phù hợp với nguyên tắc quản lý. Nguyên tắc quản lý giáo dục chỉ đạo, chi phối các phương pháp quản lý. Phương pháp quản lý vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc quản lý, vừa chịu sự chi phối bởi mục tiêu quản lý như đã nói ở trên. Ví dụ, hiệu trưởng nhà trường vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình xây dựng kế hoạch năm học, thì phương pháp quản lý thích hợp ở đây là giáo dục thuyết phục để mọi giáo viên hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung kế hoạch và từ đó xác định trách nhiệm của mình trong việc thực hiện kế hoạch chung. c. Sử dụng phương pháp quản lý giáo dục vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi chủ thể quản lý phải nắm vững đối tượng quản lý với những đặc điểm vốn có của nó để có những tác động trên cơ sở nhận thức, vận dụng các thành tựu khoa học chuyên ngành, liên ngành và phù hợp với quy luật khách quan của đối tượng đó. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ: biết chọn đúng, kết hợp khéo léo, linh hoạt các phương pháp quản lý giáo dục…nhằm đạt hiệu quả cao nhất mục tiêu quản lý đã đề ra. Thực tiễn quản lí giáo dục đã chứng tỏ, có nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh (có lẽ lúc nào cũng có và đây là chuyện bình thường) đòi hỏi nhà quản lý phải áp dụng những phương pháp phù hợp. Chính lúc này hơn lúc nào hết cần đòi hỏi trình độ trí tuệ, bản lĩnh và nghệ thuật của cán bộ quản lý các cấp. d. Sử dụng kết hợp hài hòa các phương pháp quản lý. Bởi vì, phương pháp nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm riêng, việc đề cao quá mức bất kì phương pháp nào và lạm dụng nó đều dễ dẫn đến kém hiệu quả trong quản lý. Trong khi đó đối tượng quản lý chịu tác động của hàng loạt quy luật khác nhau, mỗi phương pháp chỉ có tác dụng ưu trội phù hợp với một vài quy luật nhất định. Mặt khác hệ thống quản lý, về thực chất là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận hợp thành có quan hệ tương tác, gắn bó hữu cơ với nhau; do đó một.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> phương pháp quản lý cụ thể, không thể cùng một lúc tác động có hiệu quả đến tất cả các mối quan hệ trong hệ thống quản lý. Bên cạnh đó, đối tượng quản lý giáo dục là con người; bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội; bởi vậy chỉ có sự kết hợp hài hòa các phương pháp quản lý mới có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp làm thay đổi trạng thái quản lý như mong muốn của chủ thể quản lý. Thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục, rút ra nhiều bài học có giá trị từ việc vận dụng kết hợp các phương pháp quản lý giáo dục. Chủ trương “chấn hưng” sự nghiệp giáo dục, đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và rất nhiều chủ trương khác được thực hiện thành công là minh chứng rõ rệt về việc sử dụng phối hợp nhiều phương pháp quản lý. Thực tế cho thấy, chỉ có thể đạt tới chất lượng, hiệu quả cao trong công tác quản lý giáo dục khi các chủ thể quản lý vừa tuyên truyền, thuyết phục, giải thích; vừa kết hợp các phương pháp hành chính - pháp luật, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng thành viên trong bộ máy quản lý; lại vừa sử dụng kết hợp hài hoà các phương pháp kích thích bằng vật chất và tinh thần, nhằm động viên sức mạnh tổng hợp của mọi thành viên tích cực tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục Những vấn đề nghiên cứu 1. Phân tích các chức năng của quá trình quản lý giáo dục? Ý nghĩa của vấn đề này trong thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục ở đại học quân sự hiện nay? 2. Phân tích những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc tính đảng, tính giai cấp và nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý giáo dục? 3. Phân tích những tư tưởng cơ bản và yêu cầu chung khi sử dụng các phương pháp quản lý giáo dục ?.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Chuyên đề 3 QUẢN LÝ GIÁO DỤC TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA Đại tá, PGS.TS. Trần Đình Tuấn Bài giảng lớp cao học Quản lý giáo dục Nội dung: 1. Khái niệm về toàn cầu hóa 2. Các đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa 3. Các tác động của toàn cầu hóa đến quản lý tổ chức 4. Toàn cầu hóa và quản lý giáo dục 5. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ của WTO 6. Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa văn hóa, giáo dục và quản lý 7. Đổi mới quản lý GD trong xu thế toàn cầu húa Thời gian: 5 tiết Phương pháp: - GV giới thiệu và hướng dẫn đọc tài liệu - HV tự nghiên cứu - Thảo luận trên lớp (Phân công mỗi HV báo cáo một phần nội dung) Tài liệu tham khảo: - Bùi Minh Hiền, Quản lý giáo dục, Nxb. Đại học Sư phạm, 2006 Chương 13: Quản lý giáo dục trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Tr. 320-352 Chương 14: Đổi mới quản lý giáo dục, tr. 353-402.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thế giới xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XX. Theo OECD (Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế):“Toàn cầu hóa là quá trình diễn ra do sự thay đổi về công nghệ, tăng trưởng dài hạn liên tục về đầu tư nước ngoài và nguồn lực quốc tế và sự hình thành trên phạm vi rộng lớn với quy mô toàn cầu những hình thức mới về các mối liên kết quốc tế giữa các công ty và các quốc gia. Sự kết hợp này làm tăng quá trình hội nhập giữa các quốc gia và thay đổi bản chất của cạnh tranh toàn cầu 1. Khái niệm về toàn cầu hóa Hiện nay có nhiều cách hiểu về toàn cầu hóa: - Toàn cầu hóa là sự liên kết kinh tế thế giới, trong đó những gì đang diễn ra ở một nước đều ảnh hưởng đến các nước khác và ngược lại. - Dưới góc độ khoa học quản lý có thẻ hiểu toàn cầu hóa là quá trình hình thành hệ thống các quan hệ liên kết giữa các tổ chức trong nhiều lĩnh vực và trên phạm vi toàn cầu. - Hội nhập quốc tế được hiểu như là các chính sách, biện pháp mà các chính phủ thực thi nhằm mở cửa kinh tế. - Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có thể diễn gia trên nhiều cấp độ khác nhau và tạo thành những hệ thống trật tự mới có quy mô khác nhau: khu vực, liên khu vực, liên châu lục và toàn cầu. - Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu diễn ra đối với các tổ chức dưới góc độ là một quốc gia. 2. Các đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa - Về mặt kinh tế, toàn cầu hóa như là một giai đoạn phát triển mới của quá trình quốc tế hóa kinh tế. Trong tương lai toàn cầu hóa sẽ xóa bỏ ranh giới giữa các quốc gia và hình thành nền kinh tế thị trường thống nhất toàn thế giới..

<span class='text_page_counter'>(60)</span> - Gắn liền với xu thế thống nhất các lực lượng kinh tế là xu thế tự do hóa các thể chế kinh tế trong phạm vi quốc gia và xu thế hình thành các luật lệ và quy tắc mới trong khu vực và toàn cầu. - Về mặt chính trị, toàn cầu hóa là xu thế quốc tế hóa các vấn đề chính trị thế giới, tạo ra những liên minh chính trị xuyên quốc gia. - Về mặt văn hóa, toàn cầu hóa là sự hội nhập và kết tinh của nhiều nền văn hóa khác nhau. - Về mặt xã hội, bên cạnh lợi ích mà toàn cầu hóa đem lại như xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ thì mặt khác toàn cầu hóa cũng đào sâu bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo ở trong từng quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. - Về mặt khoa học và kĩ thuật, công nghệ , toàn cầu hóa là kết quả phát triển nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông toàn cầu. Khoảng cách về thời gian, không gian là không còn ý nghĩa với các hoạt động của con người và của tổ chức. - Về môi trường sinh thái, toàn cầu hóa là biện pháp giải quyết đối với các vấn đề môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái hiện nay không thể giải quyết theo hướng cục bộ mà phải giải quyết trên góc độ toàn cầu. 3. Các tác động của toàn cầu hóa đến quản lý tổ chức Những tác động tích cực: - Mở rộng môi trường hoạt động cho các tổ chức. - Tăng khả năng thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho tổ chức. - Trao đổi các nguồn lực giữa các tổ chức. Những tác động tiêu cực: - Toàn cầu hóa sẽ tăng áp lực cạnh tranh từ môi trường bên ngoài, khi nội lực bên trong yếu kém có thể dẫn đến khả năng là tổ chức không thể cạnh tranh lại được..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> - Gia nhập tiến trình hội nhập quốc tế đồng nghĩa với việc tự nguyện thực hiện các cam kết và sẽ dẫn tới mất quyền tự chủ trong các quyết định của tổ chức. - Các tổ chức còn phải đối mặt với nhiều tác động nhiễu khác từ bên ngoài ảnh hưởng vào. 4. Toàn cầu hóa và quản lý giáo dục Dưới góc độ quản lý có thể hiểu toàn cầu hóa là quá trình hình thành hệ thống các quan hệ liên kết giữa các tổ chức trong nhiều lĩnh vực và trên phạm vi toàn cầu. Với tổ chức là doanh nghiệp hay thậm chí là một cơ sở giáo dục toàn cầu hóa như là một chiến lược kinh doanh, dịch vụ. Chiến lược này có hai đặc điểm cơ bản: Thực hiện đầu tư từ nước ngoài và coi thị trường toàn cầu là thị trường chung nhất. Về mặt này toàn cầu hóa quản lý được thể hiện theo 3 khía cạnh: - Quản lý tìm kiếm sự tương đồng giữa các thị trường. - Tiếp cận tìm kiếm sự tương đồng giữa các sản phẩm thị trường. - Quản lý tiếp cận toàn cầu luôn xem xét xem sản phẩm nào thích ứng với thị trường toàn cầu. 4.1. Những yêu cầu đối với quản lý giáo dục trong hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa Chủ động phát triển giáo dục Việt Nam trên con đường hội nhập với giáo dục khu vực, giáo dục quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa, nhưng phải giữ được tính độc lập, dân tộc, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập quốc tế về giáo dục là quá trình vừa hội nhập vừa cạnh tranh, tuân thủ luật lệ quốc tế trên cơ sở các bên đều có lợi. Để khai thác tối da trong khi hội nhập, cần phải nâng cao trình độ, thay đổi cơ cấu và đổi mới quản lý, cần chú ý tới các yếu tố sau: - Về yếu tố con người. Con người là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại trong quá trình hội nhập giáo dục. Do vậy cần nâng cao trình độ về quản lý, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ thuật, công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ và vốn hiểu biết giáo dục và văn hóa..

<span class='text_page_counter'>(62)</span> - Tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, bố trí chức danh một cách khoa học, thích hợp, định ra các tiêu chuẩn cán bộ và trên cơ sở đó để tuyển dụng và sử dụng, đặt chức theo việc và chọn người theo chức. - Cơ cấu, tổ chức quản lý giáo dục phải gọn nhẹ, thống nhất, tiết kiệm phải đảm bảo tính hệ thống, trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích gắn chặt với nhau. Phối hợp quản lý theo chiều dọc với quản lý theo chiều ngang sao cho có hiệu quả nhất. - Sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý giáo dục. - Phải tạo điều kiện tốt nhất để mọi người hợp tác, phối hợp với nhau cùng tham gia vào quá trình giải quyết những vấn đề của giáo dục nhằm hoàn thành đúng mục tiêu giáo dục của Đ ảng và Nhà nước đã đặt ra. - Quản lý giáo dục phải thích ứng, linh hoạt về cả đối nội và đối ngoại. - Trong quản lý giáo dục cần ứng dụng công nghệ hiện đại để tăng hiệu quả quản lý. - Nhất thiết cần coi trọng và quan tâm nhiều tới yếu tố văn hóa trong quản lý giáo dục. Cần nhấn mạnh vai trò văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc trong quản lý giáo dục. 4.2. Tác động của WTO với giáo dục Việt Nam WTO có thể coi như là một quốc gia về mặt quản lý thể hiện ở hệ thông quan hệ liên kết cam kết tự nguyện giữa các quôc gia, có thể được thiết chế để các nước thành viên buộc phải tuân theo. Nền giáo dục nước ta chắc chắn phải đối mặt vớ những thách thức mới, thách thức quan trọng hơn cả việc cam kết với thương mại dịch vụ giáo dục và nhu cầu mới của việc thực hiện những quy định của WTO có liên quan đến đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Các thành viên là các nước phát triển của tổ chức này luôn có yêu cầu cao với các quốc gia khác cũng mở rộng thị trường dịch vụ, trong đó có dịch vụ giáo dục. Dịch vụ giáo dục cũng sẽ là một nội dung trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). WTO đã phân chia dịch vụ và thương mại dịch vụ trên thế giới ra 12 nhóm lớn với 143 hạng mục dịch vụ. Các nhóm dịch vụ này là:.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> 1. Dịch vụ kinh doanh gồm: dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ máy tính và cá lĩnh vực liên quan, dịch vụ nghiên cứu và triển khai, dịch vụ cho thuê bất động sản, dịch vụ kinh doanh khác. 2. Dịch vụ thông tin gồm: dịch vụ bưu điện, dịch vụ chuyển phát nhanh, dịch vụ viễn thông, dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ khác. 3. Dịch vụ xây dựng và kĩ thuật gồm: dịch vụ xây dựng nhà cửa, dịch vụ xây dựng dân dung, dịch vụ lắp đặt máy móc, dịch vụ hoàn thiện các công trình, dịch vụ khác. 4. Dịch vụ kinh tiêu gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ đại lý độc quyền, dịch vụ khác. 5. Dịch vụ giáo dục gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trung học, dịch vụ đào tạo đại học, dịch vụ đào tạo trung học cho người lớn, dịch vụ đào tạo trung học khác 6. Dịch vụ môi trường gồm: dịch vụ thoát nước, dịch vụ xử lý chất thải, dịch vụ vệ sinh và các hoạt động tương tự, dịch vụ khác. 7. Dịch vụ tài chính gồm: dịch vụ bảo hiểm và các lĩnh vực liên quan đén bảo hiểm, dịch vụ ngân hang và các dịc vụ tài chính khác, dịch vụ khác 8. Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và xã hội gồm: dịch vụ chữa bênh, dịch vụ bệnh viện, dịch vụ xã hội, dịch vụ sức khỏe và xã hội khác 9 dịch vụ du lịch và liên quan gồm: dịch vụ khách sạn và nhà hang, dịch vụ đại lý và điều hành du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ khác. 10. Dịch vụ giải trí văn hóa và thể thao gồm: dịch vụ giải trí (nhà hát, ca nhạc, xiếc), dịch vụ báo chí, tin tức, dịch vụ thư viện, kiến trúc, bảo tàng, dịch vụ thể thao và các dịch vụ giải trí khác 11. Dịch vụ vận tải gồm: dịch vụ vận tải đường biển, dịch vụ vận tải nội thủy, dịch vụ vận tải vũ trụ, dịch vận tải đường sắt, ô tô, du lịch, dịch vụ vận tải đườn ống, dịch vụ vận tải liên quan tới tất cả các phương thức vận tải, dịch vụ vận tải khác. 12. Các dịch vụ khác..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Riêng về các khoản giáo dục thì tại khoản 3, điều 10 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO có nói về giáo dục: trừ hoạt động giáo dục có nguồn tài trợ triệt để của quốc gia; còn lại tất cả các hoạt động giáo dục có thu học phí, hoặc mang tính thương mại đều thuộc phạm trù thương mại giáo dục. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ 5. Dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học; dịch vụ giáo dục trung học; dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng; dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác. GATS là phần quan trọng trong hiệp định WTO và nó gồm 3 bộ phận: hiệp định chung; các văn bản phụ lục; bảng giảm nhượng của các nước. Tùy theo điều kiện phát triển giáo dục và luật phap của nước ta mà có thể đề xuất những lĩnh vực tham gia, giảm nhượng và mở cửa. Thương mại dịch vụ khác với thương mại hang hóa chủ yếu ở chỗ: Dịch vụ hang hóa là vô hình, thương mại dihcj vụ giữa các nước là trao đổi hang hóa vô hình giữa các nước. Quản lý dịch vụ này là nhờ thuế quan, giấy phép, phối ngạch 5. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ của WTO 1. Cung ứng xuyên quốc gia (Cross border): tức là một thành viên có thể cung ứng dịch vụ từ nước mình đến bất cứ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục chủ yếu là cung ứng dịch vụ đào tạo, chương trình, giáo trình và giáo dục từ xa. 2. Tiêu thụ ngoài nước (Consumption abroad): quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ từ nước mình cho người tiêu thụ ở bất cứ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục chủ yếu là dịch vụ du học 3. Hiện diện thương mại (Commercial presence): chỉ việc cung cấp dịch vụ của một quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ tới các quốc gia khác thông qua hiện diện thương mại. Với giáo dục thể hiện ở chỗ một tổ chức giáo dục của một quốc gia thành viên có thể mở hoạt động giáo dục, đào tạo của mình tại các quốc gia thành viên khác. 4. Sự lưu chuyển công dân tự do (Presence of natural persons): chỉ việc cung cấp dịch vụ của nước thành viên có thể cung cấp dịch vụ thông qua sự lưu.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> chuyển công dân tự do đến bất cứ nước thành viên nào khác. Với giáo dục, chủ yếu sẽ được thực hiện thông qua di chuyển hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu giữa các trường, viện, học viện, các cơ sở giáo dục và đào tạo, các công ty giáo dục khác trong tất cả các nước thành viên. 5.1 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) Ngày 1 tháng 1 năm 1995 trên cơ sở hiệp định chung về thương mại thế giới, WTO đã xác lập với phạm vi gồm: 1. Hiệp thương đa biên có liên qua đến thương mại hàng hóa như hiệp định chung về thương mại, nông nghiệp 2. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ và các vấn đề kèm theo. 3. Hiệp định chung về quyền sở hữu tri thức có liên qua đến thương mại. 4. Cơ chế xem xét, bàn bạc, cải cách thương mại mậu dịch, tức thẩm định xem văn bản pháp quy về chính sách thương mại của các nước thành viên đúng hay sai so với hiệp định có liên quan của WTO, quyền lợi quy định trong các điều khoản phải thống nhất với nhau. 5. Về các hiệp nghị có liên quan và trình tự giải quyết tranh chấp thương mại. 5.2. Những thỏa thuận có liên quan đến dịch vụ giáo dục Việt Nam Các nước gia nhập WTO cần có những cam kết về vấn đề liên quan đến thương mại dịch vụ. Cam kết về mở cửa thị trường được quy định trong điều 16 của GATS: “Đối với việc cung cấp thị trường theo bốn phương thức cung cấp dịch vụ, mỗi phương thức dành cho dịch vụ, hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ theo những điều kiện, điều khoản hạn chế đã được thỏa thuận và quy định tại danh mục cam kết cụ thể. Tuy nhiên yêu cầu về mở cửa thị trường dịch vụ không phải là bắt buộc với các nước thành viên. Mỗi nước đều có thể đặt ra những giới hạn nhất định đối với việc thâm nhập thị trường. Khoản 2, Điều 16 đề cập tới một danh sách ngắn gọn các biện pháp như vậy và mọi hạn chế cần phải nằm trong phạm vi của các biện pháp đó. Các biện pháp ấy bao gồm:.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> - Hạn chế số lượng người cung cấp dịch vụ. - Hạn chế về tổng trị giá giao dịch về dịch vụ. - Hạn chế số lượng các hoạt động dịch vụ. - Hạn chế về tổng số nhận cung cấp dịch vụ. - Các biện pháp hạn chế về hình thức đầu tư và thị trường dịch vụ. - Hạn chế về phần tham gia về vốn đầu tư nước ngoài. Khi một thành viên không áp dụng bất cứ một biện pháp hạn chế nào thì thành viên ấy được coi là mở cửa toàn phần. Cho đến nay không một thành viên nào của GATS cam kết mở cửa toàn phần thị trường dịch vụ. Riêng với nước ta, có thể thực hiện như sau: 1. Dịch vụ giáo dục hợp tác với nước ngoài có thể chủ yếu thông qua các hợp đồng ngắn và dài hạn dựa vào luật pháp và các văn bản pháp quy của Việt Nam và các cam kết trong hiệp định với WTO. 2. Cho phép các tổ chức thương mại dịch vụ giáo dục các nước thành viên được lập văn phòng đại diện tại nước ta. 3. Thời hạn sử dụng đất với mục đích cho giáo dục là 30 - 50 năm. 4. Quy định xung quanh vấn đề nhập cư của các công dân nước ngoài đến làm dịch vụ giáo dục tại Việt Nam. 5.3. Đặc điểm những cam kết về dịch vụ giáo dục của nước ta với WTO 1. Giáo dục phổ cập, giáo dục quốc phòng, an ninh, giáo dục của tổ chức Đảng, đoàn thể, một số tổ chức xã hội không nằm trong dịch vụ giáo dục. Còn lại mở dịch vụ cung cấp và chuyển giao tri thức cho người học. Tạo điều kiện để hệ thống giáo dục quốc dân nước ta ứng phó và thích nghi chủ động, tự tin trước sự tcs động mạnh mẽ của dịch vụ giáo dục của các nước thành viên, đồng thời mở ra cơ hội mới, nguồn đầu tư mới trong hợp tác phát triển giáo dục với nước ngoài. 2. Dịch vụ cung ứng giáo dục xuyên quốc gia. Chỉ nên cam kết về các lĩnh vực khoa học kĩ thuật, công nghệ, kinh tế, nông, ngư nghiệp Một số lĩnh vực khác trong giáo dục mà về nội dung giáo dục và quản lý giáo dục khó có thể khống chế,.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> kiểm soát được những gì có hại đến an ninh quốc gia, đến con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa thì nhất định không cam kết 3. Cam kết mở rộng và đẩy mạnh tiêu thụ ngoài nước để có thể tăng số lượng công dân Việt Nam đi du học ngoài nước, đồng thời có chiến lược thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến Việt Nam học tập. 4. Phương thức hiện diện thương mại của dịch vụ giáo dục: Hạn chế việc cho phép đơn phương tổ chức giáo dục nước ngoài được mở trường hoặc cơ sở giáo dục của Việt Nam. Mở rộng và tăng cường tổ chức hợp tác giáo dục giữa ta và các nước thành viên và có thể để các nước thành viên hưởng đa số lĩnh vực, ngành nghề nào ta cần phát triển, còn thiếu nhân lực, thiếu những người tài giỏi để có chính sách khuyến khích. Mặt khác cần nhanh chóng hoàn thành và hoàn thiện các văn bản pháp quy phù hợp được tình hình nước ta và những quy tắc, quy định của WTO. 5. Sự lưu chuyển công dân tự do: Tất cả công dân các nước thành viên muốn đến cung ứng dịch vụ giáo dục tại Việt Nam cần được cá trường, các tổ chức giáo dục khác ở nước ta mời hoặc thuê Người đến cung ứng dịch vụ giáo dục phải có bằng đại học trở lên, có đủ bằng cấp, chức danh nghề nghiệp tương ứng và đã có ít nhất hai năm kinh nghiệm sau khi ra trường. 5.4. Những quyền lợi có được sau khi nước ta gia nhập WTO Việc nước ta gia nhập tổ chức WTO là tất yếu lịch sử, thể hiện chủ trương, đường lối đúng đắn của Đ ảng và Chính phủ trên con đường đổi mới, mở cửa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Một xã hội do dân làm chủ có nền kinh tế phát triển ca, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng nước ta đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới dự lãnh đạo của Đ ảng cộng sản Việt Nam, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Với mục tiêu này, nước.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> ta có thêm điều kiện để hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo trình độ và tốc độ phát triển kinh tế của nước ta. Những quyền lợi cơ bản có được sau khi nước ta gia nhập WTO có thể là: 1. Được hưởng đầy đủ đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc dân đa biên vô điều kiện (tức đãi ngộ không kì thị). 2. Tham gia toàn diện thể chế thương mại mậu dịch đa biên. 3. Được hưởng quyền lợi của các quốc gia đang phát triển. 4. Hoàn thiện quá trình mở cửa thị trường và hoàn thiện pháp quy. 5. Bảo lưu thể chế mậu dịch nhà nước. 6. Có điều kiện cho những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực mở cửa thương mại mậu dịch. 7. Cung cấp các khoản tiền phụ cấp cho phép theo quy định của WTO đối với sản nghiệp trong nước. 8. Bảo lưu quyền định giá quốc gia và chỉ đạo giá cả của chính phủ. 9. Bảo lưu quyền trưng thu thuế xuất khẩu. 10. Bảo lưu quyền kiểm tra đối với sản phẩm xuất khẩu. 5.5. Thách thức đối với giáo dục nước ta khi gia nhập WTO Thách thức đối với giáo dục khi nước ta gia nhập WTO đồng thời cũng là cơ hội cho phát triển giáo dục. Mặc dù sức cạnh tranh quốc tế của giáo dục nước ta hiện nay với giáo dục các nước thành viên WTO còn nhiều yếu kém, nhưng đây cũng chính là cơ hội buộc các cơ sở giáo dục ở nước ta, mà trước hết là các trường đại học, các học viện, các trường giáo dục chuyên nghiệp phải nỗ lực, nâng cao hiệu quả đào tạo, nâng cao vị thế của mình, sớm tạo lập được thương hiệu riêng qua năng lực cạnh tranh quốc tế. Nhìn chung, những thách thức đối với giáo dục có thể là: 1. Đảm bảo thắng lợi đường lối giáo dục của Đảng để xây dựng thành công nền Giáo dục Việt Nam theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong mọi trường hợp phải kiên quyết đảm bảo chủ quyền giáo dục. Chủ quyền giáo dục bao giờ cũng liên quan mật thiết đến văn hóa, kinh tế, chính trị. Mỗi nhà.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> trường Việt Nam phải là cái nôi của Đảng, Nhà nước, của dân, lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đào tạo ra những con người Việt Nam kế tục xây dựng nước Việt Nam giàu đẹp, tự do, dân chủ, công bằng, văn minh, xã hội chủ nghĩa. 2. Dù muốn hay không thì thị trường dịch vụ giáo dục cũng đã và đang hình thành ở nước ta. Việt Nam sau khi trở thành thành viên của WTO, là cơ hội giúp cho thị trường này phát triển trước tình hình này ngành giáo dục mà trước hết là các nhà quản lý giáo dục cần nhận thức rõ quy luật khách quan, hành động phù hợp với quy luật trong việc hướng dẫn, quản lý và đưa thị trường này phát trine theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc duy trì tư duy và lối nghĩ bảo thủ: mặc cảm, khó chịu, phê phán, bài xích sẽ dẫn đến một thị trường tự do dịch vụ giáo dục phát triển không lành mạnh với nhiều tiêu cực vì thiếu bàn tay người quản lý. 3. Những kinh nghiệm về quản lý và tạo điều kiện cho một thị trường dịch vụ giáo dục phát triển đúng hướng ở nước ta còn yếu và thiếu, do vậy cần tiến hành xem xét, bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành, kể cả luật Giáo Dục sửa đổi, đồng thời ban hành những văn bản pháp quy mới để hướng dẫn, điều chỉnh kịp thời giúp cho thị trường dịch vụ giáo dục ở nước ta thích hợp với những điều khoản trong khuôn khổ của WTO-GATS và phát triển lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Giáo dục dù là công ích, phi lợi nhuận hay có lợi nhuận cần được quy định rõ trong luật pháp để đảm bảo giáo dục trên phương diện chủ thể luôn phải là sự nghiệp công ích xã hội. Bản chất của giáo dục là nâng cao tố chất và đào tạo kĩ năng nghề nghiệp cho người học. 5. Những thách thức của WTO với nền giáo dục nước ta sẽ thể hiện ở tính cạnh tranh thị trường, làm gia tăng tính không công bằng trong giáo dục, không loại trừ xuất hiện hiện tượng chảy máu chất xámnhững điều này cần được đặt ra cho các quyết sách giáo dục ở tầm vĩ mô. 5.6. Cơ hội đối với giáo dục nước ta khi gia nhập WTO.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> 1. Có điều kiện hoàn thiện và phát triển bền vững hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài nhằm đáp ứng cho nhu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế trong giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục. Chỉ có thông qua hợp tác quốc tế mới có thể đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng những nhu cầu cấp bách của quá trình phát triển kinh tế -xã hội đang đặt ra ở nước ta 3. Mở rộng du học tại chỗ và làm giảm đi tỷ trọng du học nước ngoài góp phần tiết kiệm ngoại tệ. 4. Nguồn đầu tư cho giáo dục sẽ đa dạng hơn, phong phú và lớn hơn. Ngày càng có nhiều nguồn vốn từ tư nhân và các tổ chức nước ngoài đầu tư cho dịch vụ giáo dục. Điều này sẽ giúp cho giáo dục có thêm điều kiện để phát triển. Năng lực và tiềm năng hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân được khai thác triệt để, cung ứng nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển giáo dục 5. Tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm giáo dục tiên tiến trên thế giới về các phương diện: nội dung đào tạo, phương pháp giáo dục, phương tiện quản lý giáo dục, quản lý giáo dục, xây dựng đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục Hướng tới xây dựng hệ thống giáo dục học tập suốt đời trong một xã hội học tập. 6. Đổi mới quản lý giáo dục theo hướng quản lý bằng pháp luật, bằng các văn bản pháp quy và tăng quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục. Gia tăng tính cạnh tranh lành mạnh đối với tất cả các cơ sở giáo dụ., làm cho nền giáo dục nước ta ngày càng thích ứng được với xã hội với nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập được với xu thế phát triển giáo dục của thế giới. 7. Tranh thủ cơ hội để mở cửa liên thông giáo dục nước ta với khu vực và thế giới. Có chiến lược và kế hoạch khai thác thị trường giáo dục của nước tar a nước ngoài. Tiến đến kí kết các hiệp định công nhận học vị, chứng chỉ, văn bằng, tạo nhiều cơ hội về sự thừa nhận của nước ngoài đối với những ngành nghề đào tạo.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> có chất lượng ở nước ta và những ngành học đặc thù chỉ có thể đào tạo ở Việt Nam. Tận dụng môi trường ổn định an ninh chính trị, quốc phòng và với học phí rẻ để thu hút lưu học sinh các nước đến nước ta học tập 5.7. Những việc cần làm của giáo dục nước ta trước tác động của WTO 1. Cần phân định rõ ba loại hình giáo dục ở nước ta: - Dịch vụ giáo dục công ích xã hội. - Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận. - Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận. a. Dịch vụ giáo dục công ích xã hội: Loại dịch vụ này có chủ thể là giáo dục công lập, là giáo dục mang tính công ích xã hội. Dịch vụ này do tài chính công của nhà nước đảm nhận, được hưởng các chính sách ưu tiên toàn diện của Nhà nước. Trong đó, trước hết là giáo dục phổ cập, các loại hình giáo dục đặc thù như chính trị, an ninh quốc phòng, giáo dục trong các trường Đ ảng, thanh thiếu niên, giáo dục cải tạo Một số lĩnh vực giáo dục đặc thù khác không nằm trọn trong trao đổi dịch vụ. Trong trường hợp này hệ thống giáo dục nước ta cần thể hiện sự tương tác, ứng phó tự tin, bản lĩnh trước tác động mạnh mẽ của thương mại dịch vụ nước ngoài, nhưng đồng thời lại tìm cách có được nhiều nguồn đầu tư mới trong trường hợp mới trong hợp tác phát triển giáo dục công ích xã hội với nước ngoái. b. Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận: Các trường học, các cơ sở giáo dục không nhằm mục đích kinh doanh cần dược hưởng những chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước ví dụ như chính sách sử dụng đất đai xây dựng cơ bản, miễn giảm thuế Trong trường hợp này cần lưu ý tới tính chất và sự cần thiết của các ngành nghề mà có đối sách sao cho có lợi nhất cho sự phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. Hàng năm có thể thiết lập mục lục khoa học các ngành nghề hợp tác với nước ngoài, những ngành nghề mà nước ta chưa đào tạo được, những ngành nghề còn thiếu người giỏi, thiếu nhân tài thực sự. Nhìn chung cần có nhiều chính sách khuyến kích để phát triển loại hình dịch vụ phi lợi nhuận.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> c. Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận: Đ ây là loại dịch vụ mang tính doanh lợi dưới tiền đề nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Dịch vụ này thực chất là dịch vụ mua bán tri thức, tay nghề, kĩ năng, kĩ xảo cho người học. Trong điều kiện hiện nay cần xác định rõ các lĩnh vực, ngành nghề ở tất cả các cấp bậc học theo thứ tự cần thiết, trong đó ưu tiên hàng đầu đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đối với một vài ngành nghề rất cần, nhưng nay vì một lý do gì đó đã bị thui chột hoăc kém phát triển để đáp ứng nhu cầu dịch vụ giáo dục có lợi nhuận. Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận có thể được thực hiện theo mấy cách dưới đây: - Gia nhập thị trường dịch vụ giáo dục xuyên quốc gia: trong những năm gần đây khoa học công nghệ thông tin và mạng lưới thông tin viễn thông đã phát triển nhanh và có những bước tiến nhảy vọt ở các nước phát triển và cả một vài nước đang phát triển. Các con đường thông tin siêu tốc đang ngày một mở rộng. Thành tựu này trên thực tế đã ảnh hưởng và làm biến đổi mạnh mẽ đến cách dạy và học. Như vậy người học hoàn toàn có thể chủ động tự lựa chọn thời gian thích hợp cho mình, lựa chọn nội dung cần học thông qua mạng lưới giáo dục từ xa đại học ảo Tuy nhiên trong quản lý giáo dục, vấn đề đặt ra là phải tăng cường giám sát, kiểm soát và quản lý được nội dung học tập để loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực hoặc làm tồn hại đến an ninh quốc gia. - Gia nhập thị trường tiêu thụ ngoài nước: hiện nay hàng năm có khoảng trên hai triệu học sinh, sinh viên lưu học ở các nước trên thế giới. Trong đó đến số lượng người học từ các nước đang phát triển đến học tập tại các nước phát triển và đây là những thị trường giáo dục có doanh thu lợi nhuận rất cao Ví dụ tại Mỹ theo một số đánh giá thì năm 2005 giá trị dịch vụ giáo dục trên thị trường này không dưới 90 tỷ USD. Theo dự báo của Mỹ thì vào năm 2020 sẽ có tới 30% số trường công lập sẽ do các công ty thương mại quản lý. Trong 15 năm cuối thế kỷ XX. Các tập đoàn xuyên quốc gia đã lập các trường đại học trong tập đoàn của mình và số lượng các trường này đã tăng lên từ 400 lên 2500 và dự kiến đến năm 2020 sẽ lên tới 3700 trường..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> - Nhu cầu đi học ngoài nước ở nước ta hiện nay ngày một cao. Trong những năm gần đây bình quân mỗi năm có đến vài nghìn người đến các nước trong khu vực và trên thế giới học tập.. Hiện có khoảng 40 đến 50 nghìn lưu học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu ở ngoài nước. Theo hướng này chắc những năm sắp đến số lượng người du học còn tiếp tục tăng hơn nữa. Do vậy Nhà nước cần có thêm chính sách thu hút và sử dụng để nguồn nhân lực này có thêm điều kiện trở về phục vụ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đồng thời cần tạo nhiều điều kiện để các trường đại học, cao đẳng của nước ta có thể thu hút thêm được lưu học sinh các nước láng giềng khu vực và trên thế giới có điều kiện đến Việt Nam nghiên cứu và học tập. Số lượng lưu học sinh nước ngoài hiện đang học tập ở nước ta rất nhỏ chỉ khoảng một vài trăm, một con số thật khiêm tốn Muốn vậy cần mở rộng quyền tự chủ và tính trách nhiệm cho các trường và cơ sở giáo dục. Cần hình thành một cơ chế cạnh tranh lành mạnh giúp các trường sáng tạo, chủ động trong việc quảng bá và thu hút được nhiều người nước ngoài đến học. - Hình thành các trường và cơ sở giáo dục tư thục ở hầu hết tất cả các cấp, bậc, trình độ học và tất cả ngành nghề ở các vùng, miền trong cả nước để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mọi người dân. Nhà nước cần có chính sách đảm bảo tính công bằng, dân chủ, tính chủ động, sáng tạo giúp cho các trường và cơ sở này phát triển. Loại hình này hiện nay rất phát triển trong các nước thành viên WTO và ở không ít nước, chính loại hình này đã tạo ra chất lượng cao cho một nền giáo dục có thưương hiệu. 1. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Giáo dục sửa đổi, các chủ trương, chính sách của Đ ảng và Nhà nước đảm bảo quyền học tập của dân, đảm bảo chủ quyền giáo dục quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị, quốc phòng Cần có các quy định cụ thể để khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào làm công tác giáo dục nước ta song không được lấy danh nghĩa hợp tác quốc tế, giao lưu giáo dục, dịch vụ giáo dục để tiến hành những hoạt động bị nghiêm cấm theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Tất cả những hoạt động về giáo dục của các cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được triển khai sau khi đã được các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn..

<span class='text_page_counter'>(74)</span> 2. Trong hợp tác quốc tế về giáo dục, ngành Giáo dục có kế hoạch chủ động đề xuất và cho phép mở các ngành nghề có liên quan đến thương mại, dịch vụ giáo dục theo từng địa phương và trong cả nước, đồng thời đảm bảo quyền quản lý nhà nước về giáo dục ở các lĩnh vực này. Trên cơ sở luật pháp nước ta, cho phép và tạo điều kiện cho người nước ngoài các tổ chức quốc tế đến mở trường, mở ngành nghề theo hướng hiện đại, chất lượng cao, công nhận văn bằng, chứng chỉ lẫn nhau và tiệm cận tới Việt Nam hóa. 3. Cần làm mới tất cả các văn bản về hợp tác giáo dục với nước ngoài sao cho phù hợp với tình hình của nước ta và những yêu cầu của WTO để sớm trình đảng và Chính phủ ban hành. 4. Quy định chính thức những ngôn ngữ được dùng trong dịch vụ giáo dục của nước ngoài tại nước ta. 5. Có kế hoach rút ngắn khoảng cách quy mô và chất lượng giáo dục - đào tạo giữa miền núi, vùng khó khăn, xa xôi hẻo lánh với giáo dục tại các thành thị ở nước ta. 6. Xây dựng chuẩn giáo dục Việt Nam theo hướng chất lượng, dân tộc, hiện đại, đáp ứng thị trường lao động, việc làm và chủ động hội nhập được với khu vực và quốc tế. 7. Có kế hoạch cụ thể rà soát, bổ sung, điều chỉnh và ban hành mới các văn bản pháp quy về giáo dục và liên quan đến giáo dục để tương thích với yêu cầu của WTO và tạo ra một môi trường lành mạnh cho giáo dục phát triển. 8. Tiếp tục tăng cường đàu tư cho giáo dục, tạo cơ chế có nhiều nguồn lực cho giáo dục, đặc biệt có các nguồn vốn từ ngoài nước. Thực sự coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Coi giáo dục cũng thuộc lĩnh vực sản xuất – lĩnh vực sản xuất tri thức. Tạo cơ hội cho giáo dục phát triển và chiếm lĩnh thị trường, trước hết là thị trường trong nước và có kế hoạch từng bước vươn ra khu vực và quốc tế. Thế giới đánh giá Việt Nam hiện đang là một thị trường giáo dục lớn. 9. Tăng cường quản lý Nhà nước về giáo dục, giám sát mọi hoạt động trong giáo dục..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> 6. Đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa văn hóa, giáo dục và quản lý Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế có thể diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: khu vực, liên khu vực, châu lục, liên châu lục và thậm chí trên diện toàn cầu. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu đối với từng quốc gia, bởi vì nước nào cũng muốn phát triển nền kinh tế – xã hội của mình. Muốn vậy thì phải có chính sách mở cửa, tức là tất yếu phải tham gia hội nhập. Tuy nhiên toàn càu hoá không phải chỉ có những mặt tích cực mà còn có nhiều mặt tiêu cực ảnh hưởng đến xã hội nước ta nói chung và giáo dục nói riêng. Do vậy hoạt động quản lý các tổ chức cần được phân tích, lãnh đạo sao cho phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước trên cơ sở giữ vững chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, toàn cầu hoá là sự hội nhập và kết tinh của nhiều nền văn hoá, giáo dục khác nhau qua mạng viễn thông và công nghẹ thông tin toàn cầu, qua sự lan rộng của các quảng cáo tìm kiếm thị trường văn hoá, giáo dục mới. Đi cùng với chúng là dần tạo ra các chuẩn mực theo kiểu phương Tây có ảnh hưởng đến nền văn hoá giáo dục nước ta. Do vậy quản lý văn hoá giáo dục cần tính đến việc loại trừ những rủi ro, không thích hợp và thậm chí độc hại, làm ảnh hưởng đến truyền thống và bản sắc dân tộc. Những yêu cầu đối với quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hoá 1. Hội nhập quốc tế về giáo dục nhưng phải giữ vững tính độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa như Nghị quyết Đại hội VII, VIII, Nghi quyết Ban chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ hai, đại hội VIII, lần thứ VI Đại hội IX đã nhấn mạnh. Hội nhập giáo dục phải tuân thủ các nguyên tắc chung như giữ vững tính độc lập, tự chủ, bình đẳng, cùng có lợi, giữ vững an ninh và phát triển bền vững và giữ gìn, phát huy bản sắc dan tộc trong giáo dục. 2. Hội nhập quốc tế trong giáo dục là quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhằm tranh thủ các nguồn lực và thị trường cho sự phát triển giáo dục , đồng thời cần tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ, tập quán quốc tế trên cơ sở cùng có lợi. Hội.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> nhập phải nhằm vào mục tiêu phát triển giáo dục, hạn chế tối đa những tiêu cực ảnh hưởng đến từ bên ngoài. 3. Để có thể khai thác được tối đa những kinh nghiệm giáo dục quốc tế trong quá trình hội nhập, cần phải nâng cao mọi khả năng nội lực, trước hết là trình độ, năng lực quản lý, ứng dụng khoa học hiện đại trong quản lý, đổi mới phương pháp quản lý, coi trọng văn hoá trong quản lý. 7. Giáo dục hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức (gợi ý HV tự nghiờn cứu) 7.1. Khái niệm về nền kinh tế tri thức 7.2. Một số đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức 7.2.1. Công nghệ thông tin, công nghệ cao giữ vai trò quan trọng hàng đầu 7.2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp 7.2.3. Quá trình công nghiệp hoá được rút ngắn 7.2.4. Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hoá 7.2.5. Cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội thay đổi cơ bản 7.3. Cơ chế quản lý dựa trên kinh tế tri thức ??? 8. Xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập 8.1. Xã hội hóa giáo dục. 8.2. Xã hội học tập.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> 9. Xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập, học tâp suốt đời ở nước ta. 10. Một số giải pháp thực hiện xây dựng xã hội học tập ở nước ta. II. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC 1. Định hướng đổi mới QLGD 1.1. Tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục - Nhận thức rừ mục tiờu giỏo dục trong thời kỳ mới, Hội nhập, hợp tỏc (4 trụ cột của giỏo dục) - Nền giỏo dục dõn chủ. Xõy dựng xó hội học tập Ai cũng được học hành - Xó hội húa giỏo dục là giải phỏp cơ bản để phát triển giáo dục - Hợp tỏc quốc tế về giỏo dục - Đổi mới phương pháp dạy học. Dạy cách học. Cập nhật cỏc thành tựu khoa học, cụng nghệ. 1.2. Các quan điểm chủ yếu trong đổi mới QLGD - Xác định rừ mục tiờu, xứ mệnh của giỏo dục - GD là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho GD là đầu tư PT - GD là động lực phát triển kinh tế - xó hội, an ninh quốc phũng - Bỡnh đẳng về cơ hội giáo dục. GD cho mọi người. Học suốt đời. -Phỏt triển GD phự hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - Dịch vụ giỏo dục - GD phải đi trước sự phát triển.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> 2. Cải cỏch hành chớnh trong giỏo dục 2.1. Cỏc mục tiờu cụ thể - Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp - Xúa bỏ thủ tục hành chớnh quan liờu - Xác định chức năng, thẩm quyền cho các cơ quan hành chính - Cơ cấu quản lý gọn nhẹ - Chuẩn hóa, hiện đại hóa nền hành chính 2.2. Cỏc giải phỏp chủ yếu - Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý giỏo dục - Tiếp tục đổi mới chính sách GD trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục - Đổi mới công tác kế hoạch hóa giáo dục 2.3. Đổi mới công tác quản lý cán bộ quản lý và giỏo viờn trong giỏo dục a. Quan điểm - Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên lấy cá nhân người giáo viên làm trọng tâm (coi trọng nhu cầu cá nhân, đặc điểm cá nhân) - Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên là một nhiệm vụ của nhà trường - Quan điểm phát triển đội ngũ giáo viên trên cơ sở kết hợp cá nhân với (tập thể) nhà trường b. Nội dung quản lý phát triển đội nguc GV - Quy hoạch phát triển đội ngũ GV - Tuyển chọn giỏo viờn - Đào tạo đội ngũ giáo viên - Bồi dưỡng đội nguc giáo viên 2.4. Tiếp tục tăng cường đầu tư cho giáo dục 2.5. Đổi mới quản lý chất lượng giáo dục.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> 2.6. Tăng cường và mở rộng quan hệ quốc tế trong giỏo dục 2.7. Đổi mới kiểm tra, thanh tra giáo dục - Kiểm tra, thanh tra cụng tỏc quản lý chuyờn mụn - Thanh tra cụng tỏc quản lý nhõn sự - Thanh tra cụng tỏc quản lý tài chớnh, tài sản - Thanh tra đánh giá, phân loại giáo viên và cơ sở giáo dục - Thanh tra thực hiện đổi mới chương trỡnh giỏo dục phổ thụng - Thanh tra ở các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học - Thanh tra chuyên đề - Giải quyết khiếu nại và tố cỏo trong ngành giỏo dục - Kiện toàn bộ mỏy thanh tra giỏo dục cỏc cấp.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> MỤC LỤC Chuyên đề 1: Quản lý giáo dục là một khoa học Chuyên đề 2: Quá trình quản lý giáo dục Chuyên đề 3: Quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hoá. 1 23 57.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ. KHOA SƯ PHẠM QUÂN SỰ. TẬP BÀI GIẢNG. KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC (Dùng cho đào tạo sau đại học chuyên ngành QLGD).

<span class='text_page_counter'>(82)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×