Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THPT huyện kinh môn, tỉnh hải dương luận văn thạc sĩ khoa học quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.83 KB, 111 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
------

Trần văn thuấn

MộT Số BIệN PHáP QUảN Lý NHằM NÂNG CAO CHấT Lợng
giáo dục đạo đức cho học sinh các trờng thpt huyện
kinh môn, tỉnh hải dơng

Luận văn thạc sĩ: khoa học gi¸o dơc

Vinh – 2011

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự
bùng nổ về công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ
trước đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần
đây đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh tế, lại
trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi
diện mạo của mình. Cả nước đang tiếp tục công cuộc đổi mới sâu sắc, đẩy mạnh
CNH – HĐH đất nước. Nghị quyết TW2 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Muốn
tiến hành CNH- HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, để
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.


Phát triển nguồn lực con người là phát triển “đức và tài ”. Sự nghiệp giáo dục
đang được coi trọng là “quốc sách hàng đầu” (Nghị quyết Đại hội Đảng khóa
VIII). Cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh phổ thông cần
được cải tiến và đẩy mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục tồn diện,
hài hịa đáp ứng u cầu mới của xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức là một trong
những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong tồn bộ q
trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt
là trong nhà trường phổ thông, đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên.
Năm 1964, khi nói chuyện với thầy trị trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Bác Hồ đã dạy: “Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận
quan trọng có tính chất nền tảng của cơng tác giáo dục trong nhà trường xã hội
chủ nghĩa. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài, đức là đạo đức
cách mạng, đó là cái gốc quan trọng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hố thế giới – nhà giáo dục vĩ đại
của dân tộc đã dạy: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người”; “có tài mà khơng có đức thì làm việc gì cũng khó”. Tư
2


tưởng trồng người của Bác Hồ là giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên,
học sinh là vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta, đang đi vào chiều sâu và được triển khai trên
quy mô lớn, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đã đạt được những thành
tựu to lớn. Cơ chế thị trường , nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát
huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng
trưởng kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng ngày càng bộc lộ
những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn
hóa - nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các tầng lớp dân cư trong
xã hội trong đó số lượng thanh thiếu niên là rất lớn, các tệ nạn xã hội thâm nhập
vào trường học hiện nay ngày một gia tăng. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len

lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn
tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận xã hội nói chung, ảnh hưởng xấu tới
thế hệ trẻ nói riêng, đặc biệt làm ảnh hưởng tới một bộ phận thanh thiếu niên,
học sinh, sinh viên sống khơng có lý tưởng, khơng có mục đích, sống chạy theo
các nhu cầu tầm thường, ngại cống hiến, ngại khó khăn sống thích hưởng thụ,
sống khơng có niềm tin, hoang mang, bng thả. Đánh giá thực trạng này trong
văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng 2 khoá VIII nhấn mạnh :
“Đặc biê ̣t đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái
về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lố i số ng thực dụng, thiế u hoài bão lập
thân, lập nghiê ̣p vì tương lai của bản thân và đấ t nước. Trong những năm tới
cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức cơng dân, lịng u nước, chủ
nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tổ chức cho học sinh tham gia các
hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với u cầu giáo dục
tồn diện”.
Dó đó, một câu hỏi đặt ra cho giáo dục là làm thế nào để giáo dục thế hệ
trẻ một cách toàn diện, đặc biệt là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh
trong thời kỳ kinh tế hội nhập. Vậy cần có biện pháp ngăn chặn và khắc phục
tình trạng suy thối đạo đức đó. Nhà trường, gia đình và tồn xã hội phải kết hợp
và có chương trình hành động phối hợp tích cực để thực hiện giáo dục đạo đức,
3


để bảo vệ sự trong sạch, lành mạnh của đời sống đạo đức cho thế hệ trẻ. Đẩy
mạnh giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thơng là góp phần quan trọng vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như thế, giáo dục đạo
đức cho học sinh phổ thông gắn liền với mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, với
cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay.
Hiện nay, các trường THPT huyê ̣n Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cũng không
đứng ngoài thực tra ̣ng đó. Trong những năm qua, nhiều gia đình, chỉ tập trung
vào làm kinh tế không chú ý chăm lo đến việc học tập và tâm lý của các em.

Hàng loạt các hình thức trị chơi như đánh xèng, bi A, games, chát…đã thu hút
học sinh. Số thanh niên đã ra trường khơng có việc làm thường xun tụ tập, lơi
kéo học sinh bỏ học tham gia hút thuốc, uống rượu, sử dụng ma tuý, trộm cắp,
đánh nhau và nhiều tệ nạn khác, làm cho số lượng học sinh yếu về rèn luyện đạo
đức của trường ngày càng tăng.
Trước thực trạng này, những năm qua, việc giáo dục đạo đức đã được các
cấp, các ngành quan tâm. Đặc biệt là những người làm công tác giáo dục đã
quan tâm, đầu tư nhưng chưa coi trọng giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục đạo
đức. Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như nêu trên tôi lựa
chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh các trường THPT huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục đạo đức cho học
sinh, luận văn đã đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
đạo đức cho học sinh các trường THPT nói chung và học sinh THPT huyện
Kinh Mơn nói riêng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của các trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh
các trường THPT huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương từ đó góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục cho học sinh
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh ở các trường THPT
4


huyện Kinh Mơn, tỉnh Hải Dương cịn có những hạn chế. Nếu có những biện
pháp quản lý hợp lý, đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế, phát huy tối đa các
nguồn lực tham gia vào công tác giáo dục đạo đức sẽ góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Xác lập một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục
đạo đức học sinh các trường THPT
5.2. Phân tích và đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh
các trường THPT huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức học sinh các trường THPT huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được tiế n hành nghiên cứu các biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT huyện Kinh Môn,
tỉnh Hải Dương
- Người được nghiên cứu: Cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ
làm công tác Đồn, giáo viên bộ mơn và học sinh các trường THPT huyện kinh
Môn, tỉnh Hải Dương
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
+ Tổng hợp, phân tích các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tài liệu tạp
chí, sách, báo ...nói về giáo dục, giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, học
sinh THPT nói riêng.
+ Tìm hiểu lý luận về giáo dục, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục, quản lý
gáo dục đạo đức…
+ Xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát: quan sát thông qua các hoạt động của nhà trường
như sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt Đoàn thanh niên, sinh hoạt lớp chủ nhiệm….
+ Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để hỏi. Phiếu thiết
5


kế cho Cán bộ quản lý, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ cơng tác Đồn và học sinh ở
các trường trong huyện.

+ Phân tích tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Phương pháp này nhằm tổng
kết các biện pháp quản lý giáo dục đã thực hiện, đánh giá ưu, nhược điểm.
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ
+ Thống kê, biểu bảng, biểu đồ, sơ đồ: Đó là việc sử dụng phần mềm để sử
lý só liệu và trình bày theo hệ thống bảng biểu.
+ Phỏng vấn: Phỏng vấn CBQL đặc biệt là bí thư Đồn ở các trường về các
hoạt động của Đoàn thanh niên, sự tạo điều kiện của Hiệu trưởng, sự phối hợp
của các lực lượng giáo dục trong nhà trường trong việc tham gia giáo dục đạo
đức học sinh.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, phần nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT
Chương 2. Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở các trường
THPT huyện Kinh Môn – Hải Dương
Chương 3. Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở các trường
THPT huyện Kinh Môn – Hải Dương

6


CHƯƠNG I
CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Ở phương Đông từ thời cổ đại, Khổng Tử (551-479-TCN ) – nhà tư tưởng,
nhà giáo dục lớn Trung Hoa cổ đại đã nêu lên quan điểm của mình về giáo dục
đạo đức thơng qua các tác phẩm bất hủ của mình, trong đó có các tác phẩm:

“Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu” rất xem trọng việc giáo dục đạo đức.
Ở phương Tây, nhà triết học Socrat (470-399-TCN) đã cho rằng đạo đức
và sự hiểu biết quy định lẫn nhau. Có được đạo đức là nhờ ở sự hiểu biết, do vậy
chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành có đạo đức.
Aristoste (384-322-TCN) cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế áp
đặt để có người cơng dân hồn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện nhu cầu trên
trái đất mới tạo nên được con người hoàn thiện trong quan hệ đạo đức. .
1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà khơng có đức thì là người vơ
dụng”. Người coi trọng mục tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà
trường như: “Đoàn kết tốt”, “Kỷ luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà dũng cảm”, “Con
người cần có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính, mà nếu thiếu một đức tính thì
khơng thành người”.
Kế thừa tư tưởng của Người, trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức của nhiều tác giả trong nước đã
được công bố từ góc độ tâm lý học, giáo dục học.
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
có những đóng góp rất quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu này với các tác giả
Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm Tất
Dong và nhiều tác giả khác. Để đi đến các quan niệm và giải pháp về giáo dục
7


đạo đức, các tác giả đã lựa chọn cho mình những cách tiếp cận khác nhau, tạo ra
sự đa dạng, phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu. Tác giả Nguyễn
Đức Minh nghiên cứu và trình bày cơ sở tâm lý - giáo dục học của giáo dục đạo
đức. Tác giả Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức q trình giáo dục đạo
đức thơng qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa học xã
hội và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo
dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực

hiện các hành vi đạo đức cho học sinh.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để khảo sát
hành vi và hoạt động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân cách, thực
hiện giáo dục đạo đức trong q trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu
quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
Tác giả Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu cơ sở tâm lý học của hoạt
động giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp, gắn kết các hoạt động này với
giáo dục đạo đức nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức nghề nghiệp và lý
tưởng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ.
Có những tác giả tuy khơng đi sâu vào giáo dục đạo đức, nhưng khi bàn về
giáo dục đã đề cập tới giáo dục đạo đức. Ví dụ; Hồ Ngọc Đại, khi đề xuất "cơng
nghệ giáo dục", tìm kiếm những giải pháp hiện đại hóa (HĐH) "nền giáo dục
giành cho trăm phần trăm dân cư" đã cơng bố một số cơng trình có liên quan tới
giáo dục đạo đức.
Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận thức khoa
học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống và đưa ra
dự báo mơ hình nhân cách thanh niên năm 2000.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà giáo, nhà hoạt
động xã hội hết sức nhức nhối đối với hiện tượng suy thối, thậm chí băng hoại
đạo đức ở một số bộ phận thanh thiếu niên do tác động tiêu cực từ những mặt
trái của cơ chế thị trường và đã có nhiều bài viết đáng quan tâm.
Trong các cơng trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức từ sau Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986), cần kể đến một số đề tài như cơng trình mang mã số NN7:
8


"Cải tiến cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh,
sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân" do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm.
Đề tài NN7 đã mang lại nhiều nội dung mới về giáo dục đạo đức, chính trị và tư
tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học những năm đầu của thập kỷ 90

của thế kỷ XX
Trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, do nhận thức được tầm quan
trọng đặc biệt của nhân tố con người, nhiều nhà khoa học có uy tín đã tập hợp
trong chương trình nghiên cứu khoa học, cơng nghệ quốc gia KX.07 (1991 1995) do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm nhằm nghiên cứu các đề tài về con
người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Trong phạm vi của
chương trình nghiên cứu này đã xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo
dục đạo đức, phát triển nhân cách. Đáng lưu ý nhất là vấn đề giáo dục truyền
thống dân tộc và cách mạng đã được các tác giả đề cập và lý giải trên cơ sở
khoa học.
Trong những năm đổi mới, đồng chí Phạm Văn Đồng đã viết nhiều tác
phẩm nghiên cứu về Hồ Chí Minh và về giáo dục, thể hiện tâm huyết đối với
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ mà ông xem là chức năng quan trọng của nhà
trường. Ông đã viết: Nhà trường, từ mẫu giáo đến đại học là nơi rèn luyện, nơi
đào tạo con người trở thành những người được trang bị tốt về phẩm chất, đạo
đức, nghề nghiệp, phong cách và cống hiến, trở thành những người chiến sĩ của
một sự nghiệp vĩ đại xây dựng Tổ quốc ta, dân tộc Việt Nam ta, sự nghiệp nước
ta theo định hướng XHCN và tiến lên cao hơn nữa, tiến đến cái đích mà C. Mác
đã chỉ rõ: "Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp
của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [59, tr. 628]. Tác giả đã
kế thừa trực tiếp những thành quả nghiên cứu nêu trên đây, dựa vào những gợi
mở của các tác giả đi trước về lý luận và phương pháp để triển khai cơng trình
của mình.
Tuy nhiên, phải khẳng định khơng phải là ít nhưng vẫn tiếp tục nghiên cứu
cho phù hợp với thời đại. Cho đến nay, vẫn còn một số người vẫn nghiên cứu về
9


vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thơng được nghiên cứu và trình bày từ
góc độ lý luận chính trị - xã hội của chủ nghĩa cộng sản khoa học và hầu như

chưa có một chuyên khảo đi sâu vào đề tài giáo dục đạo đức cho học sinh phổ
thông trong điều kiện đổi mới hiện nay. Tác giả mong muốn và hy vọng góp
được một phần nhỏ bé của mình vào việc khắc phục sự thiếu hụt nói trên.
2. Một số khái niệm cơ bản
2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là hoạt động nảy sinh từ nhu cầu của cuộc sống của con người từ
khi có sự hợp tác và phân cơng lao động. Hoạt động của con người càng phong
phú, đa dạng, trình độ của người lao động ngày một nâng cao đòi hỏi cần có
trình độ quản lý, điều hành. Theo Các Mác “ Bất cứ lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào mà tiến hành trên quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là chức
năng chung của cơ sở sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan
độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sỹ độc tấu thì tự điều khiển lấy
mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Như vậy, theo C. Mác
thì quản lý là một hoạt động tất yếu trong bất cứ một hình thức lao động tập thể
nào nhằm điều hành, phối hợp những hoạt động của cá nhân nhằm đạt được
những mục tiêu chung của tập thể của tổ chức. Ơng ví hoạt động của tổ chức,
tập thể cần phải có hoạt động quản lý như dàn nhạc cần có người chỉ huy.
Do tính chất phong phú, đa dạng và phức tạp trong hoạt động của con
người nên có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý. Tùy theo cách tiếp cận
của các tác giả khác nhau mà có những quan niệm khác nhau về quản lý.
Theo tác giả Taylor, người đầu tiên nghiên cứu q trình lao động trong
từng bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa
thời gian lao động, sử dụng hợp lý nhất công cụ và phương tiện lao động nhằm
tăng năng suất lao động, cho rằng: “ Quản lý là nghệ thuật biết rõ chính xác cái
gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”
Cho đến nay, thuật ngữ “quản lý” được dùng rất phổ biến, nhưng chưa có
định nghĩa thống nhất. Có rất nhiều quan niệm khác nhau, có người cho rằng
10



quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo hoàn thành cơng việc do những người khác
thực hiện. Cũng có ý kiến cho rằng quản lý là phương thức tốt nhất để đạt được
mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ chức, một cơ quan, hay nói rộng
hơn là một nhà nước.
Quản lý theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng ( NXB Giáo Dục,1998) là: Tổ
chức điều khiển hoạt động của một đơn vị cơ quan.
Theo GS. Đỗ Hoàng Toàn : “ Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý để đạt được mục tiêu chung.”
(trích Giáo trình Hệ thống thơng tin trong quản lý giáo dục, trang 27).
H.Koontz thì khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của
nhóm (tổ chức).
Theo nghĩa rộng; quản lý là hoạt động có mục đích, hành động của những
người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Từ những ý chung của các định
nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.”( Bùi minh Hiền
(2009): Quản lý giáo dục. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội).
Theo Fayol, quản lý gồm các q trình: dự đốn và lập kế hoạch, tổ chức
điều khiển, phối hợp kiểm tra. Quản lý là thực hiện những cơng việc có tác dụng
định hướng, điều tiết, phối hợp các hoạt động của cấp dưới, của những người
dưới quyền. Biểu hiện cụ thể qua việc, lập kế hoạch hoạt động, đảm bảo tổ chức,
điều phối, kiểm tra, kiểm soát. Hướng được sự chú ý của con người vào một
hoạt động nào đó; điều tiết được nguồn nhân lực, phối hợp được các hoạt đông
bộ phận.
Theo O.V.Kollova “Quản lý là sự tính tốn sử dụng các nguồn lực hợp lí,
(nhân lực, vật lực) nhằm thực hiện các nhiệm vụ và đạt được kết quả tối ưu về
kinh tế xã hội”.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ trong tác phẩm: Những vấn đề cốt yếu
của quản lý, đã nêu: “Quản lý là một quá trình được định hướng, có mục tiêu.

Quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những
11


mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ
thống mà người quản lý mong muốn”
Theo tác giả Nguyễn Văn Lê trong tác phẩm “Khoa học Quản lý nhà
trường” đã định nghĩa: “Quản lý một hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật
tác động vào hệ thống đó, mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt được
hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đã đề ra”
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “ Quản lý là tác động có mục đích
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nhằm thực
hiện được những mục tiêu dự kiến”
Tóm lại: Quản lý là một q trình tác động có chủ đích của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý nhằm khai thác, lựa chọn, tổ chức, và thực hiện có hiệu
quả những nguồn lực và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu của tổ chức đã
đề ra trong một mơi trường có sự biến động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chủ
thể, đối tượng, mục tiêu, phương pháp và công cụ quản lý.
Có thể mơ hình hóa khái niệm quản lý bằng sơ đồ sau:

CHỦ THỂ QUẢN LÝ

MỤC TIÊU QUẢN LÝ

ĐỐI TƯỢNG
QUẢN LÝ

Sơ đồ 1.1: Mơ hình quản lý
Khi tiến hành quản lý cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc mục
tiêu; thu hút sự tham gia của tập thể; kết hợp hài hồ giữa các lợi ích; tiết kiệm

và hiệu quả cao; thích ứng linh hoạt; khoa học hợp lý; phối hợp hoạt động các
bên có liên quan.
2.1.1. Chức năng quản lý.
Quản lý là một hoạt động đặc biệt, có tính sáng tạo. Hoạt động quản lý
12


cũng phát triển từ thấp đến cao, gắn với quá trình phát triển, đó là sự phân cơng,
chun mơn hóa lao động quản lý . Sự phân công chuyên môn hóa lao động
quản lý là cơ sở hình thành các chức năng quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ
thể quản lý nảy sinh từ sự phân cơng, chun mơn hóa trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý.
Phân công gắn liền với hợp tác. Phân cơng, chun mơn hóa càng sâu, địi
hỏi sự hợp tác càng cao, mối liên hệ càng chặt chẽ với trình tự nhất định giữa
các chức năng quản lý.
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự
cơng việc của q trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể, là q
trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện. Vì vậy, quản lý thực
hiện các chức năng khác nhau, từng chức năng có tính độc lập tương đối nhưng
chúng được liên kết hữu cơ trong một hệ thống nhất quán. Chức năng quản lý có
các chức năng cơ bản sau:
* Chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng cơ bản nhất trong số các chức
năng quản lý, bao gồm xác định mục tiêu, xây dựng chương trình hành động và
bước đi cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trong thời gian nhất định của hệ thống
quản lý.
- Xác định mục tiêu là khâu đầu tiên của kế hoạch. Mục tiêu là cái đích mà
mọi hoạt động của hệ thống hướng tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ thống
phân cấp từ mục tiêu chung của hệ thống đến mục tiêu của các bộ phận, mục
tiêu của cá nhân và tạo thành cả một hệ thống mạng lưới các mục tiêu được phản

ánh trong các chương trình phối hợp chặt chẽ với nhau. Các nhà quản lý có thể
xác định một cách tốt nhất số lượng các mục tiêu xuất phát từ bản chất công việc
của hệ thống . Như vậy, mục đích của kế hoạch là hướng mọi hoạt động của hệ
thống vào các mục tiêu tạo khả năng đạt mục tiêu một cách hiệu quả và cho
phép người quản lý có thể kiểm sốt được quá trình tiến hành nhiệm vụ.
- Xây dựng chương trình hành động và bước đi cụ thể nhằm đạt các mục
tiêu, thực chất là lập kế hoạch trong quá trình thực hiện chức năng kế hoạch.
13


Tiền đề của kế hoạch là các dự báo. Lập kế hoạch là q trình lựa chọn cơ hội,
phân tích thực trạng của hệ thống, xây dựng phương án hành động và tổ chức
các phương tiện để đạt tới mục tiêu đã xác định. tồn bộ q trình trên đây là tổ
hợp các bước tiến hành, các nguồn cần sử dụng các phương tiện cần phải có để
thực hiện, được xây dựng cho các thời kỳ dài, ngắn khác nhau gọi là kế hoạc
ngắn hạn, kế hoạch trung hạn và dài hạn. Dù thuộc loại hình nào, kế hoạch cũng
phải thỏa mãn các yêu cầu sau đây:
+ Coi trọng khâu tiền kế hoạch gồm các hoạt động dự báo, điều tra, thăm
dị. Phân tích thực trạng của hệ thống nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc
xây dựng kế hoạch.
+ Hệ thống mục tiêu phải được xác lập có căn cứ khoa học từ mục tiêu cơ
bản đến mục tiêu cụ thể, mục tiêu ưu tiên cho từng thời kỳ và sát với thực tế,
đồng thời được gắn kết thống nhất giữa chính trị - xã hội.
+ Nội dung của kế hoạch một mặt, tạo thuận lợi và đồng bộ cho q trình
thực hiện, mặt khác có khả năng thích ứng với sự biến đổi của mơi trường bên
ngồi hệ thống.
Do đó thực hiện chức năng kế hoạch hóa tạo ra tầm nhìn chiến lược cho
nhà quản lý, giúp việc cho sự phát hiện và lựa chọn chính xác các chương trình
hành động phù hợp với các nguồn của hệ thống, làm giảm bất trắc, làm hạn chế
lãng phí do được tính tốn sắp đặt từ trước. Đồng thời chức năng kế hoạch là

căn cứ để hình thành và thực hiện các chức năng khác.
* Chức năng tổ chức
Tổ chức là xác định một cơ cấu chủ định về vai trị, nhiệm vụ hay chức vụ
được hợp thức hóa.
Chức năng tổ chức gồm có hai nội dung.
- Một là sắp xếp bộ máy đáp ứng được yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ
đảm nhận. Tổ chức bộ máy phải phù hợp về cấu trúc, cơ chế hoạt động, phù hợp
với khả năng để đạt được mục tiêu. Công việc tổ chức bộ máy là phân chia tổ
chức thành các bộ phận thực hiện các chức năng cụ thể và xây dựng cơ chế phối
hợp, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận nhằm đạt được sự đồng
14


bộ trong hoạt động.
- Hai là sắp xếp công việc hợp lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng để mọi
người hướng vào mục tiêu chung.
* Chức năng chỉ đạo
Tác động đến con người bằng mệnh lệnh, giao nhiệm vụ khuyến khích
động viên làm cho người được quản lý tự giác tích cực làm việc đúng kế hoạch
và nhiệm vụ được phân cơng, tạo động lực để con người tích cực hoạt động
bằng các biện pháp động viên khen thưởng và trách phạt.
* Chức năng kiểm tra, đánh giá:
Đây chính là cơng việc thu thập thơng tin ngược để kiểm sốt hoạt động
của bộ máy nhằm điều chỉnh kịp thời những sai sót, lệch lạc đưa tổ chức tiến
đến mục tiêu. Do đó chức năng kiểm tra, đánh giá diễn ra ở giai đoạn cuối cùng
của chu trình quản lý, nó bao gồm những nhiệm vụ chính sau đây:
+ Đánh giá thực trạng, xác định xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ
kế hoạch đã đạt được ở mức độ nào, kết quả phù hợp đến đâu so với dự kiến.
+ Phát hiện những lệch lạc, sai sót, những gì trong kế hoạch đã đạt được.
+ Điều chỉnh kế hoạch, tìm biện pháp uốn nắn những lệch lạc.

Trong quản lý chủ thể quản lý phải thực hiện một dãy các chức năng nối
tiếp nhau, từ việc xây dựng kế hoạch tới xác định mục tiêu phát triển cho tới
kiểm tra đánh giá các kết quả thực hiện và tổng kết q trình quản lý. Kết quả có
thể đạt được hoặc chưa đạt được các mục tiêu mong muốn. Trên cơ sở thông tin
thu được, nhà quản lý lại xây dựng mục tiêu phát triển mới cho tổ chức và một
chu trình mới lại tiếp tục. Tuy nhiên, các chức năng quản lý trên thực tiễn không
chỉ được thực hiên một cách tuần tự mà nhiều khi đan xen lẫn nhau. Thơng tin là
huyết mạch của quản lý, khơng có thơng tin thì các nhà quản lý khơng thể đưa ra
những quyết định kịp thời và đúng đắn. Chỉ có thơng tin chính xác về đối tượng,
nhà quản lý mới thực hiện tốt bốn chức năng quản lý.
Muốn tìm ra những sai sót, và lệch lạc trong quản lý cần phải tiến hành
kiểm tra thường xuyên hoạt động kiểm tra và kết hợp nhiều hình thức kiểm tra
khác nhau như kiểm tra trọng điểm, kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, kiểm
15


tra đột xuất…. từ đó có những đánh giá và đưa ra những điều chỉnh phù hợp.
Tóm lại, bốn chức năng trên, chức năng nào cũng quan trọng. Nhưng ở mỗi
chức năng đảm nhận vị trí, vai trị nhất định, trong đó chức năng kiểm tra, đánh
giá cũng là một khâu rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả của cơng tác quản
lý nói chung. Các chức năng này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, đòi
hỏi các nhà quản lý trường học phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá tập thể
giáo viên, học sinh thật chính xác, đồng thời hướng họ thành chủ thể của qúa
trình quản lý. Từ đó chủ thể quản lý tự quản lý quá trình dạy học – giáo dục của
mình. Do đó, các chức năng quản lý phải tạo thành một hệ thống thống nhất với
một trình tự nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối,
vừa có mối quan hệ phụ thuộc với các chức năng khác. Quá trình ra quyết định
quản lý là quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo một trình tự nhất định.
Việc bỏ hoặc coi nhẹ bất cứ một chức năng nào trong chuỗi các chức năng đều
ảnh hưởng xấu đến kết quả quản ký. Các chức năng tạo thành một chu trình

quản lý của một hệ thống.
Căn cứ vào chức năng và vai trị thơng tin trong quản lý, có thể biểu diễn
một chu trình quản lý như sau:
KẾ HOẠCH

CHỈ ĐẠO

THÔNG TIN

TỔ CHỨC

KIỂM TRA

Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ của các chức năng quản lý
16


2.1.2. Nguyên tắc quản lý
Nhận thức và vận dụng các quy luật trong quản lý là quá trình đi từ cái
chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể đề ra các nguyên tắc của quản lý.
Các nguyên tắc quản lý là các quy định, các chuẩn mực có tính chỉ đạo mà
những người quản lý phải tuân thủ theo trong quá trình quản lý.
Các nguyên tắc quản lý do con người định ra, vừa phản ánh các quy luật
khách quan nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan. Trong lịch sử hoạt động quản lý
người ta đưa ra nhiều nguyên tắc quản lý và mọi lĩnh vực họat động lại có những
nguyên tắc quản lý đặc thù. Trong quản lý nói chung, có một số nguyên tắc cơ
bản sau đây:
* Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Là nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý, phản ánh mối quan hệ giữa chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản lý.

Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập
trung thống nhất cao, khắc phục tình trạng tự do và vơ chính phủ cũng như tập
trung quá mức dẫn đến tập trung quan liêu. Tập trung phải trên cở sở dân chủ,
dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Đây là nguyên tắc rất
quan trọng của quản lý, nó có tính khách quan song thực hiện khơng đơn giản,
phụ thuộc vào bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
* Nguyên tắc hài hòa các lợi ích.
Quản lý suy cho cùng là quản lý con người nhằm phát huy tính tích cực
sáng tạo của người lao động. Song, động lực của quản lý, cả chủ thể và đối
tượng là lợi ích, do đó một ngun tắc quan trọng của quản lý là phải chú ý đến
lợi ích, trong đó lợi ích của người lao động là trực tiếp đồng thời thời chú ý đến
lợi ích của tổ chức và xã hội. Kết hợp hài hòa các lợi ích phải được xem xét và
đề ra ngay từ khi đề ra chiến lược, quy hoạch, kế hoạch kinh tế - xã hội, quá
trình hoạt động quản lý, đến khâu phân phối và tiêu dùng. Giải quyết tốt mối
quan hệ lợi ích trong quản lý sẽ đảm bảo cho hệ thống quản lý vận hành thuận
lợi và có hiệu quả, ngược lại, nếu quan hệ lợi ích bị rối loạn sẽ là nguyên nhân
của sự rối loạn tổ chức, phá vỡ hệ thống quản lý.
17


* Sử dụng toàn diện các phương pháp quản lý, kết hợp phương pháp hành
chính, tâm lý giáo dục và kinh tế, coi trọng phương pháp kinh tế
Đây là nguyên tắc thể hiện sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý thông qua việc vận dụng các quy luật tổ chức – hành chính, quy luật tâm
lý và quy luật kinh tế. Đối tượng quản lý là con người chịu sự tác động của
nhiều mối quan hệ, có nhiều mục tiêu nhiều nhu cầu khác nhau và luôn luôn
thay đổi theo không gian và thời gian. Do đó phải tùy theo đối tượng mà phải sử
dụng tổng hợp và toàn diện các phương pháp quản lý với sự thay đổi liều lượng
tác động một cách linh hoạt, phù hợp.
2.2. Khái niệm về quản lý giáo dục

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một hệ thống thành viên
trong hệ thống kinh tế xã hội. Để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục phải có
hoạt động quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội với
mục tiêu là đưa ra hệ thống giáo dục, một bộ phận của nó tiến đến mục tiêu đã
xây dựng. Vì vậy, có thể nói giáo dục là hiện tượng xã hội vĩnh hằng thì cũng có
thể nói như thế về quản lý giáo dục. Do đó, cũng như quản lý xã hội nói chung,
quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những
mục đích của mình. Trên cơ sở, khái niệm quản lý nói chung thì theo quan điểm
của từng người mà có những quan điểm khác nhau cũng có những định nghĩa về
Quản lý giáo dục khác nhau.
Quản lí giáo dục, theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong
xã hội. Q trình quản lý đó bao gồm các hoạt động giáo dục và có tính giáo dục
của bộ máy Nhà nước, của các tổ chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân.
Quản lý giáo dục, theo nghĩa hẹp bao gồm quản lý “hệ thống giáo dục”, là
quản lí hoạt động Giáo dục và Đào tạo diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã,
huyện, tỉnh, tồn quốc) và “Quản lý nhà trường”, là quản lí các hoạt động Giáo
dục và Đào tạo diễn ra trong các cơ sở giáo dục.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, thì “ Quản lý giáo dục là hệ thống tác
dụng có mục đích, có kế hoạch hợp với quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất
18


của nhà trường XHCN Việt nam mà tiêu biểu đến mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất”
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội". [3,24]
Có cùng quan điểm trên, tác giả M.I Kôn-đa-côp cho rằng: Quản lý giáo
dục là tập hợp tất cả các biện pháp tổ chức, kế hoạch hóa, cơng tác cán bộ,...

nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, để tiếp tục và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cũng khẳng định: "Quản lý giáo dục là hệ
thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản
lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện các
tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên
trạng thái về chất" [35,21].
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý giáo dục, song cơ
bản đều thống nhất với nhau về nội dung và bản chất của khái niệm này. Đó là
quá trình tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý và các yếu
tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục, nhằm thực hiện có hiệu quả mục
tiêu giáo dục.
Khơng những vậy, khái niệm “quản lý giáo dục” còn được hiểu ở nhiều cấp
độ khác nhau nhưng có hai cấp độ chủ yếu trong quản lý giáo dục thường thấy
là: cấp vĩ mô và cấp vi mơ.
Đối với cấp vĩ mơ: Quản lí giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục,
đào tạo thế trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
Đối với cấp vi mô: Quản lý giáo dục là một hệ thống những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
19


thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Quản lý giáo dục bao gồm chủ thể quản lý, khách thể quản lý và quan hệ

quản lý:
- Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý giáo dục các cấp.
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học.
- Quan hệ quản lý: là mối quan hệ giữa người dạy và người học; quan hệ
giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ giữa giáo giới với cộng
đồng.... Các mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng
hoạt động của nhà trường, của toàn thể hệ thống giáo dục. Quản lý giáo dục là
quản lý con người, con người có tri thức và văn hố. Chính vì vậy, để đạt được
mục tiêu mong muốn của của quản lý giáo dục địi hỏi phải có ngun tắc để chỉ
đạo. Xác định đúng mục tiêu, tạo ra sự ổn định và phát triển của hệ thống giáo
dục là một phần quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả
của công tác quản lý giáo dục.
Bốn yếu tố của quản lý giáo dục là: chủ thể quản lý, đối tượng bị quản lý,
khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Bốn yếu tố này được mơ phỏng thành sơ
đồ sau:
Chủ
thể
quản


Đối
tượng
quản


Mục tiêu
quản lí

Khách
thể

quản


Sơ đồ 1.3. Bốn yếu tố của quản lý giáo dục
Nội dung quản lý giáo dục bao gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban hành, tổ chức
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu
chuẩn cơ sở vật chất thiết bị trường học; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ
chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên; huy động quản lý các
20


nguồn lực
Tóm lại, trên cơ sở định nghĩa quản lý nói chung và phân tích các định
nghĩa trên: Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch, phù
hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm
khai thác tối ưu các nguồn lực và phối hợp những nỗ lực của cán bộ, giáo viên,
học sinh để phát triển sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu, quan điểm của Đảng.
Đồng thời, Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt hiệu
quả cao nhất.
2.3. Khái niệm về quản lý nhà trường phổ thông
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước
trong phạm vị trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.
Quản lý giáo dục có thể chia làm hai cấp độ là cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Quản lý giáo dục vĩ mô là quản lý cả hệ thống giáo dục bao gồm các thành tố
của hệ thống trong đó quản lý nhà trường là trọng tâm. Quản lý nhà trường là
quản lý giáo dục cấp vĩ mô.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc thì “ Quản lý nhà trường (Việt Nam) thực
hiện quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng (trong phạm vi trách nhiệm) trong
việc thực hiện các hoạt động khai thác, sử dụng, tổ chức thực hiện các nguồn lực
và những tác động của chủ thể quản lý đến các thành tố của quá trình giáo dục
diễn ra trong nhà trường, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để
đạt tới mục tiêu giáo dục – mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ”.
Khái niệm trên cho thấy mục tiêu của quản lý nhà trường là vận hành quá
trình giáo dục trong nhà trường theo quan điểm đường lối giáo dục của Đảng để
đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của nhân dân, phát tiển nhân cách toàn diện
cho người học đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Chủ thể quản lý nhà trường bao gồm các nhà quản lý giáo dục bên ngoài
nhà trường và chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm đội ngũ cán bộ
21


quản lý, công nhân viên chức, học sinh. Đối tượng quản lý nhà trường là các
thành tố cấu tạo nên quá trình giáo dục trong nhà trường.
Nhiệm vụ quan trọng của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu của sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, phù hợp với
xu thế tồn cầu hóa lực lượng sản xuất. Trong quản lý trường học, quản lý con
người là trung tâm số một. Nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là dạy học và
giáo dục học sinh.
Quản lý trường học là quản lý hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
học của học sinh. Các hoạt động của nhân viên nhà trường phục vụ việc dạy và
học, đảm bảo kết hợp với các lực lượng trong nhà trường nhằm thực hiện có
chất lượng và hiệu quả mục đích giáo dục.
Như vậy, quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong
phạm vi xác định của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ
giáo dục thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội.
2.4. Khái niệm về giáo dục

Để tồn tại và phát triển, lồi người khơng ngừng tác động vào thế giới
khách quan, nhận thức thế giới khách quan để tích lũy vốn kinh nghiệm. Mặt
khác, bất cứ một xã hội nào muốn tồn tại được nếu các thành viên của xã hội
tiếp nhận những kinh nghiệm mà lồi người đã tích lũy
Giáo dục được hiểu là hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó chỉ có trong xã hội
lồi người, là hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của nhân loại.
Giáo dục học sinh là đưa các em gia nhập vào các mối quan hệ xã hội mới
tổ chức cuộc sống, tổ chức và hướng dẫn các loại hình hoạt động và giao lưu của
học sinh, bao gồm cả việc chọn lựa các đối tượng hoạt động và quy định các
chuẩn mực giao lưu. Kích thích và điều chỉnh các phương thức hoạt động và
giao lưu của các em. Giáo dục là con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển,
bỏ qua những mị mẫm khơng cần thiết trong cuộc đời một con người.
Giáo dục có nhiều loại như giáo dục gia đình, xã hội và nhà trường thì giáo
dục nhà trường là quan trọng nhất. Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên
nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo, có nội dung chương trình
22


chọn lọc, có phương pháp phù hợp với lứa tuổi, có phương tiện kỹ thuật đặc thù
phục vụ giáo dục. Mục đích giáo dục của nhà trường phù hợp với yêu cầu xã hội
và thời đại. Giáo dục tạo nên bộ mặt tâm lý xã hội thời đại. Tuy nhiên cần phải
phối hợp giữa giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và giáo dục nhà trường thành
một thể thống nhất cùng thực hiện mục tiêu giáo dục đem lại hiêu quả cao trong
giáo dục. Không những vậy giáo dục ngoài việc bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp của con người cịn có thể giúp họ sửa chữa những sai lệch trong ý thức đạo
đức và hành vi của con người.
Hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác
động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối
sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho học sinh, giúp hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn

bị cho học sinh tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
2.4.1. Các chức năng của giáo dục
Giáo dục được coi là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này nảy sinh, tồn
tại, phát triển và tiến bộ cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội lồi người,
trong đó nổi bật lên là việc các thế hệ đi trước truyền thụ lại các kinh nghiệm
sống, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm hoạt động xã hơi nói chung cho các
thế hệ sau.
Các nhà giáo dục học đã chứng minh rằng: Từ thời cổ xưa cho đến nay, khi
nói đến giáo dục là người ta nói đến những tác động làm phát triển con người cả
về thể chất lẫn tâm hồn tức là dạy dỗ, bảo ban, ni nấng, chăm sóc. Xã hội
ngày càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng phong phú và việc truyền
thụ kinh nghiệm ngày càng được chun mơn hố dần. Trong xã hội dần dần
xuất hiện những nhà trí thức từ đó nghề day học ra đời. Như vậy về thực chất,
nếu xét theo phương diện lịch sử, giáo dục là hiện tượng xã hội trong đó thế hệ
trước truyền thụ cho thế hệ sau những kinh nghiệm lịch sử xã hội (chứa đựng
những giá trị văn hoá của xã hội, kinh nghiệm xã hội bao gồm: Những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, niềm tin, các thái độ …Tức là các chuẩn mực, các phương thức
và các phương tiện của các hoạt động và giao lưu của con người), thế hệ sau lĩnh
23


hội những kinh nghiệm xã hội đó biến nó thành kinh nghiệm của bản thân, thành
nhân cách của mình để có thể tham gia vào cuộc sống, tham gia vào hoạt động
lao động sản xuất và các hoạt động xã hội khác, cũng như các mối quan hệ xã
hội. Nếu xét về phương diện xã hội thì giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội
những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữa người này và người kia.
Trong quá trình lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch sử xã hội,
nhân cách được hình thành và ngày càng phát triển đầy đủ hơn. Trong q trình
đó các thế hệ sau khơng chỉ tiếp thu, lưu trữ, giữ gìn mà cịn phát triển gía trị
văn hố xã hội, do đó góp phần phát triển xã hội. Cho nên, sự kế tục các thế hệ đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội. Có thể nói việc truyền thụ và lĩnh hội những

kinh nghiệm đã được tích luỹ trong q trình lịch sử phát triển của xã hội lồi
người là nét đặc trưng cơ bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội.
Nó là nhu cầu sống cịn của con người, là chức năng khơng thể thiếu được của
xã hội loài người. Giáo dục nảy sinh là do nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội. Nhờ có giáo dục, các thế hệ đang lớn mới có thể tiếp tục duy trì và phát
triển hoạt động lao động sản xuất, các hoạt động xã hội khác cũng như các mối
quan hệ xã hội. Nếu khơng có giáo dục sẽ khơng có sự tái sản xuất ra các hoạt
động lao động, các hoạt động xã hội khác cũng như các mối quan hệ xã hội.
Các nhà giáo dục học đã xem giáo dục như là “q trình xã hội hóa“ liên tục
của con người. Đặc trưng của giáo dục được thể hiện ở chỗ : Được tổ chức và
định hướng tỉ mỉ, được tiến hành trong các tổ chức được hình thành vì mục đích
giáo dục con người, có những chuẩn mực được xác định một cách tương đối. Vì
vậy GD là một quá trình tác động có mục đích, có nội dung, phương pháp của nhà
giáo dục và đối tượng GD nhằm hình thành ở đối tượng GD những phẩm chất,
năng lực cần thiết. GD có vai trị chủ đạo cho sự phát triển nhân cách, thể hiện ở
chỗ: GD không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự phát triển nhân cách mà còn tổ
chức dẫn dắt hình thành và và phát triển nhân cách, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Khơng
những thế, GD có thể mang lại những tiến bộ cho cá nhân, có thể làm tăng nhanh
sự phát triển. Đồng thời hướng con người tới những hành vi đúng đắn.
Do giáo dục tác động đến con người cho nên nó cũng có khả năng tác động
24


đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến các quá trình xã hội mà con người là
chủ thể. Những tác dụng của giáo dục đối với các quá trình xã hội xét về mặt xã
hội học được gọi là những chức năng xã hội của giáo dục. Có 3 loại chức năng
xã hội của giáo dục : Chức năng kinh tế - sản xuất, chức năng - chính trị xã hội
và chức năng tư tưởng - văn hoá. Những chức năng này thể hiện vai trò của giáo
dục đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội về tất cả các mặt
* Chức năng kinh tế – sản xuất:

Các nhà nghiên cứu kinh tế học giáo dục đã chỉ ra rằng : Khoa học – Giáo
dục – Sản xuất là ba bộ phận hợp thành một cơ cấu thống nhất và trở thành nhân
tố quyết định đối với kết quả của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện phát
triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng cường mối liên hệ giữa
khoa học với sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng sản xuất trực tiếp
mà phải thực hiện sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản xuất. Mắt
xích quan trọng trong mối quan hệ này là quan hệ giữa giáo dục và sản xuất.
Lao động sản xuất dù có đơn giản đến đâu cũng cần phải có sự đào tạo, để
người lao động biết lao động có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp,
càng hiện đại càng cần phải có sự đầu tư vào việc đào tạo càng lớn. Hiệu quả
của nền sản xuất vật chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển chung về mặt
nhận thức và trình độ chun mơn của người lao động. Trình độ học vấn và
chun mơn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng những
thành tựu của khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến công cụ lao động,
biến lao động thành hoạt động sáng tạo. Vì vậy, quan hệ giữa trình độ của người
lao động với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ bản của nền sản xuất
hiện đại. Trình độ chun mơn của người lao động càng cao thì năng xuất lao
động càng cao. C. Mác đã từng làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục với sản xuất
trên nền tảng của sức lao động. Sức lao động xã hội, theo C. Mác chỉ tồn tại
trong nhân cách sống của con người. Giáo dục tạo nên sức mạnh bản chất của
con người do đó giáo dục được coi là phương thức tái sản xuất sức lao động xã
hội. Sức lao động đó có thể là những thành phẩm như kỹ sư, công nhân vv…hay
bán thành phẩm như học sinh. Trong mỗi giai đoạn giáo dục luôn cung cấp kịp
25


×