Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN đề CHÍNH SÁCH xã hội và CÔNG BẰNG xã hội TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.48 KB, 19 trang )

Chun đề
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CƠNG BẰNG XÃ HỘI TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
MỞ ĐẦU

Trong tiến trình cách mạng XHCN ở nước ta, có thể khẳng định rằng,
mục tiêu cao nhất trong toàn bộ hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng cộng
sản Việt Nam, của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhằm chăm lo lợi
ích, hạnh phúc của người lao động "lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" 1. Do đó, trong tồn
bộ chiến lược cách mạng XHCN, cùng với mục tiêu kinh tế, chính sách kinh
tế và các mục tiêu, chính sách trên các lĩnh vực khác, Đảng, Nhà nước ta luôn
quan tâm đến mục tiêu xã hội, chính sách xã hội phù hợp với từng thời kỳ
cách mạng. Trong các văn kiện đại hội, Đảng ta đều xác định: "Chính sách xã
hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người. Coi nhẹ chính sách xã hội cũng là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
XHCN" 2; "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
CNXH"3. Trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Cùng với đẩy
mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã
hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp" 4. Đồng thời, trong Văn kiện
Đại hội IX còn chỉ rõ: "Các chính sách xã hội phải được tiến hành theo tinh
thần xã hội hố, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các
nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội" 5.
1


Văn kiện ĐH VIII, Nxb CTQG, H. 1996, Tr. 85.
Văn kiện ĐH VI, Nxb ST, H. 1986, Tr. 86.
3
Cương lĩnh xây dựng đất nước..., Nxb ST, H. 1991, Tr. 13.
4
Văn kiện ĐH IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 33.
5
Văn kiện ĐH IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 34.
2


2
Những quan điểm trên của Đảng thể hiện đầy đủ từ khái niệm, vai trò,
nội dung, phương hướng nhiệm vụ và những giải pháp giải quyết các vấn đề
xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp: "Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN",
thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", cùng với những vấn đề kinh tế, mục tiêu kinh tế, chính sách kinh tế,
chính sách trên các lĩnh vực khác, Đảng ta cũng xác định rõ những vấn đề xã
hội bức xúc, mục tiêu cần đạt của chính sách xã hội trong thời gian tới.

Nội dung
I - VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở
NƯỚC TA

1. Những cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách xã hội trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Một số khái niệm
* Vấn đề xã hội.

Trong đời sống hàng ngày của xã hội, người ta ln thấy có những vấn
đề khác nhau hiểu theo nghĩa "đó là những khó khăn, trở ngại trong hoạt động
của con người cần khắc phục", điều đó xã hội nào cũng có. Từ khi lồi người
sống thành cộng đồng, hình thành các mối quan hệ xã hội thì cũng nảy sinh
các vấn đề xã hội khác nhau. Mỗi chế độ chính trị - xã hội nảy sinh các vấn
đề xã hội khác nhau và phù hợp với từng chế độ chính trị - xã hội đó. Đồng
thời ở mỗi chế độ chính trị - xã hội, ở mỗi thời kỳ nhất định, xã hội phải tiếp
tục giải quyết những vấn đề xã hội của thời kỳ lịch sử trước để lại cũng như
những vấn đề xã hội hiện tại và tương lai đặt ra. Trên tinh thần ấy, có thể hiểu
vấn đề xã hội: "thực chất là vấn đề con người, những vấn đề liên quan đến
điều kiện sống, điều kiện lao động của con người, mối quan hệ giữa người
với người và các nhóm ngành xã hội khác nhau".
* Chính sách xã hội.
Khi đề cập đến chính sách xã hội (CSXH), trong từ điển CNCS khoa
học, Nxb ST, H. 1986 có viết: "CSXH - một bộ phận cấu thành chính sách


3
chung của một chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định, nó bao
gồm việc giải quyết một phạm vi ít nhiều rộng rãi các vấn đề xã hội phù hợp
với thực chất giai cấp và những mục tiêu hoạt động của đảng đó, của chính
quyền nhà nước đó" (tr.44). Trong Văn kiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng
cộng sản Việt Nam chỉ rõ: "CSXH bao trùm mọi mặt cuộc sống con người:
điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hố, quan hệ gia đình,
quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội là coi nhẹ yếu
tố con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH" và trong một số công trình
khoa học khác cũng đề cập với ý nghĩa tương tự. Từ những quan niệm trên
có thể hiểu về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay là "một bộ phận trong
chính sách chung của Đảng, nhà nước; là tất cả những biện pháp chủ yếu
bao trùm lên mọi mặt cuộc sống con người nhằm giải quyết những vấn đề xã

hội, phù hợp với lợi ích của cơng nhân, nhân dân lao động và phù hợp với
mục tiêu của cách mạng XHCN". Khái niệm trên đây phản ánh một số nội
dung sau đây:
+ Trước hết, CSXH là một bộ phận cấu thành chính sách chung cùng với
các chính sách khác thực hiện thắng lợi những mục tiêu cách mạng của Đảng
cộng sản và nhà nước XHCN.
+ Hai là, CSXH trực tiếp giải quyết những vấn đề xã hội, từ xác định địa
vị con người trong xã hội đến hình thành, xác lập các điều kiện và nội dung
hoạt động sống của họ; từ việc hình thành và thực hiện các nhu cầu trong đời
sống đến việc phát huy những khả năng của con người nhằm đạt tới sự phát
triển toàn diện của các cá nhân. Đây cũng là phương hướng hoạt động cơ bản
của Đảng, Nhà nước ta và các tổ chức xã hội trong lãnh đạo và quản lý.
+ Ba là, thực chất của chính sách xã hội là phát huy yếu tố con người,
lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động của
Đảng và nhà nước, trong đó phục vụ con người là mục đích, phát huy yếu tố
con người là hệ quả.
* Những đặc trưng cơ bản của chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta.
- Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta ln lấy con người, các
nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác động để phát triển toàn diện
và hồn thiện con người.
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay mang tính xã hội, nhân văn và
nhân đạo sâu sắc.


4
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay thể hiện trách nhiệm rất cao,
hướng vào sự trợ giúp, tạo điều kiện để mỗi người tự vươn lên, hoà nhập vào
cộng đồng tạo nên hệ thống an ninh xã hội.
- Hiệu quả của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay là ổn định xã hội,

nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm cơng bằng xã hội.
- Chính sách xã hội ở nước ta hiện nay còn thể hiện tính kế thừa lịch sử. Kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: yêu nước, tương thân,
tương ái, đùm bọc giúp đỡ nhau, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa...
* Các loại chính sách xã hội và ngân sách đầu tư
Căn cứ vào tình hình đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định
một số loại hình chính sách xã hội như:
- Thứ nhất, chính sách xã hội được tính đến, được lồng ghép, được xây
dựng khi hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế.
- Thứ hai, chính sách cơ bản chung cho mọi đối tượng trong cộng đồng
như: giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội....
- Thứ ba, chính sách xã hội hướng vào giải quyết một số vấn đề gay cấn,
cấp bách hiện nay như: việc làm, xố đói giảm nghèo, đối với những người có
cơng với cách mạng, bảo trợ xã hội...
- Thứ tư, chính sách xã hội đối với một số đối tượng đặc biệt, như
thương bệnh binh, phụ nữ, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em lang thang
cơ nhỡ...
Những chính sách xã hội trên được huy động kinh phí từ các nguồn ngân
sách của nhà nước; hợp tác viện trợ quốc tế; của bản thân đối tượng, cộng
đồng đóng góp và kết hợp với nguồn từ chính sách kinh tế.
* Những cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách xã hội trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kinh nghiệm của q trình xây dựng CNXH, đặc biệt là của những
năm đổi mới đất nước vừa qua, cùng với những bài học kinh nghiệm của các
nước XHCN trên thế giới, trong quá trình xác lập chính sách xã hội, Đảng và
Nhà nước ta đều xuất phát:
- Từ mục tiêu cuối cùng có tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa cộng sản
là "đảm bảo phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả các



5
thành viên trong xã hội" 1. Cách mạng XHCN nói chung và ở nước ta nói
riêng đang từng bước đạt được mục tiêu ấy. Con người và nhu cầu của họ trở
thành mục đích của nền sản xuất xã hội, sự phát triển sức sáng tạo và năng
lực con người trở thành nội dung của tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không coi con người là phương tiện để thực hiện lợi
ích ích kỷ của một giai cấp nào, mà lấy nguyên tắc "Tất cả vì con người, tất
cả vì hạnh phúc con người" làm kim chỉ nam cho hành động.
- Từ tình hình thực tiễn ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo nền
văn hố mới XHCN, con người mới, lối sống mới phát triển mạnh mẽ đưa
con người Việt Nam từng bước vươn tới đỉnh cao về tinh thần và đạo đức.
Nền dân chủ ở nước ta ngày càng mở rộng, bảo đảm quyền lực thực tế
thuộc về nhân dân.
Cùng với xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, sự nghiệp đổi mới đất nước đã phát
triển lực lượng sản xuất một cách năng động có kế hoạch trên cơ sở áp dụng
những tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, từng bước bảo
đảm cho con người lao động làm chủ xã hội. Quyền bình đẳng giữa các công
dân, các dân tộc về quyền lợi và nghĩa vụ được bảo đảm bằng pháp luật.
Đồng thời Đảng và Nhà nước ta luôn tổng kết, bám sát thực tiễn phát hiện
những vấn đề xã hội mới nảy sinh, bổ sung kịp thời chính sách phù hợp với
nhu cầu cuộc sống xã hội đặt ra, chủ động phát huy mặt tích cực, khắc phục
mặt hạn chế trong q trình thực hiện chính sách xã hội.
- Từ vai trị của chính sách xã hội và quan hệ của chính sách xã hội với
chính sách kinh tế.
Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội IX của Đảng: "Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN", chính sách xã hội lại càng có
vai trò rất quan trọng. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta ln

coi chính sách xã hội là một chính sách trọng yếu trong hệ thống chính sách
chung, "CSXH đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội" 2 và trong Văn kiện Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Giải quyết tốt các
1
2

Lê nin, Toàn tập, Nxb TB, M. 1980, Tập 6, Tr. 293.
Cương lĩnh xây dựng đất nước..., Nxb ST, H. 1991, Tr. 13.


6
vấn đề xã hội được coi là một hướng chiến lược phản ánh bản chất ưu việt
của chế độ ta" 1.
Như vậy, CSXH thực sự là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống
chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện tốt CSXH, chính là đặt
đúng vị trí của yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
CSXH là một công cụ, là động lực cơ bản thúc đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ xã hội mà hạt nhân của nó là thực hiện cơng
bằng xã hội; đồng thời CSXH, còn là nhân tố bảo đảm sự ổn định về chính trị,
phát triển về kinh tế, về xã hội, về văn hố trong tình hình hiện nay.
Phương hướng cơ bản nhất của CSXH của Đảng, Nhà nước ta là phải thể
hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm về "sự thống nhất giữa chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, thực hiện đồng thời chính sách kinh tế và chính sách xã
hội. CSXH và chính sách kinh tế quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển về
kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện mục tiêu xã hội và những mục tiêu
xã hội lại là mục đích và động lực của hoạt động kinh tế. Thực tế chứng minh
rằng, không một chủ trương, chính sách và hoạt động kinh tế nào lại không
đem lại những hệ quả xã hội nhất định. Ngược lại, khơng một chính sách xã
hội nào lại khơng tác động đến hoạt động kinh tế. Chính sách kinh tế đúng

phải nhằm phục vụ các mục tiêu xã hội, CSXH chỉ đúng đắn khi được xây
dựng trên cơ sở của trình độ phát triển kinh tế và có tác dụng thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với CSXH phải được thể hiện
trong mỗi chính sách kinh tế, mỗi CSXH, trong cả nhiệm vụ bao trùm, mục
tiêu tổng quát của từng thời kỳ cách mạng, trong cả tư tưởng chỉ đạo của các
kế hoạch phát triển kinh tế và nhiệm vụ của CSXH. Điều này, ngay từ Đại hội
VI của Đảng cũng đã chỉ rõ: "Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất
để thực hiện CSXH, nhưng những mục tiêu xã hội là mục đích của các hoạt
động kinh tế. Ngay trong khn khổ của hoạt động kinh tế, CSXH có ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố
quan trọng để phát triển sản xuất" 2. Là sai lầm, nếu tách rời sự kết hợp giữa
chính sách kinh tế với CSXH, quan điểm kinh tế thuần tuý, hoặc quá nhấn
mạnh vấn đề xã hội, các mục tiêu về xã hội mà không căn cứ vào trình độ
phát triển và khả năng kinh tế.
1
2

Văn kiện ĐH IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 33.
Văn kiện ĐH VI, Nxb ST, H. 1987, Tr. 86


7
Những cơ sở lý luận thực tiễn trên phản ánh sự khác nhau căn bản với
những cơ sở của chính sách xã hội dưới CNTB. Dưới CNTB, chính sách xã
hội đó là tổng hợp những biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội do nhà
nước tư sản tiến hành đối với quần chúng nhân dân lao động. Với sự mơ tả
dưới hình thức "sự quan tâm" đến nhu cầu trong đời sống của người lao động
như: tiền lương, thất nghiệp, già nua, người nghèo đông con, người mất khả
năng lao động, nơi ăn chốn ở, về y tế, vấn đề giáo dục, vấn đề môi trường,

các bệnh hoạn xã hội... Nhưng thực chất chỉ là cái van bảo hiểm xã hội" để
lừa bịp, xoa dịu tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động. Đó chỉ là sự phản
ứng, thích nghi, là những biện pháp bổ sung cho sự áp bức bóc lột quần chúng
lao động và để củng cố địa vị thống trị của giai cấp tư sản mà thôi.
Ở các nước TBCN, trên thực tế chỉ nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế,
coi nhẹ mặt xã hội, con người. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới, nhất là
đối với các nước TBCN cho thấy, nếu chỉ nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế
mà không quan tâm đến giải quyết vấn đề xã hội thì sẽ dẫn tới hàng loạt tệ
nạn xã hội, bệnh hoạn xã hội. Chính tệ nạn xã hội đó đã trở thành lực cản kìm
hãm sự phát triển kinh tế, hơn nữa cịn đe doạ đến sự tồn vong của xã hội.
Điều này cũng đã có một số học giả tư sản đã nhận ra mặt trái của xã hội tư
bản. Thí dụ, như trong cuốn sách "giá trị phát triển tự do", Ri sắc bec nơ cho
rằng: "Trong các nền văn minh phát triển của chúng ta tồn tại tình trạng kém
phát triển thảm hại về văn hố, trí não, đạo đức và tình người"; Bredinxki thì
nói tới 20 khuyết tật của CNTB. Trong cuốn sách "cải cách cơ cấu nền kinh tế
thế giới", chị Gioiskơncơ thì cho rằng "Các nước tư bản đang ở tình trạng
khủng hoảng tồn diện, mấy chục năm nay tìm cách giải thốt bằng cải cách
cơ cấu, nhưng làm cho tư bản dấn sâu vào: tăng trưởng kinh tế kéo theo hàng
loạt vấn đề xã hội nghiêm trọng, thất nghiệp tăng dài hạn, nghèo đói tăng,
phân biệt chủng tộc tăng. Trong cuốn sách "Thế kỷ XXI nước Mỹ nhìn lại",
Đavít ham đis tan cho rằng "Nếu hạnh phúc 65 triệu người Mỹ dưới 18 tuổi
có 22% sống dưới mức nghèo đói, nạn đâm chém ngày càng tăng, thì sẽ thấy
bệnh hoạn của nước Mỹ". Cịn ơng Lý Quang Diệu khi đánh giá về nước Mỹ
thì cho rằng: "Nền văn minh nước Mỹ xuống cấp nghiêm trọng". Ơng nói:
"Là một người Đơng Nam Á, nhìn kỹ tơi lại thấy có sự hấp dẫn đối với
CNCS", bởi vì ở Mỹ tệ nạn mua sắm súng đạn, ma tuý, người sống lang thang
tăng và đơng. Theo tơi, đó là sự xuống cấp của một xã hội văn minh. Gần đây
một tài liệu của Mỹ mới công bố: ... 20% số dân là người giàu có chiếm 85%
tài sản của xã hội; 80% số dân là người nghèo chia nhau 15% tài sản còn lại;



8
35 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Hơn 6 triệu người thất nghiệp. Tình
trạng bạo lực cướp bóc, bắt cóc trẻ em, lối sống sa đoạ, loạn luân liên tục xảy
ra. Cả nước Mỹ có 200 triệu khẩu súng trong dân; mỗi ngày có gần 10 vạn
học sinh mang súng tới trường; cô giáo cho điểm xấu bị học sinh doạ giết. Cứ
5 người thì có một em khơng biết bố; 80% số cuộc hôn nhân đưa tới ly hơn..."
Nhìn sang khu vực thế giới thứ 3 với gần 170 nước, từ 1/2 thế kỷ nay,
các nước đang phát triển chiếm tới 3/4 dân số thế giới lần lượt thốt khỏi sự
áp bức, nơ dịch của chủ nghĩa thực dân và từng bước có sự phát triển với sự
giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức tài chính quốc tế.
Song, chỉ có một số rất ít trở thành nước cơng nghiệp, cịn đa số khơng thành
cơng, thậm chí thất bại. Trong cuốn sách "Những thành công và thất vọng",
nhà sử học người Pháp Pi ê so lát cho rằng: "các nước này bước vào cuộc
phiêu lưu phát triển kinh tế, thì đại đa số phải trả một giá rất đắt. Nghĩa là sai
lầm trong tồn bộ, trước hết là sai lầm về mơ hình. Mơ hình này chỉ tính đến
sự tăng trưởng kinh tế đã được phương Tây vạch ra. Mơ hình đó coi nhẹ con
người", và ông đã đưa ra một loạt những số liệu ở các nước Châu Phi, Châu
Á, Châu Mỹ để chứng minh sự nhận định của mình.
2. Phương hướng nhiệm vụ và những nội dung cơ bản cấp bách của
chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Phương hướng nhiệm vụ chính của chính sách xã hội trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta.
Những quan điểm về CSXH đã xác định trong Đại hội VIII của Đảng
như: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu...; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xố đói giảm
nghèo. Thu hẹp dần sự khác biệt giữa các giai tầng xã hội, giữa các vùng
miền...; phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc "uống nước nhớ nguồn";

đền ơn đáp nghĩa", "nhân hậu thuỷ chung"....; các vấn đề CSXH đều giải
quyết theo tinh thần xã hội hố, nhà nước đóng vai trị nịng cốt, đồng thời
động viên các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tham gia giải quyết vấn
đề xã hội" 1. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng
định "Hệ thống chính sách xã hội phản ánh những giá trị nhân văn của nền
1

Văn kiện ĐH VIII, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 113 - 114.


9
văn hố Việt Nam, thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói
chung và của từng cơng dân, điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội, nhằm mục đích cao nhất là
thoả mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Mọi chính sách xã hội được thực hiện theo tinh thần xã hội hoá" 1.
Đồng thời trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng còn nhấn mạnh: "Trong những
năm trước mắt, hệ thống CSXH hướng vào việc ổn định và lành mạnh hoá xã
hội, thực hiện cơng bằng trong phân phối, bình đẳng trong các quan hệ xã hội,
khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, làm cho người
nghèo trở nên đủ ăn, người đủ ăn thì khá giả hơn, người giàu thì giàu thêm;
điều tiết các quan hệ xã hội do tình trạng phân hoá giàu nghèo gây ra, khắc
phục dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn... 2.
Trong văn kiện “Báo cáo chính trị” trình bày tại Đại hội X, trên cơ sở kế
thừa và phát triển các quan điểm về cơ sở xã hội của các kỳ đại hội trước.
Đảng ta khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu
xã hội trên bình diện cả nước cũng như ở từng lĩnh vực, địa phương thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ cống hiến và hưởng thụ”.

Khuyến khích và tạo điều kiện để mọi người dân làm giàu chính đáng,
thực hiện có hiệu quả chính sách xố đói giảm nghèo... xây dựng hồn chỉnh
hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu.
Tăng nguồn đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và
thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá.
Để thực hiện phương hướng trên, nhiệm vụ chủ yếu của CSXH phải tập
trung vào: tạo cho quần chúng lao động những điều kiện sống, điều kiện lao
động, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hoá, chính trị và xã hội ngày càng
tốt hơn; hình thành những nhu cầu của con người theo những tiêu chuẩn hợp
lý, tạo ra những định hướng đúng cho hoạt động của con người, khiến họ phát
huy tối đa tính tích cực trong lao động, trong hoạt động xã hội, hoạt động
chính trị nhằm phục vụ xã hội, xây dựng và phát triển lối sống XHCN; điều
chỉnh các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, các tầng lớp và các nhóm xã hội
1
2

Văn kiện ĐH IX, Nxb CTQG, H 2001, Tr. 34.
Văn kiện ĐH IX, Nxb CTQG, H 2001, Tr. 33.


10
nhằm khơng ngừng phát triển, hồn thiện cơ cấu xã hội - giai cấp XHCN ở
nước ta.
- Những nội dung cơ bản cấp bách của chính sách xã hội trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Thứ nhất là, vấn đề dân số và việc làm.
Con người là vốn quý nhất, nhưng không phải phát triển bao nhiêu cũng
được, phải phát triển cân đối với trình độ kinh tế. Theo tính tốn của các nhà
kinh tế học, để đảm bảo mức sống như cũ thì nếu dân số tăng 1%, thu nhập
quốc dân phải tăng từ 3 đến 4%. Thực tế ở nước ta từ năm 1979 đến nay, dân

số tăng bình quân hàng năm là 2% nhưng thu nhập quốc dân chỉ tăng từ 4 đến
5%, nên đã gây ra mất cân đối gay gắt giữa tốc độ phát triển kinh tế với mức
tăng dân số. Dân số tăng nhanh cịn ảnh hưởng khơng tốt đến các vấn đề xã
hội khác, đến môi trường và hệ sinh thái.
+ Đảng ta luôn xác đinh: công tác dân số - kế hoạch hố gia đình vừa là
vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề xã hội. Do đó, phải đồng thời thực hiện với kế
hoạch phát triển kinh tế, kế hoạch phát triển xã hội. Trong các nghị quyết đại
hội, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội VIII, Đảng ta cũng xác định đây là một
trong những vấn đề cần giải quyết tốt trong những năm trước mắt. Tại Đại hội
IX của Đảng cũng xác định: "Tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số năm 2010 còn
khoảng 1,1 đến 1,2%, sớm ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý (khoảng 88
đến 89 triệu người vào năm 2010); giải quyết đồng bộ từng bước và có trọng
điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bổ dân cư.
+ Việc làm cho người lao động xã hội đang là vấn đề kinh tế - xã hội chính trị bức xúc, đặc biệt là đối với thanh niên. Ở nước ta, việc làm đang
chịu sức ép lớn của sự gia tăng dân số và nguồn lao động hàng năm bình quân
tăng từ 3,2 đến 3,5%, hàng triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Theo dự
báo của các nhà khoa học, sau những năm 2000, Việt Nam vẫn là nước dư
thừa lao động, vì: do chấn chỉnh bộ máy nhà nước, nên cũng có hàng triệu
người phải chuyển ra ngồi để tìm việc làm; hàng chục vạn người từ các nước
Đông Âu về theo thời hạn hoặc trước thời hạn; hàng vạn lao động xuất khẩu
bất hợp pháp nay tự nguyện hồi hương; hàng năm có hàng chục vạn bộ đội
xuất ngũ; học sinh bỏ học, sinh viên tốt nghiệp đại học chưa tìm được việc
làm... Vì vậy, giải quyết việc làm là một nội dung lớn, cấp bách ở nước ta


11
hiện nay. Trong những năm tới, cần tập trung làm tốt một số nội dung dưới
đây:
+ Tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động sử dụng, nhất
là nông nghiệp, nông thôn.

+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề.
+ Cải thiện các điều kiện lao động, bảo hiểm lao động, an tồn vệ sinh
lao động, phịng chống thiên tai, bệnh nghề nghiệp.
+ Phát triển các làng nghề (trên 1000 làng)
+ Đẩy mạnh đào tạo nghề.
+ Tổ chức, quản lý xuất khẩu lao động.
+ Hỗ trợ việc giải quyết việc làm cho nơng dân trong q trình đơ thị hố
của nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể xã hội.
+ Giải quyết việc làm cho người lao động thể hiện tính ưu việt của
CNXH. Việc làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, đến thái độ, đến tính tích
cực của người lao động. Việc làm cũng là mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã
hội, là tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn cơng nghệ. Vì vậy
cần có chính sách thích hợp đối với mỗi loại đối tượng, đảm bảo cho họ có
việc làm phù hợp với khả năng và trình độ đào tạo, phù hợp với nhu cầu của
xã hội. Nếu như trong Nghị quyết Đại hội VIII của Dảng xác định phải nhanh
chóng triển khai chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, hàng năm phải
thu hút từ 1,3 đến 1,4 triệu lao động... và phải giảm tỉ lệ thất nghiệp ở các
thành phố lớn xuống dưới 0,5%, thì trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng ta cũng đã chỉ rõ: đến năm 2010 nước ta có 56,8 triệu người ở độ tuổi
lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để giải quyết tốt việclàm
cần phải tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển
sản xuất, kinh doanh, phát triển thị trường lao động thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu lao
động (giữ mức ln có từ 45 - 50 vạn lao động ở nước ngoài).
Thứ hai là, xung quanh vấn đề xố đói giảm nghèo.
Chế độ XHCN mà chúng ta xây dựng là một chế độ như Bác Hồ nói:
"Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Phấn đấu cho một xã


12

hội khơng cịn nghèo đói đó là mục tiêu, là quyết tâm của tồn Đảng, tồn dân
ta, nó phản ánh bản chất tốt đẹp của CNXH, "xố đói giảm nghèo là một sự
nghiệp XHCN cao quý, phát huy truyền thống nhân ái, đùm bọc lẫn nhau,
thúc đẩy tiến bộ đồng đều khắp cả nước" 1. Tuy trong năm năm qua, với kết
quả đầu tư của Đảng, nhà nước, cùng với sự vươn lên của nhân dân, chúng ta
đã giảm từ 20% xuống 11% hộ nghèo, song hiện tại vẫn còn hàng nghìn xã,
hàng nghìn hộ nghèo, đặc biệt là có từ 1,2 - 1,5 triệu người phải thường xuyên
cứu tế; sự chênh lệch giàu nghèo có vùng có xu hướng tăng. Nếu những năm
70 - 80 chỉ chênh lệch từ 3 - 4 lần thì đến những năm 90 tăng lên 15 - 20 lần,
có nơi như vùng Tây Nguyên tăng tới 43 lần, ở Nam Bộ đặc biệt có vùng tăng
tới 100 lần. Đó là vấn đề xã hội bức xúc ở nước ta hiện nay. Để giải quyết tốt
vấn đề này, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Phấn đấu đến năm
2010 về cơ bản khơng cịn hộ nghèo. Thường xun củng cố thành quả xố
đói giảm nghèo".
Bằng nguồn lực của nhà nước và của toàn xã hội đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển
giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã
nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân đến
nơi có điều kiện thuận lợi và cịn tiềm năng để phát triển kinh tế; khuyến
khích mọi người vươn lên làm giàu hợp pháp, làm giàu chính đáng và giúp đỡ
người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người khơng cịn khả
năng lao động, khơng có người bảo trợ nuôi dưỡng.
- Thứ ba là, về tiền lương và thu nhập.
Đây cũng là vấn đề được các kỳ đại hội đề cập, đặc biệt là ở Nghị quyết
Đại hội IX. Trong Nghị quyết đã xác định rõ: "Các doanh nghiệp, kể cả doanh
nghiệp nhà nước, được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và năng suất lao động của mỗi người.
Nhà nước và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Xác
định hợp thức thuế thu nhập cá nhân. Tiến hành cải cách, cơ bản tiền lương
đối với cán bộ, công chức nhà nước. Tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương, điều chỉnh

tiền lương bảo đảm mức sống tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã
hội. Hệ thống thang, bậc lương bảo đảm tương quan, hợp lý khuyến khích
người giỏi, lao động có năng suất cao, thay đổi cơ chế tài chính đối với khu
vực sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chế độ tiền lương của khu vực này.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam - 70 năm xây dựng và trưởng thành.


13
Thông qua cải cách chế độ tiền lương, thúc đẩy việc tinh giảm biên chế bộ
máy công quyền.
- Thứ tư là, phát triển y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, đây là mục đích cao nhất
của CSXH và chính sách kinh tế, phản ánh tính hơn hẳn của CNXH so với
CNTB. Đồng thời nó phản ánh bản chất tốt đẹp của CNXH, rằng không chỉ
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần mà còn tạo điều kiện mọi mặt để bảo vệ
sức khoẻ cho nhân dân lao động. Trong bài diễn văn chào mừng 70 năm kỷ
niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 03/2/2000 đồng chí Lê Khả
Phiêu ngun tổng bí thư đã nói: "Dân cường nước thịnh. Tính ưu việt của
CNXH biểu hiện rõ nét trong sự nghiệp chăm sóc và bồi dưỡng sức khoẻ cho
con người Việt Nam. Dân tộc ta, nòi giống ta phải là một dân tộc, một nòi giống
cường tráng" 1. Trong văn kiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ
một số nội dung cần làm xung quanh vấn đề này là: Nâng cao tính cơng bằng
và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc vào bảo vệ sức khỏe
nhân dân; tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia; nâng
cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở các tuyến, chất lượng phòng chống dịch,
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, bảo vệ chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người bị di chứng chiến tranh, người nghèo, đồng
bào dân tộc ít người, người có cơng với cách mạng...; củng cố và nâng cấp

mạng lưới y tế cơ sở; thực hiện chính sách quốc gia về thuốc; đổi mới cơ chế
chính sách viện phí, có chính sách trợ giúp cho người nghèo được khám chữa
bệnh; mở rộng y tế tự nguyện, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân...
- Thứ năm là, về bảo hiểm và bảo trợ xã hội.
Vấn đề bảo hiểm và bảo trợ xã hội được đặt ra đối với mọi chế độ xã
hội. Song, dưới CNXH, giải quyết tốt vấn đề này là bản chất của CNXH. Xây
dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội là một bộ phận quan
trọng trong chính sách xã hội và thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay,
nó khơng những phản ánh bản chất của CNXH, mà nó cịn là vấn đề nảy sinh
từ nhu cầu cuộc sống cộng đồng và trở thành quy luật cuộc sống con người.
Hơn nữa, vấn đề bảo hiẻm, bảo trợ ở nước ta hiện nay cũng đang là vấn đề bức
bách, một mặt là do thực trạng kinh tế - xã hội còn thấp, mặt khác là do hậu
quả của chiến tranh để lại nặng nề. Trong lúc cả nước mới có khoảng 6 triệu
1

Đảng Cộng sản Việt Nam - 70 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb CTQG, H. 2000. Tr.
27-28.


14
người được bảo hiểm xã hội, thì cịn gần 40 triệu người chưa được hưởng; gần
40.000 bà mẹ Việt Nam anh hùng; gần 1 triệu thân nhân liệt sĩ; gần 2 triệu gia
đình và người có cơng với cách mạng; có 4,5 triệu người tàn tật; gần 1 triệu
người già cô đơn, trẻ em lang thang cơ nhỡ, mồ côi; khoảng hơn nửa triệu
thương bệnh binh... cần được cứu trợ. Đó là chưa kể đến số tội phạm, số
người bị nhiễm chất độc trong chiến tranh, số người về hưu hàng năm bình
qn xấp xỉ 1 triệu, trong đó có tới trên 50% thu nhập dưới mức tối thiểu và
có tới gần 80% số người về hưu vẫn phải lao động để ni sống gia đình... tất
cả số họ đều cần phải được xã hội quan tâm giúp đỡ. Rõ ràng, trong thời gian
tới, Đảng và Nhà nước ta cần phải hồn thiện chính sách ưu tiên ưu đãi đối

với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình và những người có cơng với
cách mạng, người về hưu sức khoẻ yếu, lương thấp cuộc sống khó khăn, thực
hiện việc đền ơn đáp nghĩa, giảm nhẹ nỗi bất hạnh của hàng triệu người tàn tật,
già yếu cô đơn không nơi nương tựa, gặp tai nạn hiểm nghèo. Thực hiện quyền
được bảo hiểm xã hội đối với mọi công dân kể cả khu vực hưởng lương và khu
vực không hưởng lương. Thực hiện thắng lợi tinh thần Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an sinh xã
hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp
nhân dân. Kết hợp sự trợ giúp của nhà nước với việc phát triển các quỹ từ
thiện, quỹ xã hội, quỹ đền ơn đáp nghĩa giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng
chính sách xã hội, nạn nhân chiến tranh, thiên tai, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt
và những người tàn tật, không nơi nương tựa. Bảo đảm người có cơng với nước
có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng xã, phường.
- Thứ sáu là, đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội và bệnh dịch AIDS.
Trong bối cảnh hoà nhập quốc tế và giao lưu rộng rãi với các nước trên thế
giới, việc phòng chống các bệnh hoạn xã hội ở các nước đang lây lan mạnh
vào nước ta cũng đang là vấn đề cần được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
quan tâm giải quyết. Thực tế với hàng trăm ngàn gái mãi dâm; hàng chục
nghìn người nhiễm HIV; số nghiện ma tuý đặc biệt trong thanh thiếu niên
chiếm từ 70 - 80% trong số nghiện hút; tội phạm xã hội ngày càng có chiều
hướng gia tăng... Thực trạng trên đang làm băng hoại thuần phong mỹ tục của
dân tộc ta. Do đó, trong Văn kiện Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: "Phòng
chống, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma tuý. Thực hiện cơ chế, giải
pháp đồng bộ về tuyên truyền, giáo dục, chữa trị, đào tạo nghề, tạo việc làm
và nghiêm trị theo pháp luật.


15
Đẩy lùi nạn ma tuý, mãi dâm kết hợp với giáo dục nếp sống lành mạnh
trong toàn xã hội, ngăn chặn đại dịch AIDS trong điều kiện phù hợp, đồng

thời giúp những người nhiễm HIV sống lao động có ý nghĩa trong cộng đồng.
Đề cao trách nhiệm tập thể, cá nhân lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, mặt trận, đồn thể đối với tình trạng tệ nạn xã hội trên từng địa bàn.
Phát huy vai trò của từng cá nhân, từng cộng đồng tham gia đấu tranh đẩy lùi
những tệ nạn này.
II - VẤN ĐỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở
NƯỚC TA

1. Thực hiện công bằng xã hội là một tất yếu của q trình xây
dựng CNXH.
- Quan niệm về cơng bằng xã hội (CBXH)
Khi nói về cơng bằng xã hội, Ăng ghen đã nói: "Cái gì tốt đối với giai
cấp thống trị phải là tốt đối với toàn thể xã hội và giai cấp thống trị với toàn
thể xã hội phải chỉ là một" 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng chỉ rõ:
"Nhân dân lao động là người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và
văn hố, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ" 2 .
Từ tư tưởng trên của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin, của
chủ tịch Hồ Chí Minh có thể rút ra kết luận về CBXH như sau: "CBXH là
thuộc tính bản chất của CNXH. Đó là sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
sự thống nhất về cống hiến và hưởng thụ, quyền hạn và trách nhiệm của mọi
thành viên trong xã hội được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội".
- Tính tất yếu của thực hiện cơng bằng xã hội.
+ Thực hiện CBXH là "nguyên tắc xuyên suốt của mọi quan hệ xã hội
XHCN". Trực tiếp điều chỉnh các quan hệ trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hố, xã hội; là yếu tố quan trọng của sự thống nhất dân tộc, ổn định
chính trị, phát triển tính năng động của xã hội; là dấu hiệu chủ yếu phản ánh
tính ưu việt của chế độ XHCN, phản ánh bản chất của CNXH, là cơ sở cho sự
phát triển xã hội XHCN, là hạt nhân của tiến bộ xã hội.
+ Thực hiện công bằng xã hội là nguyện vọng, ước mơ của xã hội loài người.
Thời Cổ đại, với ước mơ về một xã hội khơng có giàu và nghèo.


1
2

M.A, Tuyển tập, Nxb ST, H. 1971, Tập 2, Tr. 401.
HCM, Con người mới XHCN, Tr. 35.


16
Đến thời Trung đại, muốn có một giang sơn ngàn năm của chúa, mơ về
một nước "nước chứa ngàn năm", "mọi người đều được đối xử bình đẳng",
"khơng ai làm nơ lệ cho ai", "mọi người sinh ra đều bình đẳng".
Thời Cận đại, đặc biệt vào cuối thế kỷ XVIII, để tập hợp lực lượng
chống chế độ phong kiến đã từng kéo dài trong suốt thời kỳ Trung Cổ và trực
tiếp để bảo vệ chế độ TBCN, các học giả tư sản đã đề cập tới cái gọi là "tự do
- bình đẳng - bác ái" đối với giai cấp có của - giai cấp tư sản. Các nhà XHCN
khơng tưởng phê phán ở đầu thế kỷ XIX, tiêu biểu như Xanh xi Mông đã đề
cập đến "tổ chức một xã hội thế nào để có lợi nhất cho tồn xã hội về mặt tự
do và về sự giàu có". Xây dựng một "xã hội hài hoà", tức là sản xuất được tổ
chức tập thể trong các hiệp hội, sự hài hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể, mọi người đều có quyền lao động, quyền có tư liệu để sinh sống, lao
động làm thuê bị phủ nhận" - của (Phua ri ê); một xã hội tương lai với hình
thức "cơng xã". Cơng xã sẽ hợp thành liên bang trong phạm vi các dân tộc,
quốc tế... Dân cư trên trái đất sẽ trở thành một gia đình lớn, cùng một tiếng
nói, chữ viết và bình đẳng như nhau, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
tất cả các thành viên trong cơng xã" (ơ oen). Đó là những tư tưởng tiến bộ,
song con đường và lực lượng thực hiện ước mơ đó, các ơng lại khơng tìm ra
được.
Chỉ có học thuyết cách mạng, khoa học của Mác - Ăng ghen mới trình
bày một cách hồn chỉnh, đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về cơng bằng xã

hội. Lý luận đó được Lê nin bảo vệ, phát triển và biến thành hiện thực vào
đầu thế kỷ XX, công bằng xã hội đã được thực hiện trên thực tế ở các nước
XHCN hiện thực.
+ Thực hiện CBXH còn xuất phát từ bản chất của CNXH. Thuộc tính
bản chất của CNXH là CBXH. Trong suốt cuộc đời hoạt động lý luận và thực
tiễn của mình, Mác, Ăng ghen, Lê nin đã chiến đấu không mệt mỏi cho
CNXH, CNCS mà bản chất của nó là CBXH trên thực tế đối với nhân dân lao
động. Nó hồn tồn khác về chất với cái gọi là "tự do bình đẳng bác ái" dưới
CNTB.
+ Hơn nữa, chỉ có CNXH mới có đủ điều kiện về: 'tư tưởng, chính trị,
kinh tế, văn hoá... để thực hiện CBXH trên thực tế.
+ Thực tế cách mạng XHCN trên thế giới và ở Việt Nam chứng minh.
2. Nội dung và những vấn đề có tính nguyên tắc thực hiện CBXH.


17
- Về nội dung thực hiện CBXH. Xuất phát từ bản chất của CNXH,
CBXH phải được thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ăng ghen
đã chỉ rõ: "Dân chủ trong việc quản lý, hữu ái trong xã hội, bình đẳng về
quyền lợi, về giáo dục phổ thơng, tất cả những thứ đó sẽ chiếu rọi cho cái
giai đoạn cao sắp tới của xã hội, mà kinh nghiệm, lý trí và khoa học đang
khơng ngừng vươn tới" 1.
+ Trước hết nói thực hiện CBXH khơng phải là vấn đề trừu tượng hoặc
chỉ thực hiện trên một lĩnh vực nào đó, mà là thực hiện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...
+ CNXH là giai đoạn thấp của CNCS, đặc biệt là trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, thực hiện CBXH không phải là sự san bằng mọi sản phẩm cho các
thành viên theo kiểu bình quân chủ nghĩa. Phải căn cứ vào số lượng, chất
lượng sản phẩm của người lao động làm tiền đề cho phân phối. Lê nin đã từng
nói: "khơng được quan niệm về xã hội XHCN như một vương quốc bình

đẳng, bởi vì trong giai đoạn thấp của CNCS, sự bất bình đẳng có thể giảm tới
mức nhỏ nhất, nhưng khơng bao giờ có thể thủ tiêu hồn tồn được" 2.
- Những vấn đề có tính ngun tắc thực hiện cơng bằng xã hội trong
thời kỳ quá độ lên CNXH.
Để thực hiện CBXH trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay,
cần tn thủ một số vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất là, nắm vững và thực hiện tốt nguyên tắc phân phối cơ bản của
CNXH là "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, có sức lao động mà khơng làm thì khơng hưởng. Đây là nội
dung cơ bản cho việc thực hiện CBXH. Tức là, phải đi từ quy luật, từ thực
trạng kinh tế - xã hội; từ khả năng và kết quả lao động của người lao động - là
tiêu chuẩn chính xác về CBXH, đảm bảo cho người lao động được hưởng thụ
đúng theo số lượng và chất lượng lao động của họ. Nghị quyết Đại hội VIII
của Đảng ta chỉ rõ: "công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân phối...".
"Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu" 3.
Thứ hai là, coi trọng việc thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội. Trong
đó, tập trung thực hiện tốt các quyền công dân: quyền tham gia các hoạt động
1
2
3

M. A, Tuyển tập, Nxb ST, H. 1971, Tập 2, Tr. 402.
Lê nin, Toàn tập, Nxb TB M, H, Tập 33, Tr. 231.
VK ĐH VIII, Nxb CTQG, H. 1996, Tr. 92.


18
sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội; quyền có việc làm; quyền được hưởng
các phúc lợi cơng cộng; quyền bình đẳng nam nữ, bình đẳng dân tộc, bình

đẳng tơn giáo; triệt để thực hiện bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ...
Thứ ba là, thực hiện CBXH phải từ lợi ích giai cấp. Dưới CNXH, đặc
biệt trong thời kỳ q độ lên CNXH cịn có sự phân chia giai cấp. CBXH là
nguyên tắc xuyên suốt chi phối quan hệ lợi ích giai cấp và các tầng lớp xã hội;
sự CBXH khơng được loại trừ lợi ích, nhu cầu đa dạng của mỗi giai cấp, tầng
lớp xã hội. Song, phải hướng vào định hướng XHCN, vào xây dựng cơ cấu xã
hội - giai cấp XHCN, đề phòng và khắc phục sự chênh lệch quá lớn về thu
nhập giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội ở các khu vực kinh tế, dân cư.
Thứ ba là, kiên quyết đấu tranh chống những tiêu cực xã hội, vi phạm
CBXH. Trước hết, là chống những kẻ làm ăn phi pháp thuộc bất kỳ thành
phần kinh tế nào, bất kỳ ở cương vị nào. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ cho mọi công dân.
Thứ năm là, khôi phục, giữ vững trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội không những là nhiệm vụ cấp bách của chính sách xã hội,
mà cịn là vấn đề tác động trực tiếp đến thực hiện CBXH.
Để giữ vững trật tự, kỷ cương, bảo đảm an toàn xã hội phải sử dụng
đồng bộ các biện pháp: về kinh tế, giáo dục, hành chính, tổ chức, tạo sức
mạnh dư luận của quần chúng... Song, biện pháp trực tiếp quyết định là tăng
cường pháp chế XHCN.
Tóm lại, trên đây là những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội và
CBXH trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Trong những năm trước
mắt cần tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như tinh thần Nghị
quyết Đại hội VIII và Đại hội IX đề ra, đó cũng là góp phần thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN.
Nghiên cứu những vấn đề xã hội, chính sách xã hội và công bằng xã hội
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta có ý nghĩa to lớn đến việc xây
dựng Quân đội ta trong giai đoạn cách mạng mới.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng
chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội ta vừa là một bộ
phận của xã hội, vừa là đối tượng của chính sách xã hội. Đồng thời quân đội



19
cũng là một tổ chức thực hiện chính sách xã hội và công bằng xã hội trong
phạm vi, nội dung có liên quan.
Thực hiện tốt chính sách xã hội và CBXH có tác động trực tiếp đến nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đến sự nghiệp xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp phần bảo đảm cho
quân đội cùng các lực lượng vũ trang khác thực sự là lực lượng nòng cốt
trong củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện CSXH và CBXH trong quân
đội, cũng là vấn đề cần được sự quan tâm thoả đáng của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức xã hội và của toàn dân. Đồng thời bản thân quân đội phải nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong tổ chức thực hiện CSXH và CBXH theo quan điểm
của Đảng, Nhà nước phù hợp với khả năng cho phép.
Hiện nay, CSXH và CBXH trong quân đội bao gồm hai mảng lớn: "đối
với quân nhân tại ngũ và đối với hậu phương quân đội" phương hướng chung
là: tạo lập sự yên tâm xây dựng quân đội của những người đang tại ngũ; thu
hút những công dân ưu tú vào quân đội; xây dựng sự tương quan xã hội hợp
lý, khơng để có sự chênh lệch q lớn về mức sống giữa trong và ngoài
quân đội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Lê nin, Toàn tập, Nxb TB M, Tập 6, Tr. 293
Tập 33, Tr. 231
Tập 35, Tr. 339, 241
Tập 36, Tr. 236
Tập 39, Tr. 23 - 24
- Hồ Chí Minh, "Về con người mới XHCN", Tr. 35
- VK ĐH VI của Đảng CSVN (phần CSXH), Nxb ST, H. 1987, Tr. 185 - 193

- Nghị quyết TW 6 (khoá 6)
- Cương lĩnh xây dựng đất nước..., Nxb ST, H. 1991, Tr. 13 - 16
- VK ĐH VIII, Nxb CTQG, H. 1996, Tr. 85, 113 - 118
- VK ĐH IX, Nxb CTQG, H. 2001, Tr. 16, 17, 29, 33-35, 46, 69, 70,
104 - 108.



×