Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luật tục hôn nhân của người dao đỏ ở huyện bắc hà, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 90 trang )

BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
LUẬT TỤC HƠN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ
Ở HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

Khóa luận tốt nghiệp ngành
Người hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Khóa
Lớp

: QUẢN LÝ VĂN HĨA
: TS. NGUYỄN TUỆ CHI
: TRIỆU THỊ KHÉ
: 1505QLVB031
: 2015-2019
: ĐH. QLVH 15B

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan: Khố luận tốt nghiệp với đề tài “Luật tục hôn nhân
của người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai” là cơng trình nghiên cứu
của cá nhân tôi, các số liệu và kết quả trong bài nghiên cứu là tôi thu thập được
trong q trình nghiên cứu thực địa, trung thực, khơng sao chép của bất cứ ai.


Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm nếu đề tài có sự khơng trung thực về thơng
tin sử dụng cơng trình nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

TRIỆU THỊ KHÉ


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận của mình, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến TS.Nguyễn Tuệ Chi - Giảng viên hướng dẫn nghiên cứa đề tài. Người đã
định hướng đề tài, đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tơi trong suốt thời gian
qua, giúp tơi hồnh thành tốt bài nghiên cứu của mình.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ tư pháp xã Nậm Đét, cảm ơn bác
Triệu Phúc Nhuần-Thầy cúng chủ trì hơn lễ, cảm ơn cơ Triệu Thị Ghến-Bí thư
Đảng ủy xã Nậm Đét, đồng thời cảm ơn các ông bà, các bác, các anh chị và
người dân ở thôn Nậm Đét, xã Nậm Đét đã dành thời gian cho tôi, cùng tôi đến
khảo sát thực tế các bước, hướng dẫn tận tình các bước, tiến trình của hơn nhân.
Tạo điều kiện tơi tìm hiểu, thu thập tài liệu, hình ảnh, thơng tin cần thiết cho
khóa luận một cách thuận lợi nhất.
Trong q trình khảo sát và nghiên cứu tơi cịn gặp nhiều khó khăn. Mặt
khác, do trình độ nghiên cứu của tơi cịn hạn chế nên dù cố gắng song đề tài
của tôi không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vậy nên tơi rất mong
nhận được sự góp ý nhiệt tình của các thầy cơ, bạn bè, anh chị để đề tài của tơi
được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

TRIỆU THỊ KHÉ



DANH MỤC VIẾT TẮT

STT TỪ VIẾT TẮT

NGHĨA TỪ

1

BCH

Ban chấp hành

2

PGS.TS

Phó giáo sư tiến sĩ

3

Ths

Thạc sĩ

4

UBND

Ủy ban nhân dân


5

NXB

Nhà xuất bản

6

CT/TW

Chỉ thị Trung Ương


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT TỤC VÀ KHÁI QUÁT
VỀ NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ TỈNH LÀO CAI .................... 8
1.1. Một số khái niệm ................................................................................. 8
1.2. Tổng quan về người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai ............ 10
1.2.1. Tên gọi và địa bàn cư trú ................................................................ 10
1.2.2. Nguồn gốc lịch sử ........................................................................... 11
1.2.3. Đặc điểm về phong tục tập quán .................................................... 14
1.2.4. Đặc điểm về kinh tế ......................................................................... 19
Tiểu kết ..................................................................................................... 20
Chương 2. HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC VÀ QUY ĐỊNH TRONG
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO

CAI.................................................................................................................. 21
2.1. Quan niệm và nguyên tắc, quy định trong hôn nhân ......................... 21
2.1.1. Quan niệm về hôn nhân .................................................................. 21
2.1.2. Nguyên tắc trong hôn nhân............................................................. 22
2.1.3. Quy định trong hôn nhân ................................................................ 25
2.2. Quy định về chuẩn bị cho lễ cưới ...................................................... 29
2.2.1. Chuẩn bị lương thực, thực phẩm .................................................... 29
2.2.2. Chuẩn bị về trang phục................................................................... 30
2.2.3. Chuẩn bị sính lễ và quà tặng .......................................................... 33
2.2.4. Mời thầy cúng, đội kèn trống thực hiện nghi lễ.............................. 34
2.3. Quy định về trình tự thực hiện lễ cưới của người Dao Đỏ ở huyện Bắc
Hà tỉnh Lào Cai ......................................................................................... 36
2.3.1. Dạm ngõ (phun in) .......................................................................... 37


2.3.2. Ăn hỏi (nhản trai) ........................................................................... 38
2.3.3. Tổ chức đám cưới (Chấu xiên cha) ................................................ 40
2.4. Nét đẹp trong hôn nhân của người Dao Đỏ ....................................... 53
2.4.1. Hôn nhân của người Dao Đỏ mang tính giáo dục cao................... 53
2.4.2. Giá trị văn hóa truyền thống .......................................................... 53
2.4.3. Giá trị tín ngưỡng ........................................................................... 54
2.4.4. Tinh thần cố kết cộng đồng ............................................................. 54
Tiểu kết ..................................................................................................... 55
Chương 3. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG LUẬT TỤC HÔN NHÂN CỦA
NGƯỜI DAO ĐỎ VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN GIÁ TRỊ VĂN HĨA
TRONG HƠN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ,
TỈNH LÀO CAI............................................................................................. 56
3.1. Những biến đổi trong luật tục hôn nhân người Dao Đỏ ở huyện Bắc
Hà, tỉnh Lào Cai ........................................................................................ 56
3.1.1. Các yếu tố biến đổi ......................................................................... 56

3.1.2. Nguyên nhân sự biến đổi ................................................................ 61
3.2. Giải pháp, khuyến nghị nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị trong
hôn nhân của người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai hiện nay ...... 65
Tiểu kết ..................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 72


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lao Cai là vùng đất có nhiều danh lam thắng cảnh, là nơi sinh sống của
nhiều dân tộc thiểu số như H’mơng, Hà Nhì, Pa dí, Giáy, Phù Lá, Tày, Nùng,
Dao… tạo nên một bức tranh sống động, nhiều sắc thái văn hóa phong phú và
đa dạng. Trong đó dân tộc Dao có số lượng đơng thứ hai trên địa bàn tỉnh với
ba nhóm Dao Đỏ, Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng. Bắc Hà là một trong những
huyện có người Dao Đỏ sống tập trung đông nhất của tỉnh Lào Cai, đây cũng
là vùng bảo tồn được nhiều nét văn hóa dân gian lâu đời.
Là một người con dân tộc Dao Đỏ, sinh ra và lớn lên đã được chứng kiến
rất nhiều nghi lễ truyền thống của dân tộc mình, những nghi lễ gắn liền với
dòng đời của người Dao Đỏ như lễ Cấp Sắc, lễ Nhảy Lửa, đặc biệt là lễ cưới.
Mỗi nghi lễ đều ẩn sâu những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, những
giá trị văn hóa đó thấm sâu vào con người tôi, luôn nhắc nhở bản thân phải biết
giữ gìn những bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Những nghi lễ này tồn tại và
biến đổi theo dịng chảy của lịch sử, đến nay ít nhiều những yếu tố văn hóa
truyền thống cịn được lưu giữ, thay vào đó là các giá trị văn hóa hiện đại. Bản
thân tôi vừa là một người con dân tộc Dao Đỏ, vừa là một sinh viên ngành Quản
lý Văn hóa nên từ lâu tôi rất tâm đắc và tha thiết tìm hiểu, nghiên cứu cũng như
giới thiệu những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình đến với cộng
đồng bạn đọc.

Hôn nhân là một trong những nghi lễ mang đậm nét giá trị văn hóa truyền
thống nhất, thể hiện rõ phong tục tập qn, tơn giáo tín ngưỡng của người Dao
Đỏ. Tuy nhiên cuộc sống hiện đại đang ngày càng phát triển, một số giá trị văn
hóa truyền thống trong hôn nhân đã ngày càng bị mai một và khơng cịn được
lưu giữ. Điều đó địi hỏi sự quan tâm của chính các thế hệ lớp trẻ của người
Dao Đỏ, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, bài trừ các hủ tục lạc hậu trong
hơn nhân nói chung và người Dao Đỏ nói riêng.
1


Hiện nay quá trình hội nhập kinh tế, giao lưu văn hóa giữa các tộc người
đã và đang làm cho văn hóa giữa các tộc người, trong đó có người Dao Đỏ ở
Bắc Hà có những biến động mạnh trước những tác động của kinh tế, của giao
lưu, tiếp biến văn hóa. Đảng và nhà nước ta đã đề ra những đường hướng phát
triển văn hóa trong tình hình mới: “Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa Việt Nam theo hướng dân tộc, khoa
học và đại chúng” trong đề cương văn hóa năm 1943.
Theo chủ chương nghị quyết Hội nghị lần thứ V, BCH Trung ương Đảng
khóa 8 đã đề ra: “Chúng ta cần nỗ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đảng và nhà nước ta thừa nhận các dân tộc sống trên đất nước ta đều có những
giá trị và sắc thái văn hóa riêng và chủ chương tạo điều kiện cho các giá trị và
sắc thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam
và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ sự bình đẳng và phát huy đa
dạng văn hóa của các dân tộc anh em”1.
Từ những lý do nêu trên tôi lựa chọn đề tài “Luật tục hôn nhân của người
Dao Đỏ ở Huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai” làm đề tài khóa luận của mình
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về bản sắc văn hóa của dân tộc Dao đã được nhiều nhà khoa

học trong nước quan tâm. Đã có nhiều hội nghị, hội thảo về văn hóa Dao đã
được tổ chức ở một số quốc gia trên thế giới đã thu hút được sự chú ý của nhiều
ngành khoa học khác nhau. Ở Việt Nam, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề
cập đến các lĩnh vực khác nhau trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của
người Dao. Hơn nhân của người Dao đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến
đặc biệt có các cơng trình tiêu biểu như:
Tác phẩm “Kiến văn tiểu lục”, Lê Quý Đôn là một tác phẩm không chỉ
mô tả khá kỹ về nguồn gốc của người Dao, mà còn nghiên cứu về cuộc sống

. Văn kiện nghị quyết hội nghị lần thứ V, BCH trung ương khóa 8, 1998, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội

1

2


sinh hoạt hàng ngày cùng với việc ăn ở đi lại, những phong tục tập quán cuộc
sống di cư của một số nhóm người người Dao. Tác phẩm đã mang lại những
kiến thức cơ bản về bản sắc văn hóa tộc người, là tư liệu quan trọng trong việc
thực hiện khóa luận.
Hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về người Dao. Trong đó
đáng chú ý là cơng trình nghiên cứu của Phan Hữu Dật và Hoàng Hoa Toàn
“Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam”. Các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn
đề từ nguồn gốc lịch sử, dân số, văn hóa, kinh tế của các nhóm Dao. Tác giả
tìm hiểu về nguồn ngốc của người Dao, nghiên cứu về đời sống văn hóa vật
chất, văn hóa tinh thần ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của người Dao. Tuy
nhiên trong nghiên cứu này không thấy nhắc đến hơn nhân của người Dao Đỏ.
Bên cạnh đó, cuốn “Người Dao ở Việt Nam” của nhóm tác giả Bế Viết
Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến đã đề cập đến các
vấn đề, nguồn gốc lịch sử, phân loại các ngành Dao, các hình thái kinh tế, phong

tục, tơn giáo, tín ngưỡng. Ở cơng trình này, diện mạo người Dao được trình bày
khá tồn diện cả về lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó luật tục hôn nhân
của người Dao cũng được đề cập đến, nhưng chỉ được dừng lại ở việc giới thiệu
sơ lược.
Trong cuốn “Các Dân tộc thiểu số ở Việt Nam” của PGS.TS Trần Bình,
tác giả đã trình bày khái quát về các vấn đề như tên gọi, nguồn gốc lịch sử, dân
số, phân bố dân cư; các đặc điểm về xã hội và văn hóa truyền thống như bản
làng, dịng họ, trang phục dân tộc, ẩm thực, chữ viết, tín ngưỡng nghi lễ, văn
hóa cộng đồng; tập tục đời người như sinh đẻ, cưới xin, ma chay.
Trong nghiên cứu này có một điểm đáng chú ý, đó là tác giả đã nhắc đến
tập tục cưới xin của một số nhóm Dao như: Dao Tiền, Dao Đỏ, Dao Thanh
Phán, Dao Tuyển, Dao Thanh Y, Dao Quần Trắng, nhưng cũng chỉ dừng lại ở
mức độ sơ lược.
Hôn nhân của người Dao đã được nhắc đến trong nhiều luận án tiến sĩ và
luận văn thạc sĩ. Trong đó, Tác giả Lục Thị Soan với cơng trình nghiên cứu
3


“Hơn nhân và gia đình của người Dao ở huyện Nguyên Bình tỉnh Cao
Bằng”, luận văn thạc sĩ nhân văn, ngành lịch sử Việt Nam. Đây là cơng trình
nghiên cứu tương đối chi tiết về các nguyên tắc trong hôn nhân và các nghi lễ
trong hôn nhân của người Dao. Tác giả Chu Quang Cường với cơng trình
nghiên cứu “Hơn nhân của người Dao Họ ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai”,
Luận án tiến sĩ ngành nhân học. Tác giả đã đề cập đến những biến đổi trong
hôn nhân của người Dao Họ ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai. Nghiên cứu này
chỉ đi sâu tìm hiểu về hơn nhân của người Dao Họ ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào
Cai, đây là tài liệu quan trọng cho việc so sánh luật tục hơn nhân giữa nhóm
Dao Họ ở Bảo Thắng và Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
Trong cuốn “Tập tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ
Mông – Dao” của Ths. Đỗ Đức Lợi. Tác giả đã trình bày về các tập tục chu kỳ

đời người của dân tộc Dao nói chung, trong đó tác giả cũng đã đề cập đến những
nghi lễ theo chu kỳ đời người của người Dao Đỏ, từ lúc sinh ra, trưởng thành
và mất đi. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu trong chu kỳ đời người
của dân tộc Dao.
Cơng trình “Lễ cưới của người Dao Tuyển ở Lào Cai” của Trần Hữu
Sơn, tác giả đã phác họa khái quát về người Dao Tuyển ở vùng núi phía Bắc và
những nghi lễ trong hơn nhân của họ. Đây cũng là một tài liệu quan trọng cho
việc so sánh hôn nhân với người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai.
Tác phẩm “Văn hóa truyền thống của người Dao ở Hà Giang” của
nhóm tác giả Phạm Quang Hoan, Đình Hùng Q, đã cung cấp những thơng
tin q báu về các hình thức kết hơn, nghi lễ đám cưới và tập quán sinh đẻ của
hai nhóm Dao Đỏ và Dao Áo Dài để làm nổi bật nét văn hóa đặc thù riêng của
mỗi nhóm Dao.
Đáng chú ý là cơng trình “Thầy cúng trong văn hóa tín ngưỡng của
người Dao Họ” của Phan Văn Dương. Trong cơng trình này, tác giả khơng chỉ
mơ tả về các hình thức thờ cúng các nghi lễ hiện hành cũng như sự biến đổi của
chúng mà cịn phân tích khá sâu sắc về vai trị của thầy cúng trong đời sống văn
hóa của người Dao Họ ở tỉnh Lào Cai.
4


Như vậy, các cơng trình nghiên cứu trên đã ít nhiều đề cập đến những
nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Dao Đỏ trong đó có hơn nhân. Song
phần lớn các tác phẩm trên nghiên cứu trên một phạm vi rộng với những đặc
trưng văn hóa của người Dao nói chung. Nếu có nghiên cứu sâu thì lại đề cập
đến nhóm Dao khác, chưa có nghiên cứu nào đề cập một cách cụ thể những sắc
thái phong phú, đa dạng, đặc trưng văn hóa và những biến đổi trong văn hóa
hơn nhân của người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai.
Tuy nhiên, kết quả từ các cơng trình nghiên cứu trên là những tư liệu vơ
cùng q báu mà tơi có thể học hỏi, kế thừa để hồn thành bài khóa luận này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu
Luật tục hôn nhân truyền thống và những biến đổi của người Dao Đỏ ở
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian
Xã Nậm Đét huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai nơi cư trú tập trung của người
Dao Đỏ.
- Phạm vi về thời gian
Ngiên cứu những vẫn đề về luật tục hôn nhân người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà,
tỉnh Lào Cai từ năm 1986 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
- Tìm hiểu những nghi thức tiến hành trong luật tục hôn nhân của người
Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai để hiểu rõ những giá trị trong luật tục
hôn nhân truyền thống và chỉ ra những biến đổi trong đời sống hiện đại
- Đánh giá thực trạng về việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống
trong hơn nhân của người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
- Từ những biến đổi trong luật tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở xã Nậm
Đét huyện Bắc Hà, khóa luận đưa ra một số kiến nghị, giải pháp cho việc giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Dao Đỏ ở Bắc
5


Hà nói riêng và người Dao ở Việt Nam nói chung.
* Nhiệm vụ
- Khảo sát, nghiên cứu, luật tục hôn nhân truyền thống của người Dao
Đỏ ở xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
- Tìm hiểu những biến đổi các luật tục trong hôn nhân của người Dao Đỏ
ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai và chỉ ra những nguyên nhân của sự

biến đổi
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống trong hôn nhân của người Dao Đỏ
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu những tư liệu thành văn: Nghiên cứu, tìm hiểu
những tài liệu sách, báo, tạp trí, các cơng trình khoa học,…có liên quan đến
người Dao, văn hóa Dao và đặc biệt là hôn nhân của người Dao ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, so sánh: Bằng việc phân tích những tư liệu
thành văn các cơng trình nghiên cứu về người Dao ở các vùng miền và trên
cùng địa bàn để so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong hôn nhân
của người Dao Đỏ ở Bắc Hà với nơi khác.
- Phương pháp điền dã dân tộc học là phương pháp chủ đạo của đề tài,
với các kỹ thuật: Ghi chép, phỏng vấn, quan sát, chụp ảnh,…Thông qua nhiều
người khác nhau, tôi hiểu thêm được những quan niệm, nguyên tác, tiêu chuẩn
chọn vợ chọn chồng; những nghi lễ trong hôn nhân của người Dao Đỏ ở xã
Nậm Đét huyện Bắc Hà. Chỉ ra được những biến đổi trong cưới xin và nhìn
nhận của người Dao Đỏ về hơn nhân của dân tộc mình.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Nhằm thu thập các thông tin liên quan
đến quan điểm về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của giới trẻ hiện nay. Tiến hành
phỏng vấn sâu các đối tượng như thầy cúng về các vấn đề trong nghi lễ hôn
nhân; phỏng vấn các cụ về hôn nhân truyền thống; phỏng vấn nhóm thanh niên,
lớp trẻ và cán bộ quản lý để thấy rõ được những thay đổi trong hôn nhân người
Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà hiện nay.
6


6. Đóng góp mới của khóa luận
- Góp phần làm rõ thêm bản sắc văn hóa dân tộc Dao Đỏ và hiểu sâu hơn
về luật tục hôn nhân của người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào

Cai.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống của người Dao đỏ ở xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong việc nghiên cứu văn hóa Dao nói chung và Dao Đỏ nói riêng.
7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được chia làm 3 chương chính
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT TỤC VÀ KHÁI
QUÁT VỀ NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ TỈNH LÀO CAI
Chương 2.HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC VÀ QUY ĐỊNH TRONG
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI
Chương 3.NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG LUẬT TỤC HƠN NHÂN CỦA
NGƯỜI DAO ĐỎ VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN GIÁ TRỊ VĂN HĨA TRONG
HƠN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT TỤC VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI
DAO ĐỎ Ở HUYỆN BẮC HÀ TỈNH LÀO CAI

1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm luật tục
Luật tục là phong tục, tập quán trong quá trình hình thành và phát triển
của một cộng đồng dần dần chuyển hóa thành luật lệ, quy ước chung của cộng
đồng đó. Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương
được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi
trường và xã hội đã được định hình dưới nhiều dạng thức khác nhau, được
truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực hành sản xuất và thực

hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn, điều chỉnh và điều hoà các quan
hệ xã hội, quan hệ con người với môi trường thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy
được cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện tạo nên sự thống nhất và cân bằng
xã hội của mỗi cộng đồng [24].
Một điều dễ nhận biết là Luật tục vừa mang một số yếu tố của Luật pháp,
như quy định các hành vi phạm tội, các tội phạm, bằng chứng, việc xét xử và
hình phạt ..., lại vừa mang tính chất của lệ tục, phong tục, như các quy ước, lời
răn dạy, khuyên răn mang tính đạo đức, hướng dẫn hành vi cá nhân, tạo dư luận
xã hội để điều chỉnh các hành vi ấy. Như vậy, Luật tục như là hình thức phát
triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức phát triển sơ khai, hình thức tiền
luật pháp.
Với sự hiểu biết hiện nay, có thể phân chia các luật tục của các dân tộc
ở Việt Nam theo các dạng tồn tại khác nhau: Luật tục được cố định dướng dạng
lời nói vần (văn vần) được truyền miệng từ đời này sang đời khác; Luật tục đã
được cố định và ghi chép bằng văn tự, đó là hương ước của người Việt; Luật
tục hay Lệ tục đã tương đối định hình, những chưa cố định thành lời văn vần
hay thành văn bản, mà vẫn chỉ là sự ghi nhớ và thực thi của cộng đồng. Loại
này phổ biến ở hầu hết các tộc người, rất khó phân biệt nó với phong tục và lệ

8


tục cổ truyền. Dù tồn tại dưới hình thức nào thì hiện nay luật tục của các dân
tộc cũng đang đứng trước sự mai một, phá hoại bởi thời gian và con người [24].
* Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và
hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hơn nhân có thể là kết quả của tình u. Hôn
nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã
hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức bắt đầu của hơn nhân. Về
mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa

một người đàn ông được gọi là chồng và một người phụ nữ được gọi là vợ.
Ngoài ra cịn tồn tại một số biến dị của hơn nhân khác như: Hôn nhân đa thê là
việc một người đàn ông có thể kết hôn với nhiều vợ cùng lúc, hơn nhân đồng
tính là việc hai người cùng giới tính kết hôn, hôn nhân tạm là việc 2 người
chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, tảo hôn là việc người
chưa đủ tuổi nhưng vẫn kết hôn, hơn nhân cận huyết là 2 người có họ hàng gần
kết hôn với nhau [23].
Luật tục hôn nhân: Luật tục hôn nhân là những phong tục tập quán,
những quy định và ngun tắc được hình thành trong hơn nhân qua quá trình
phát triển truyền từ đời này sang đời khác. Những quy định và nguyên tắc đó
được đặt ra bởi cộng đồng, nhằm đưa vào đời sống hôn nhân cộng đồng dân
tộc đó đi vào thành một quy chuẩn luật lệ chung.
* Vai trò của luật tục trong đời sống xã hội người Dao Đỏ
Luật tục là sản phẩm xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội của mỗi
dân tộc, phụ thuộc nhiều vào trình độ, ý chí chủ quan của các thành viên sống
trong cộng đồng đó, trong đó có người đứng đầu (chủ làng, trưởng họ), do đó
Luật tục có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội của người Dao Đỏ.
Nội dung luật tục thể hiện tính nhân văn, tinh thần đồn kết, cộng đồng
dân tộc rất cao. Tuỳ theo từng dân tộc, nội dung của các luật tục thường quy
định các vấn đề liên quan đến điều chỉnh các mối quan hệ gia đình như: quan
hệ vợ chồng, con cái, cha mẹ, ông bà, anh chị em. Con cái phải thương yêu,
9


kính trọng, phụng dưỡng ơng bà, cha mẹ; anh chị em phải thương yêu đùm bọc
lẫn nhau; Hầu hết các luật tục đều khuyên dạy vợ chồng phải yêu thương quý
trọng lẫn nhau, sống với nhau thuỷ chung Các quy định của luật tục góp phần
điều hồ các mối quan hệ xã hội trong thơn, làng, xóm, quan hệ giữa các dịng
họ, giữ gìn trật tự an ninh, phịng chống các tệ nạn xã hội (trộm cắp, nghiện
ngập, ngoại tình,…) đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người.

1.2. Tổng quan về người Dao Đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai
1.2.1. Tên gọi và địa bàn cư trú
Người Dao ở Việt Nam có mặt tại nhiều tỉnh thành trong cả nước. riêng
ở Miền núi và trung du Bắc Bộ, hầu như tỉnh nào cũng có người Dao, xưa người
Dao được gọi là: Mán, Đơng, Trại, Dìu Miền, Kìm Miền, Lù Gang, Làn Tẻn,
Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu là một dân tộc có địa bàn
cư trú truyền thống là nam Trung Quốc, và lân cận ở bắc phần tiểu vùng Đông
Nam Á [1, tr.189].
Trong các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam, “người Dao xếp thứ 9 với
khoảng 751.067 người năm 2009” [1, tr.191], cư trú phân tán ở nhiều địa
phương chủ yếu ở các tỉnh miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào
Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh trung du như: Phú
Thọ, Vĩnh Phúc, Hịa Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y).
Ngồi ra, người Dao cịn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét
riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ
như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng [1,
tr.189].
Trong số 7 nhóm người Dao địa phương thì ở Lào Cai có 3 nhóm là: Dao
Đỏ, Dao Tuyển và Dao Nga Hồng phân bố tại các huyện Bắc Hà, Bảo Thắng,
Văn Bàn, Sa Pa, Mường Khương, Bát Xát, Si Ma Cai. Trong đó người Dao Đỏ
là nhóm có số lượng đơng nhất sinh sống tại Bắc Hà. Người Dao Đỏ ở Bắc Hà
sinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Nậm Đét và xã Nậm Mịn.
Trong đó tập trung đơng nhất là ở xã Nậm Đét, “tồn xã có 520 hộ, 2.619
10


khẩu với 4 dân tộc (Dao, Phù Lá, Mông, Kinh) chung sống đồn kết tại 8 thơn
bản (Tống Thượng, Tống Hạ, Cốc Đào, Bản Lùng, Bản Lắp, Nậm Cài, Nậm
Đét, Nậm Bó). Trong đó có 316 hộ gia đình là người Dao Đỏ chiếm 81% dân
số của xã, tập trung ở các thôn (Nậm Đét, Nậm Cài, Tống Hạ, Bản Lắp)”2.

Người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà tự nhận mình là Kiềm miền
(kiềm là rừng, miền là người, “kiềm miền” nghĩa là người sống ở trong rừng)
với 5 dịng họ chính là: họ Bàn, Triệu, Đặng, Lị, Lý. Người Dao Đỏ ở đây vẫn
duy trì tục thờ cúng Bàn Vương hàng năm để nhớ về quê hương cội nguồn của
mình.
Người Dao Đỏ ở đây làm nhà và sống ở lưng chừng núi, họ sản xuất, làm
nương, thổ canh trên hốc đá và canh tác ruộng. Cây lương thực chính của họ là
lúa, ngơ và các loại rau màu như bầu, bí, khoai. Người Dao Đỏ ở đây cũng có
nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức. Mặc dù sống
ở khu vực núi và địa bàn riêng biệt, nhưng phương tiện vận chuyển của đồng
bào Dao Đỏ ở đây vẫn có nhiều nét tương đồng với các dân tộc khác về chủng
loại, cách thức chế tác và chức năng sử dụng. Để chuyển hàng họ thường dùng
địu, có hai quai đeo phía sau, để lên rừng hái quả hoặc thu hoạch nông sản.
Người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, huyện Bắc Hà có đời sống văn hóa tinh
thần rất phong phú với nhiều phong tục, nghi lễ, nghệ thuật đặc sắc. Vẫn cịn
lưu giữ được những nét bản sắc văn hóa độc đáo riêng, cùng với nhiều phong
tục truyền thống tốt đẹp, như các nghi lễ tín ngưỡng, thờ cúng, hát giao duyên.
Đặc biệt trong sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc Dao vẫn mang tính
chất khép kín, thể hiện qua phong tục tập quán qua hôn nhân. Khi dựng vợ gả
chồng cho con cái, đồng bào Dao chỉ mong gả trong cộng đồng dân tộc mình.
1.2.2. Nguồn gốc lịch sử
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của người Dao. Năm
2005 học giả Xu Songdan thì tin rằng là ở tỉnh Giang Tô, vùng Chiết

. Tư liệu điền dã ngày 1 tháng 5 năm 2019

2

11



Giang. Những năm 1950, 1960 của thế kỷ 20 hầu hết các học giả ủng hộ là
người Dao là từ thời Tần và Hán ở Wuling, Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung
Quốc. Người ta cũng cho rằng, nó bao gồm các bộ phận của Hồ Bắc, Tứ Xuyên,
An Huy, Hà Nam, Giang Tây, Thiểm Tây, Quý Châu và các tỉnh khác. Năm
1980 xem xét lại vấn đề xuất xứ người Dao, các học giả đã được tranh luận là
từ nơi nào đó của Dongyi (Đơng Di, của tỉnh Sơn Đơng. Một số người lập luận
người Dao từ những người Việt cổ, nguồn gốc là Giang Tô, khu vực An Huy.
Một số người lập luận từ khu vực "Qiang long’’ ở Tứ Xuyên, Cam Túc [5, tr.5].
Ngoài ra cũng đã được lập luận là rằng nơi sinh của người Dao, Hmong,
"Ba Miao" là khu vực sông Dương Tử. Tháng 11 năm 2000, Hội nghị dân tộc
Dao Quảng Tây đã tổ chức một hội nghị chuyên đề dành cho vấn đề nguồn gốc
dân tộc Dao tại Huyện dân tộc Dao tự trị Cung Thành (Quảng Tây), người tham
gia (bao gồm cả học giả người H’mông) Sau khi thảo luận, và sự đồng thuận
đạt được là dân tộc Dao, Miao, Ba Miao có một mối quan hệ nguồn gốc chung,
ở nơi sinh của sơng Hồng Hà, khu vực sơng Dương Tử.
Với việc nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc người Dao, nên các nghiên
cứu phải dựa trên thúc đẩy phương thức sản xuất. Vì vậy ý kiến được chấp nhận
rộng rãi nhất là người Dao có nguồn gốc từ Wuling (võ lăng), Trường Sa của
tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, được đưa ra vào những năm 50, 60 của thế kỷ 20,
và được hầu hết các học giả đã chấp nhận. Tuy nhiên, điều này chỉ có một lịch
sử là người Dao có niên đại từ trước và sau thế kỷ 1 trước Cơng ngun. Vì
vậy, có khả năng là Hồ Nam khơng phải là ở nguồn gốc nơi sinh của người Dao
mà có thể chỉ là nơi mà người Dao từng di cư đến [5, tr.9].
Theo giáo sư Mạc Thời Giai, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Dao, Học
viện Dân tộc Quảng Tây (Trung Hoa), tổ tiên người Dao xưa có nguồn gốc từ
vùng Trung Nguyên (Trung Hoa), sau đó họ di cư theo hướng Đơng – Nam, rồi
xuống phía Nam. Cũng theo ông Mạc Thời Giai, tục thờ cúng Bàn Vương, có
ở nhiều cộng đơng có nguồn gốc Trung Ngun (nay con cháu họ đang sinh
sống ở Trung Hoa), không chỉ riêng có ở người Dao.

12


Các nhà dân tộc học Việt Nam đều khẳng định, người Dao có nguồn gốc
từ Trung Hoa, họ chỉ mới có mặt ở nước ta trong khoảng thời gian từ sau thế
kỷ XIII. Trần Quốc Vượng cho rằng người Dao là cư dân khởi phát từ nhóm
Đơng – Việt vốn ở đất Dương Châu và Kinh Châu xưa. Hiện nay khi làm ma
cho người thân, người Dao dẫn ma họ về quê hương ở Dương Châu. Theo các
tác giả của Người Dao ở Việt Nam, cộng đồng người Dao di cư đến Việt Nam
bằng đường bộ (XIII) và đường thủy (XIII – XX). Ngày nay trong ký ức, cũng
như khi làm ma, họ dẫn hồn người chết về quê cha đất tổ, phải đi bằng thuyền
qua biển [1, tr.190].
Để nhớ về nguồn gốc, người Dao Đỏ ở Nậm Đét thường kể lại những
câu chuyện dạng sáng thế ký như truyện quả bầu tiên, hay truyền thuyết về Bàn
Hồ.
Theo truyền thuyết Bàn Vương, chuyện kể rằng Bàn Hồ là con Long
khuyển từ trên trời giáng xuống và được Bình Hồng ni trong cung. Vì có
cơng giúp Bình Hồng đánh dẹp giặc Thổ Phồn, Bàn Hồ được lấy công chúa.
Hai người đem nhau đến núi Cối kê (Triết Giang – Trung Hoa) ở và sinh được
12 người con (6 trai, 6 gái). Bình Hồng ban sắc cho con cháu Bàn Vương thành
12 họ là Bàn, Đặng, Triệu, Mã, Lý, Lương, Trần, Vàng, Sèo, Lị, Hồng, Chấu.
Những dịng họ đó vẫn tồn tại phổ biến ở người Dao hiện nay. Ngày nay Bàn
Hồ vẫn được người Dao thờ cúng rất tôn nghiêm. Bàn Hồ cũng là một nhân vật
dân gian được biết đến ở nhiều dân tộc đang sinh sống ở Trung Hoa.
Chuyện quả bầu tiên lại kể theo nhiều phiên bản khác nhau. Theo lời kể
của bác Triệu Phúc Nhuần rằng: Ngày xưa có hai anh em mồ cơi cha mẹ phải
sống nương tựa vào nhau. Một ngày nọ có một con chim lạ bay đến trước nhà
kêu hót cả ngày bảo trồng bầu, thế là hai anh em cùng nhau ra vườn trồng bầu,
sau khi gieo trồng cây bầu nảy mầm lớn nhanh rồi cho ra quả. Khi có quả con
chim lại kêu vuốt quả cho lớn thế là hai anh em làm theo và quả bầu lớn nhanh

trong từng ngày. Đến một ngày nước lũ dâng lên ngậm đất trời hai anh em
khơng biết chốn đâu thì con chim kêu chui vào quả bầu, hai anh em lại làm theo
13


nước lũ dâng cao dâng đến tận thiên đình, đến cửa thiên đình nghe tiếng cầu
cứu Ngọc Hồng mới hạ lệnh rút nước, khi nước rút cả thế giới hoang tàn khơng
một ai cịn sống sót chỉ cịn hai anh em từ trong quả bầu chui ra. Hai anh em
cùng nhau đi vòng quanh thế giới đi mòn hết 12m gậy xà beng vẫn khơng tìm
thấy người nào cịn sống sót. Hai anh em khơng muốn lấy nhau nên mỗi người
ở một đồi làm nương rẫy riêng, nhưng do số phận đã định nên mọi thứ hai anh
em tạo ra đều kết lại với nhau, đốt lửa khói lửa ở hai ngọn đồi quấn vào nhau,
trồng tre hai ngọn tre ở hai đồi kết lại với nhau cuối cùng hai anh em đành phải
lấy nhau. Sau khi lấy hai người sinh con không thành con lại sinh ra một quả
bầu, thế là hai anh em bổ ra lấy hạt để riêng, lấy thịt để riêng, sau đó nhờ con
bọ hung đi ném theo lời dặn của hai anh em là nhớ ném thịt xuống đồng bằng
thành 12 dòng họ người Dao khi đó người Dao sẽ khơng phải vất vả lên rừng
làm nương làm rẫy khổ, còn ném phần hạt lên rừng núi thành 120 họ các dân
tộc khác. Nhưng khi đi được nửa đường bọ hung bị vấp ngã thế là quên lời dặn
và làm ngược lại lời hai anh em dạn, bọ hung ném thịt lên rừng nên thành 12
dòng họ Dao sinh sống các vùng miền núi như ngày nay, cịn hạt thì được ném
xuống đồng bằng nên các dân tộc khác có đất làm ăn nơi ở tốt 3.
Qua tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử của dân tộc Dao cho thấy người Dao
chủ yếu di cư từ nam Trung Quốc sang Việt Nam qua các thời kỳ. Đối với
người Dao Đỏ ở Bắc Hà, thông qua những câu chuyện kể về nguồn gốc của
người Dao cũng cho thấy được đặc trưng văn hóa thờ cúng thần, tín ngưỡng
tâm linh khi nhớ về cội nguồn của họ. Cũng chính từ nguồn gốc của dân tộc
mình nên người Dao có đời sống văn hóa tinh thần phong phú như ngày nay.
1.2.3. Đặc điểm về phong tục tập quán
* Nhà ở

Người Dao nói chung và Dao Đỏ ở Bắc Hà nói riêng ở nhà trệt thuộc
dạng kết cấu lắp ráp bằng mộng, có 12 cột ngỗm và 4 cột vì, mỗi vì được liên

. Tư liệu điền dã ngày 10 tháng 3 năm 2019

3

14


kết bởi ba cột, một quá giang và một bộ kèo đơn, tất cả các cột đều được chôn
chặt xuống đất. Vật liệu làm là gỗ thông, gỗ quế, lập bằng ngói, cửa được làm
bằng gỗ tốt. Ngồi ra cịn có một số ngơi nhà được xậy bằng gạch, xi măng kiên
cố. Nhà của người dao hiện nay khá là đa dạng xen lẫn những ngôi nhà truyền
thống là những ngôi nhà hiện đại.
Nhà của người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà tương đối thống
nhất và có nhiều nét cổ truyền. Được chia làm hai gian chính, một gian làm bếp
là nơi nấu ăn, để thóc gạo, các đồ dùng sinh hoạt và một gian là phòng ngủ với
4 góc mỗi góc để một gường, ở giữa là bàn thờ tổ tiên. Nhà thường có 3 cửa
chính đó là cửa vào bếp, cửa thơng giữ [phụ lục 1; ảnh 1].
Việc bố trí mặt bằng sinh hoạt nhà tương đối thống nhất và hiện còn
nhiều nét cổ truyền. Nhà có từ 2 đến 3 cửa vào, 2 của sổ, 1 bếp, nơi để đồ đạc
và nơi ngủ của từng thành viên được quy định khá chặt chẽ. Gian chính giữa là
nơi tiếp khách, đặt bàn thờ gia tiên; gian bếp ở cạch gian giữa, có cửa phụ đi
vào nơi có bể nước. Gian bếp được bố trí bếp nấu ăn, bếp lò nấu cám lợn, nước
ăn, các đồ dùng của nhà bếp, kho thóc gạo, cối xay, lị nấu rượu.
Với người Dao Đỏ ở Nậm Đét kiêng mở cửa chính về hướng Tây, rừng
ma và sơng suối. Trước khi dựng nhà, họ cúng để xin phép tổ tiên, thần linh,
thổ địa. Ngày dựng chọn theo tuổi của chủ nhà, kiêng các ngày mất của bố mẹ,
ông bà, kiêng ngày dỗ của dòng họ…Vào nhà mới là nghi thức quan trọng đốt

nhóm lửa mới ở nhà mới, sau khi đốt lửa lên thì mang nước, thóc gạo, bát đũa,
xoong chảo vào nhà mới. Việc sửa dụng mặt bằng, đi lại trong nhà đều được
bố trí chặt chẽ.
* Trang phục
Trang phục truyền thống của người Dao Đỏ rất đa dạng về kiểu hình may
thêu cả ở nam giới và nữ giới, bao gồm gồm áo, quần, khăn…
Đối với nam giới: trang phục của người Dao Đỏ ở Nậm Đét huyện Bắc
Hà thời xưa bao gồm: khăn quấn đầu màu đen được thêu hình cỏ cây, hoa lá,
thú vật; áo ngắn, cổ đứng, xẻ tà ống tay dài và hẹp, cài khuy vải ở ngực; quần
15


chân què, cặp lá tọa màu đen, dài đến mát cá chân. Hiện nay hầu hết nam giới
người Dao đều mặc quần theo kiểu của người Kinh, vì thoải mái và dễ hoạt
động.
Lễ phục thầy cúng của người Dao Đỏ ở đây gồm: áo (có 2 loại: áo ngắn
đến hơng, cài khuy vải ở ngực, có trang trí các loại hình hoa văn chữ thập, cỏ
cây, hóa lá sau áo, ống tay; áo dài quá đầu gối được may bằng vảy hoa, khơng
có ống tay, cài khuy bên sường, nửa thân dưới xẻ tà, ào này thường mặc khi
làm lễ tăng ma, lễ cấp sắc…), dây lưng (mầu đỏ, tím, xanh hai bên đầu dây
được đính các tua chỉ và hạt cườm nhiều màu), khăn quấn đầu màu đen được
trang trí hoa văn chữ thập, chim và hoa lá.
Đối với trang phục của phụ nữ người Dao Đỏ:
Phụ nữ Dao Đỏ ở Nậm Đét mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài, yếm,
váy hoặc quần, y phục thêu rất sặc sỡ. Bộ y phục của người phụ nữ Dao Đỏ ở
đây là chiếc áo được thiết kế dài đến gần đầu gối. Cổ áo được thiết kế theo hình
chữ V có thêu hoa văn, lưng áo cũng thêu hoa văn. Theo quan niệm của người
Dao Đỏ, nhìn vào cách thêu hoa văn ở phần đuôi áo của người phụ nữ sẽ biết
được người phụ nữ khéo hay khơng, có đảm đang hay không
Phụ Nữ người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, Bắc Hà để tóc dài, vấn quanh đầu,

đội khăn màu hoặc quấn khăn dài, áo dài tới ngang bắp chân, xẻ trước ngực,
nẹp cổ áo liền với nẹp hai tà thân trước, chính giữa thân sau có trang trí hình ấn
bàn vương, đi áo phía sau được trang trí các loại hình hoa văn như chim, cỏ
cây, hoa lá, thú vật. Mặc yếm bên trong được đính bạc (người Dao gọi đó là
cúc áo), yếm cũng được trang trí nhiều loại hình hoa văn như đi áo; đai màu
đỏ bằng vải thường hoặc vải lụa được quấn ngang eo; ống tay dày và được trang
trí hoa văn. Phụ nữ người Dao Đỏ ở đây thường mặc quần lụa hoặc mặc quần
vải theo kiểu của người dân tộc Kinh [phụ lục 1; ảnh 2].
* Ẩm thực
Với người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà, thường ngày họ ăn
cơm tẻ (hang shi), hạt dẻo, người dân ở đây gọi là gạo Mơng vì được lấy giống
16


từ người H’mông. Các ngày lễ tết, như cúng bái, làm lễ cấp sắc, các lễ hội thì
đồ xơi ăn (hang bụt/ hang chang).
Thường ngày họ ăn những món ăn như: thịt lợn xào hoặc luộc, thịt gà
xào gừng hoặc nấu canh gừng, thịt trâu, ăn thắng cố ngựa, nấu các món canh
rau rừng như: rau tầm bóp, rau cải, rau ngót rừng [phụ lục 1; ảnh 3]
Trong các ngày lễ tết người Dao Đỏ ở đây không thể thiếu món thịt quay,
gà luộc, bánh chưng (bánh gù), bánh rán, bánh giầy, bánh trơi, bánh sừng bị...
Tín ngưỡng và các nghi lễ
Đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Dao Đỏ ở đây rất phong phú.
Người Dao Đỏ cho rằng vạn vật hữu linh mọi vật đều có linh hồn nên họ thờ
cúng rất nhiều loại ma và thần linh, đó là: tổ tiên, Bàn Vương, thần lửa, thần
nước, thần suối, thần núi, thần hổ, thần sẫm sét, thần gió, thần thổ địa... Hàng
năm nguời Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, Bắc Hà lại thờ cúng kiêng kị các ngày của
các vị thần, không đi làm hay phát ra những tiếng động quá lớn làm ảnh hưởng
đến thần linh. Người Dao Đỏ cũng quan niệm có bao nhiêu loại thần linh thì có
bấy nhiêu loại ma.

Người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà cũng có nhiều nghi lễ gắn
với tín ngưỡng thờ cúng như: lễ Nhảy Lửa bầy tỏ lịng thành kính với thần linh
và cũng là lễ rửa tội và cầu mong một năm mới hạnh phúc bình an; lễ Cấp Sắc
là ghi lễ bắt buộc trong vòng đời người của người Dao Đỏ, nghi lễ này có nghĩa
là báo cáo với tổ tiên, với thần linh rằng người con trai đó đã trưởng thành và
cầu mong sự dìu dắt chỉ bảo và ủng hộ của thần linh, nghi lễ này còn mang ý
nghĩa giáo dục con cái phải sống hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu con người,
lồi vật, khơng được gậy tột ác…; ngồi hai nghi lễ chính trên cịn có các ghi
lễ cộng đồng như: tết nguyên đán, tết thanh minh, rằm tháng bảy, lễ cúng Bàn
Vương, lễ tang ma, lễ cưới…
* Văn nghệ dân gian
Văn nghệ dân gian của Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà rất phong
phú và đa dạng với nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như: Múa (có múa
17


khăn, múa quạt, múa nón, múa chng trong các lễ hội và các ghi lễ cũng bái
thường dùng chuông để múa theo lời hát cúng của thầy cúng); Hát (páo dung),
như bài hát giao duyên, hát đối đáp tình cảm nam nữ thường được vang lên
trong các lễ hội và lễ cưới, có bài hát để tìm bạn nối dun, hát về đời sống lao
động sản suất, hát ru con, hát đố vui và hát về số phận và cuộc đời con người,
họ có thể hát vào bất kỳ thời gian nào. Khi trong làng có khách cùng dân tộc
đến họ thường tổ chức hát đối đáp giao duyên vào ban đêm. Trước tiên nếu
khách là con trai thì con gái trong làng hát khiêu khích khách bằng nhiều lời lẽ
trêu trọc, buộc khách phải hát đáp lại. Sau đó hai bên hát đối đáp đến sáng, còn
những người trong làng thích nghe hát thì kéo đến nghe và đáp lại.
Về truyện cổ tích, có rất nhiều chuyện cổ tích kể về những địa danh gắn
liền với các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của vùng như: chuyện kể về Bàn
Vương là cha tổ của người Dao, người sinh ra cho cháu sau này, chuyện san
lợn rừng (hìa tủng cấu), chúa sơn lâm (lào mào cấu), cậu bé mồ cơi (cờ hàn ton

cấu), mụ phù thủy (cú trịng cấu), bảy nàng tiên (sỉa mùa sía), rắn thần (năng
shia cấu)…Bất kỳ một con vật, sự vật nào của người Dao đều gắn liền với một
câu chuyện cổ tích.
Nhạc cụ dân tộc Dao Đỏ ở xã Nậm Đét huyện Bắc Hà cũng hết sức phong
phú, có nhiều loại nhạc cụ khác nhau, mỗi gia đình thầy cúng người Dao Đỏ ở
đây đểu có ít nhất một bộ bao gồm: Trống (dổ), Kèn Pí Lè (phờ tị), Chiêng (lị),
Chúm Chọe (sèo shay), chng lắc (lình), kím; Hội họa (nghệ thuật họa tiết mĩ
thuật được thể hiện rõ trong các bức tranh thờ cúng, vẽ về các vị thần linh, Bàn
Vương được sử dụng trong lễ cấp sắc).
Ngồi ra cịn có tri thức bản địa, đối với người Dao Đỏ ở đây, họ sử dụng
và sưu tầm các quyển sách nho trong việc xem ngày lành tháng tốt để ăn hỏi,
cưới xin, cúng bái, làm ăn, làm nhà, xem lịch... họ biết tận dụng các nguồn
nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên để sinh sống, biết khai thác làm ruộng bậc
thang, biết bài chế thuốc nam có hiệu quả chữa bệnh tốt và dưỡng sinh cao.
Người Dao Đỏ ở đây là một trong những dân tộc có nhiều kinh nghiệm sử dụng
18


các bài thuốc vào phòng chữa bệnh cho người dân. Đặc biệt, thuốc tắm cho sản
phụ sau khi sinh, phải 72 vị, các vị thuốc này giúp sản phụ nhanh chóng sạch
sẽ, lại sức nhanh, tinh thần thoải mãi và phịng được nhiều loại bệnh. Người
Dao khơng giữ bí mật về cây thuốc, họ thường tặng cho những người họ quý
trọng [phụ lục 1; ảnh 4].
1.2.4. Đặc điểm về kinh tế
Người Dao Đỏ ở xã Nậm Đét, Bắc Hà sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa
nương và ruộng nước, người Dao Đỏ ở đây chỉ trồng vụ mùa. Ngoài lúa họ cịn
trồng hoa màu như ngơ, khoai, sắn, lạc.
Vì địa hình sống chủ yếu là đồi núi nên người Dao Đỏ ở đây có thế mạnh
phát triển về lâm nghiệp. Cây trồng chủ yếu là cây Quế, mỗi gia đình đều có
vài ha quế, và có thu nhập quanh năm. Nhờ trồng cây Quế mà đời sống người

Dao Đỏ ở đây đã từng bước được cải thiện và nâng cao. Theo cơ Triệu Thị
Ghến – Bí thư Đảng ủy xã Nậm Đét cho biết “với mệnh danh là cây tiền tỷ, mọi
thành phần của cây quế đều mang lại giá trị, cây quế ngoài bán vỏ, bán thân
làm cây, cây chống cốp-pha, thì cành, lá… cũng được người dân tận dụng để
chiết xuất tinh dầu quế, giúp người dân trồng quế thu từ vài trăm triệu đến cả
tỷ đồng mỗi năm. Trong năm 2018, người dân trong xã Nậm Đét đã khai thác,
tỉa thưa đem về con số kỷ lục, với thu nhập 42 tỷ đồng từ bán quế”4. Cây quế
được đưa vào trồng ở Nậm Đét, Nậm Mòn từ năm 1975. Đến nay, tồn xã Nậm
Đét có 1.400 ha quế, với khoảng 400 hộ tham gia và được trồng ở hầu hết các
thôn trong xã. Để đảm bảo diện tích quế khai thác, mỗi năm, người dân trong
xã trồng mới từ 50 - 60 ha và trồng lại hàng trăm ha sau khai thác.
Nhờ có sự quan tâm của Đảng, nhà nước trong phát triển kinh tế, đời
sống của người dân từng bước được cải thiện, dân trí ngày càng được nâng cao.
Các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan được đẩy lùi, thay vào đó là những giá trị văn
hóa truyền thống vẫn được lưu giữ và có bước hội nhập, tiến bộ trong cơng tác

. Tư liệu điền dã ngày 1 tháng 5 năm 2019

4

19


×