Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tư tưởng của Các Mác về vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.6 KB, 11 trang )

KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

TƯ TƯỞNG CỦA CÁC MÁC VỀ VAI TRỊ CỦA KHOA HỌC VÀ
CƠNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG HIỆN NAY
Đinh Thị Hoàng Phươnga*
a

Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
*
Tác giả liên hệ: Email:

Tóm tắt
Nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội loài người thông qua hoạt động sản
xuất vật chất, C.Mác đã khẳng định khoa học và công nghệ là yếu tố hàng đầu thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trị
của khoa học và cơng nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Lâm Đồng đã, đang
vận dụng vào địa phương. Kết quả thực tiễn đã chứng minh khoa học và cơng nghệ có đóng
góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ngày càng khẳng
định vai trị là động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế của tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Từ khóa: Sự phát triển của lực lượng sản xuất; Sự vận dụng của tỉnh Lâm Đồng; Tư tưởng
của Các Mác; Vai trò của khoa học và công nghệ.

223


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018


MARXIST THOUGHT IN THE ROLES OF SCIENCE AND
TECHNOLOGY TOWARDS THE DEVELOPMENT OF
PRODUCTIVE FORCES AND THE APPLICATION ON THE
SOCIO - ECONOMIC DEVELOPMENT IN LAM DONG
PROVINCE NOWADAYS
Dinh Thi Hoang Phuonga*
a

Faculty of Political Theory, The University of Dalat, Lamdong, Vietnam
*
Corresponding author: Email:

Abstract
Studying the mobility and development process of human society through material
production activities, Karl Marx asserted that science and technology are the leading factors
promoting the development of productive forces. Basing on the theory of Marxism - Leninism
and Ho Chi Minh's thought and grasping throughly viewpoints of the Communist Party of
Vietnam on the roles of science and technology in socio-economic development, Lam Dong
has been applying them in reality. Practical results have proven that science and technology
have made important contributions to such fields as politics, economics, culture and society
and have become the vitally fostering role in industrialization, modernization and
international integration of Lam Dong province.
Keywords: Development of productive forces; Application of Lam Dong Province; Marx’s
thought; The role of science and technology.

224


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018


1.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Khi nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội lồi người, C.Mác
luôn khẳng định khoa học và công nghệ là cơ sở, là điều kiện, là động lực quan trọng thúc
đẩy xã hội phát triển. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy tầm quan
trọng, vị trí, vai trị và tác động mạnh mẽ của khoa học và cơng nghệ đối với q trình
sản xuất xã hội. Từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào cuối thế kỷ XVIII đầu
XIX cho đến cuộc cách mạng 4.0 như hiện nay, khoa học và công nghệ đã làm biến đổi
thế giới: phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại, thay đổi nhanh chóng phương
thức sản xuất, mang lại hiệu quả vượt bậc trong năng suất và chất lượng sản xuất, định
hướng sự phát triển của nền sản xuất xã hội trong tương lai. Đối với mỗi quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia có trình độ phát triển chưa cao thì khoa học và công nghệ là giải pháp
then chốt và hiệu quả để tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ và toàn diện.
Xuất phát điểm của Việt Nam khi đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một quốc
gia nông nghiệp với nền sản xuất nhỏ mang nặng tính tiểu nơng, trình độ công cụ lao
động thủ công thô sơ, năng suất lao động thấp, lực lượng lao động chất lượng chưa cao,
trình độ khoa học và cơng nghệ lạc hậu. Vì vậy, Việt Nam cần phải tập trung đẩy mạnh
phát triển khoa học và công nghệ làm cơ sở, điều kiện và động lực để phát triển kinh tế xã hội nhằm tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Lâm Đồng là một trong năm tỉnh hợp thành khu vực Tây Nguyên sở hữu tài
nguyên thiên nhiên vừa đa dạng vừa phong phú, có nguồn nhân lực dồi dào. Lâm Đồng
nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - khu vực năng động, có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và là thị trường có nhiều tiềm năng lớn. Tuy nhiên, tiềm năng tự nhiên và xã
hội sẽ không phát huy được hết hiệu quả nếu thiếu đi sự đồng hành của khoa học kỹ thuật
và cơng nghệ.
Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng của C.Mác về vai trị của khoa học và cơng nghệ
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những cơ sở lý luận căn bản có
ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói

chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng. Cùng với đó, q trình vận dụng những nguyên lý
này trong thực tiễn ngày càng khẳng định sức sống, bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.
2.

NỘI DUNG

Từ “Khoa học” bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ có nguồn gốc Latinh là “Scientia” có
nghĩa là “Sự hiểu biết”, mà trong đó gốc của từ “Scio” có nghĩa là "Tơi hiểu”. Trong các
ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý thì từ tương ứng với từ
khoa học cũng mang ý nghĩa này. Khoa học được hiểu là hệ thống tri thức về bản chất,
quy luật tồn tại và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội loài
người và tư duy con người. Hệ thống tri thức ở đây là hệ thống tri thức khoa học, xem
225


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

khoa học như một sản phẩm trí tuệ được tích lũy từ hoạt động tìm tịi, nghiên cứu, sáng
tạo của con người. Từ “Cơng nghệ” có nguồn gốc Hy Lạp là "Technologia" - trong đó
"Techne" là "kỹ năng, kỹ thuật" và "logia" có nghĩa là "sự học, sự tìm hiểu, sự nghiên
cứu”. Luật khoa học và công nghệ của Việt Nam, quan niệm: “Công nghệ là giải pháp,
quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng
để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm” (Quốc hội N. C., Luật Khoa học và Công nghệ,
2013). Khoa học và công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khoa học trở thành cơ
sở lý thuyết cho các phương tiện kỹ thuật, cơng nghệ mà thơng qua đó, khoa học được
vật chất hóa trong các yếu tố vật thể của lực lượng sản xuất. Khoa học khi cịn ở trình độ
thấp, sự tác động của nó tới kĩ thuật và sản xuất còn hạn chế, nhưng khi khoa học đã phát
triển đến trình độ cao như ngày nay thì lại có sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản
xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với kỹ thuật và công nghệ là một xu thế tất yếu

của phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bởi khoa học muốn phát triển nhanh cần phải
có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại; đồng thời, muốn sản xuất ra cơng nghệ mới địi
hỏi con người phải dựa trên những phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ khoa
học và cơng nghệ gắn bó chặt chẽ và là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất trong thời đại ngày nay.
2.1. Tư tưởng của C. Mác về vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội
Nghiên cứu tiến trình vận động và phát triển của xã hội lồi người thơng qua hoạt
động sản xuất vật chất, C.Mác nhận định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành
lực lượng sản xuất trực tiếp” (Các & Ph, Toàn tập, phần II, tập 46, 2000, p. 372). Theo
luận điểm trên, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật chất hóa thành máy móc, trang
thiết bị, nhà xưởng,... đồng hành cùng với người lao động trong suốt quá trình sản xuất.
Như vậy, từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực
tiếp vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. C.Mác đã khẳng định:
Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại
công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều
được phục vụ tư bản, cịn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to
lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng
khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích (Các & Ph, Toàn tập, phần II, tập 46, 2000, p. 367).
Luận điểm trên của C. Mác cho thấy, khoa học thâm nhập vào tất cả các yếu tố
cấu thành của lực lượng sản xuất. Nhờ có khoa học, cơng cụ lao động ngày càng được cải
tiến, sức lao động của con người được giải phóng. Con người ngày càng tạo ra được nhiều
đối tượng lao động nhân tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng và một số đặc
tính khác của đối tượng lao động tự nhiên. Cũng nhờ khoa học mà trình độ, tay nghề, kỹ
năng, kỹ xảo của người lao động được nâng cao. Trong quá trình sản xuất, lao động phức
tạp chiếm tỷ lệ ngày càng cao so với lao động giản đơn. Đội ngũ cơng nhân trí thức xuất
226



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Nhờ có khoa học,
hoạt động của các nhà lãnh đạo, quản lý, điều hành sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn,
góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, khoa
học tự bản thân nó khơng thể tạo ra bất kỳ tác động nào mà phải thông qua sự ứng dụng
và hoạt động thực tiễn của con người thì khoa học mới có thể phát huy được tác dụng.
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất với điều kiện là khoa học phải tồn tại dưới dạng
lao động được vật hóa thành máy móc. Khoa học khơng phải là một lực lượng sản xuất
độc lập, đứng bên ngoài con người, mà khoa học chỉ có thể tạo ra những biến đổi trong
quá trình sản xuất thơng qua hoạt động của con người.
Như vậy, theo C. Mác, khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của q
trình sản xuất, góp phần cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới,
những phương tiện sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ cho
người lao động. Do vậy, trong thời đại ngày nay, khoa học đóng vai trị hết sức quan trọng
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì
cơng cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động, biểu
hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi nó là khí
quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm nối dài bàn tay
và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, cịn C.Mác thì chỉ rõ: “Những thời đại kinh
tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào” (Các & Ph, Toàn tập, tập 23, 1995, p. 269),
“Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước
đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp” (Các & Ph, Toàn tập, tập 4, 1995, p. 187). Yếu
tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và cơng nghệ,
bởi nhờ có thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao
động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm
cho lao động đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và công

nghệ sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ sẽ dẫn đến cuộc cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2.2.

Sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng C. Mác

Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu khoa
học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng
trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất trực
tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, q trình nhất thể hố giữa khoa học và cơng
nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Thực tiễn cho thấy,
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới chủ yếu dựa vào tri thức
khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc
gia nào muốn trở thành nước phát triển thì khơng thể không chú trọng hàng đầu vấn đề
này.
227


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn nhận thức rõ tầm quan trọng hàng
đầu của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991),
Đảng ta khẳng định: “Khoa học - cơng nghệ giữ vai trị then chốt trong sự phát triển lực
lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của
nền kinh tế” (Đảng Cộng sản, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, 2016). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta nhấn mạnh:

Khoa học - cơng nghệ giữ vai trị then chốt trong việc phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học - công nghệ nhằm
mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức,
vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới (Đảng Cộng sản, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển 2011), 2011).
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã thông qua
Nghị quyết 20 - NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2012 về “Phát triển khoa học - cơng nghệ
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng đã thể hiện rõ hơn điều đó. Đại hội
XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ làm cho
khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại” (Đảng Cộng sản, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, 2016, pp. 119-120). Ngồi ra, vai trị của khoa học - cơng nghệ hiện đại cịn
được thể hiện rõ trong Hiến pháp: Khoản 1, Điều 62, Chương III, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Phát triển khoa học - cơng nghệ
là quốc sách hàng đầu, giữ vai trị then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước” (Quốc hội N. C.). Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn
2016 - 2020 xác định:
Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt
trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên, môi trường, nâng cao
năng suất lao động, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế (Quốc hội N. C.,
Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020, 2016).
Như vậy, Đảng và Nhà nước luôn coi khoa học - cơng nghệ là địn bẩy trung tâm
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội xuyên suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói
chung và sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay nói riêng.

228



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

2.3. Sự vận dụng khoa học và cơng nghệ trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay
Quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của khoa học và
cơng nghệ đối với q trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng nhận thức
sâu sắc và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai vào thực tiễn địa phương. Văn kiện
Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ X (nhiệm kỳ 2015 - 2020) đã nêu rõ:
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống; phát huy
vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh (Tỉnh ủy, 2015).
Khoa học và cơng nghệ đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và ngày càng khẳng định vai trò là động lực thúc đẩy
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh Lâm Đồng hiện
nay. Việc tổ chức nghiên cứu, triển khai ứng dụng thành tựu khoa học và cơng nghệ trong
và ngồi nước; thực hiện các dự án sản xuất thử nghiệm; đào tạo, chuyển giao, thương
mại hoá và nhân rộng các kết quả của đề tài và dự án sản xuất thử nghiệm đã có nhiều
đóng góp trong q trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương:
2.3.1. Về kinh tế
Trong nông nghiệp, việc ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông
nghiệp đã thu được những kết quả rất tốt, thúc đẩy năng suất và nâng cao chất lượng các
nông sản đặc trưng của Lâm Đồng. Khởi điểm từ việc nhân giống khoai tây thành công
bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào, đến nay, kỹ thuật này đã được ứng dụng rộng rãi
trong việc nhân giống các loài hoa phong lan, địa lan, cẩm chướng, lys, các cây ăn quả,
cây thuốc, cây lâm nghiệp… Kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật đã trở thành công cụ
sản xuất giống quy mơ hàng hóa mang lại lợi nhuận cao cho người sản xuất ở Lâm
Đồng. Hàng triệu cây giống cấy mô đã được xuất khẩu sang các nước khối châu Âu. Đây
là tiền đề mở ra hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho tỉnh những năm sau
này, là điều kiện đảm bảo cho việc tiếp cận và chủ động tham gia trên thương trường quốc
tế với một số mặt hàng thế mạnh của địa phương (chè, cà phê, rau, hoa...). Lâm Đồng đã

xây dựng được vùng sản xuất rau, chè an tồn, cà chua cơng nghệ cao, trồng rau theo
hướng kiểm sốt vệ sinh an tồn thực phẩm và thực hành nông nghiệp tốt (GAP). Đặc
biệt, Lâm Đồng đang là tỉnh dẫn đầu cả nước về phát triển nơng nghiệp ứng dụng cơng
nghệ cao. Tỉnh hiện có gần 50.000 ha đất sản xuất nông nghiệp sản xuất theo mơ hình
ứng dụng cơng nghệ cao, chiếm 18% tổng diện tích đất canh tác, tỷ trọng giá trị sản xuất
nơng nghiệp cơng nghệ cao đạt 30% giá trị tồn ngành, 80% giá trị xuất khẩu tồn tỉnh.
Nhiều diện tích sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đã cho doanh thu 500 triệu đồng đến
2 tỷ đồng/ha/năm, cá biệt đã có thể đạt 8 tỷ đến 24 tỷ đồng/ha/năm (Cục thống kê).
Trong lâm nghiệp, đã xây dựng hệ thống rừng giống, các đề án bảo vệ rừng đặc
dụng, phòng hộ, bảo vệ các động vật quý hiếm. Thực hiện chương trình lâm nghiệp và
229


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

định canh định cư, tổ chức thành cơng các mơ hình nơng - lâm kết hợp, vườn rừng trên
đất dốc, nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ, đánh giá hiệu quả việc giao đất, giao
rừng; xây dựng cơ sở khoa học của việc phòng chống cháy rừng, phịng trừ bệnh hại rừng
thơng, điều tra và phát triển nấm dưới tán rừng, điều tra nguồn dược liệu đặc thù của tỉnh
Lâm Đồng…
Trong công nghiệp, đã triển khai các đề án thuộc chương trình phát triển cơng
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (giai đoạn 1991 - 1995 và đến năm 2000) với các nội dung
cụ thể như chế biến nông - lâm sản; sản phẩm tiểu thủ công nghiệp; vật liệu xây dựng;
khai thác và chế biến khoáng sản; ứng dụng năng lượng mặt trời sản xuất điện, đun nước
nóng. Một số mặt hàng nơng sản chế biến (chè, cà phê, rau) và vật liệu xây dựng (cách
nhiệt, chịu lửa) đã được đầu tư nghiên cứu để nâng cao chất lượng và mở rộng sản xuất
đáp ứng thị trường.
Hoạt động du lịch, từ năm 1991, đã có nhiều đề tài nghiên cứu tập trung vào đánh
giá tiềm năng, đề xuất các giải pháp phát triển du lịch của tỉnh như nghiên cứu về du lịch
sinh thái, du lịch hội nghị, hội thảo tại Đà Lạt; đề xuất các cơ chế quản lý du lịch và giải

pháp nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch của tỉnh; ứng dụng công nghệ thông tin trong
các hoạt động thương mại - du lịch; nghiên cứu về nguồn nhân lực phát triển du lịch, môi
trường du lịch, ngành nghề thủ công của đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ du lịch; bảo
tồn kiến trúc Đà Lạt; nghiên cứu về tour, tuyến, điểm du lịch và thông tin du lịch của Đà
Lạt - Lâm Đồng,… góp phần quảng bá và nâng tầm du lịch Lâm Đồng.
Chương trình phát triển mạng lưới điện nông thôn trong những năm gần đây đã
đem lại kết quả cao: từ chỗ lắp đặt các trạm thủy điện có cơng suất nhỏ phục vụ sinh hoạt
đến việc thiết kế xây dựng các hệ thống đập thủy điện có quy mơ lớn, đáp ứng u cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay,
các huyện, thị, thành của tỉnh đều có điện lưới quốc gia, tỷ lệ số hộ dân tồn tỉnh có điện
là 95%, tỷ lệ số hộ dân nơng thơn có điện là 86%. Những hoạt động này đã và đang góp
phần đẩy mạnh mục tiêu điện khí hóa nơng thơn.
Về thủy lợi, quy hoạch hệ thống cơng trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu nhằm thâm
canh, tăng vụ và mở rộng diện tích cây lương thực, cây cơng nghiệp. Triển khai có hiệu
quả các đề án phòng chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai cho một số vùng thường bị ảnh
hưởng ở trong tỉnh. Xây dựng nhiều cơng trình cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn cho
nhân dân vùng sâu, đảm bảo nước sạch cho tất cả các huyện thị trong tỉnh. Ứng dụng kỹ
thuật hạt nhân trong nghiên cứu quá trình bồi lắng lịng hồ, phục vụ cho cơng tác thủy lợi.
Hoạt động sở hữu trí tuệ tại Lâm Đồng đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều
doanh nghiệp đã quan tâm và nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quyền sở hữu trí
tuệ. Hiện nay, tồn tỉnh đã có 473 đơn đăng ký nhãn hiệu, trong đó Cục Sở hữu trí tuệ đã
cấp 300 văn bằng cho 180 doanh nghiệp, 27 kiểu dáng công nghiệp và 11 sáng chế. Tỉnh
cũng đang tiến hành xây dựng nhãn tập thể cho các sản phẩm chè B’Lao, cà phê Di Linh,
rau Đà Lạt, hoa Địa lan Đà Lạt, dứa Cayenne Đơn Dương (Sở Khoa học và Công nghệ).
230


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Trong những năm qua, các dự án nông thôn miền núi với mục tiêu chuyển giao

tiến bộ khoa học và cơng nghệ góp phần làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, chuyển
đổi giống cây trồng, vật nuôi, tổ chức lại sản xuất của các cộng đồng dân cư vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đã được triển khai trên hầu hết các huyện trong
toàn tỉnh. Các dự án đã mang lại hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở địa phương, đem lại cách thức làm ăn mới, hiệu quả trong chăn
nuôi (bò, dê, gà thả vườn, heo đồng bào, heo lai, nhím…), trồng trọt (lúa, cà phê, chè,
điều, sản xuất rau, trồng hoa trong nhà có mái che…) tăng năng suất và giá trị hàng hóa,
giúp bà con nơng dân dân tộc thiểu số chuyển dần từ kinh tế tự cấp sang kinh tế hàng hóa,
góp phần xóa đói giảm nghèo. Đầu năm 2011, tồn tỉnh có hơn 34.000 hộ nghèo (chiếm
12,60%), nhưng cuối năm 2015 giảm xuống còn hơn 5.000 hộ (chiếm 1,74%). Bình qn
mỗi năm tồn tỉnh giảm 5.868 hộ nghèo, tương đương với tỉ lệ giảm 2,17%/năm (Sở Lao
động Thương binh và Xã hội).
2.3.2. Về chính trị
Tính đến nay, tỉnh Lâm Đồng đã hỗ trợ cho trên 48 cơ quan, đơn vị quản lý hành
chính và hoạt động sự nghiệp trong tỉnh áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO để nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả trong công tác quản lý của các doanh nghiệp và
dịch vụ hành chính cơng. Hệ thống quản lý chất lượng là một trong những cơng cụ hữu
ích góp phần cải cách thủ tục hành chính theo hướng “cơ chế một cửa”, nổi bật là mơ
hình ứng dụng ISO trong quản lý hành chính mở rộng đến cấp phường, xã của Ủy ban
nhân dân thành phố Đà Lạt. Nhìn chung, công tác quản lý về tiêu chuẩn - đo lường - chất
lượng trong thời gian qua đã được củng cố và tăng cường tương đối toàn diện, triển khai
thực hiện tốt các quy định của Nhà nước, tham mưu kịp thời cho lãnh đạo địa phương,
đưa công tác quản lý vào nề nếp. Những đổi mới trong hoạt động tiêu chuẩn - đo lường chất lượng đã đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng và tồn xã hội, góp phần thúc đẩy q trình hội nhập,
tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngồi nước (Sở Khoa học và
Cơng nghệ).
2.3.3. Về văn hóa
Những kết quả nghiên cứu về khoa học xã hội - nhân văn đã phục vụ cho công tác
lãnh đạo và quản lý, góp phần giải quyết những vấn đề bảo tồn và giữ gìn văn hóa đặt ra
ở địa phương tiêu biểu như: nghiên cứu và chỉnh lý các hiện vật thu được từ kết quả khai

quật di chỉ Đại Lào, Bảo Lộc; hợp tác với đoàn chuyên gia khảo cổ Nhật Bản thăm dò,
khảo sát di chỉ văn hóa Cát Tiên; nghiên cứu văn hóa truyền thống các dân tộc Mạ, Cơ
Ho; bước đầu hình thành bộ sưu tập văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống các dân
tộc bản địa Lâm Đồng;…
Những năm gần đây, hoạt động thông tin đã chuyển đổi dần theo hướng ứng dụng
công nghệ thông tin, tổ chức thu thập các dạng thông tin điện tử và truy cập trên mạng.
Năm 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã duyệt và chính thức cho ra đời Trang tin
231


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

điện tử Lâm Đồng (website Lâm Đồng). Đây là công cụ thông tin giao dịch quản lý qua
mạng rất thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị trong tỉnh. Hiện đã có 25 đơn vị xây dựng
website kết nối với trang tin này, trong đó có website của Báo Lâm Đồng và Đài Phát
thanh Truyền hình Lâm Đồng. Trang thông tin điện tử Lâm Đồng là địa chỉ tin cậy cung
cấp thông tin tư liệu về Đà Lạt - Lâm Đồng, góp phần đưa hình ảnh của Lâm Đồng, Đà
Lạt đến gần hơn với bạn bè trong nước và quốc tế (Sở Khoa học và Công nghệ).
2.3.4. Về xã hội
Trong thập niên trở lại đây đã có sự chuyển biến rõ nét theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, khẳng định quan điểm
cần bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người. Những nghiên cứu về lĩnh vực khoa học xã
hội - nhân văn đã được ban chỉ đạo Chương trình khoa học xã hội - nhân văn tham mưu
cho Tỉnh ủy chỉ đạo tập trung nghiên cứu nhiều hơn về con người với tư cách vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể đã có những nghiên cứu về
các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao
chất lượng giáo dục trong vùng dân tộc thiểu số, hệ thống chính trị cơ sở; những vấn đề
liên quan đến dân số, lao động và việc làm, công tác thanh niên, hướng nghiệp...; giải
pháp thực hiện công tác bảo vệ trẻ em trước các tệ nạn xã hội; tổ chức thu thập và biên
soạn các tư liệu văn hóa - lịch sử về Lâm Đồng - Đà Lạt; nghiên cứu và xuất bản địa chí

Lâm Đồng, địa chí Đà Lạt; biên soạn từ điển tiếng Cơ Ho, Mạ và Chu Ru (Sở Khoa học
và Công nghệ).
3.

KẾT LUẬN

Việc nghiên cứu tư tưởng của Các Mác về vai trò của khoa học và công nghệ và
sự vận dụng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng đã cho thấy: Một là,
tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi đưa ra những lý luận về sự
phát triển lực lượng sản xuất trong đó nhấn mạnh đến vai trị tiên quyết của khoa học và
công nghệ; Hai là, thành quả phát triển về kinh tế - xã hội của Lâm Đồng trong thời gian
qua là minh chứng sống động về tính đúng đắn khi vận dụng triệt để và sáng tạo những
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn.
Như vậy, tư tưởng của C.Mác về vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa trong thời
đại hiện nay. Trong thời đại của cách mạng 4.0, khoa học và công nghệ ngày càng hiện
đại và là yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các
thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở
thành lực lượng trực tiếp sản xuất. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng ln xác định vai trị then chốt của khoa học và cơng nghệ
đối với q trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Thực tiễn đã cho thấy khoa học
và cơng nghệ đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội và ngày càng khẳng định vai trò là động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
232


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các, M., & Ph, Ă. (2000). Toàn tập, phần II, tập 46. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
Các, M., & Ph, Ă. (1995). Tồn tập, tập 23. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
Các, M., & Ph, Ă. (1995). Toàn tập, tập 4. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
Cục thống kê, T. L. (n.d.). Tình hình kinh tế - xã hội. Retrieved 11 16, 2018, from
:
/>Đảng Cộng sản, V. N. (2011, 3 24). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển 2011). Retrieved 10 16, 2018, from
:
/>Đảng Cộng sản, V. N. (2016, 10 12). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Retrieved 10 16, 2018, from :
/>Đảng Cộng sản, V. N. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội:
Chính trị Quốc gia.
Quốc hội, N. C. (n.d.). Hiến pháp 2013. Retrieved 10 2018, 16, from
:
/>hongTinTongHop?categoryId=920&articleId=10052994
Quốc hội, N. C. (2013). Luật Khoa học và Cơng nghệ. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
Quốc hội, N. C. (2016, 5 25). Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2016 - 2020. Retrieved 10 2018, 16, from :
/>Sở Khoa học và Công nghệ, T. L. (n.d.). Retrieved 10 16, 2018, from
/>Sở Lao động Thương binh và Xã hội, T. L. (n.d.). Hộ nghèo và cận nghèo tỉnh Lâm Đồng.
Retrieved 11 16, 2018, from http://www.
lamdong.gov.vn/vi- VN/a/soldtbxh/Pages/ HONGHEOCANNGHEOTINH
LAMDONG.aspx
Tỉnh ủy, L. Đ. (2015, 12 9). Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ
X, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
233




×