Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thế giới quan trong tư tưởng triết học Ngô Thì Nhậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.62 KB, 12 trang )

KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

THẾ GIỚI QUAN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
NGƠ THÌ NHẬM
Nguyễn Thị Hồng Phươnga*
a

Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
*

Tác giả liên hệ: Email:

Tóm tắt
Ngơ Thì Nhậm (1746 – 1803), là một danh sĩ, nhà văn thời hậu Lê – Tây Sơn, ông là một
trong những nhà tri thức, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam ở thế kỷ XVIII, đồng thời còn là
một nhà văn, nhà thơ, nhà ngoại giao, nhà chiến lược. Trong quan điểm về thế giới quan,
Ngơ Thì Nhậm đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo khi đi vào giải quyết các vấn đề về sự sinh
thành, biến hóa của vạn vật trong vũ trụ theo tinh thần dung hòa Nho – Phật - Lão. Tìm hiểu
thế giới quan của Ngơ Thì Nhậm sẽ đem đến cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về thế giới, đồng
thời mở ra một hướng đi cho các nhà tư tưởng đương thời trong quá trình tìm cách giải thích
mới hơn về thế giới.
Từ khóa: Thế giới quan, dung hịa “Tam giáo”, Ngơ Thì Nhậm, tư tưởng triết học.

267


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

WORLD OUTLOOK IN NGO THI NHAM’S
PHILOSOPHY IDEOLOGY
Nguyen Thi Hong Phuong a*


a

The Faculty Of Political Theory, Dalat University, Lamdong, Vietnam
*
Corresponding author: Email:

Abstract
Ngo Thi Nham (1746 – 1803) is known as a famous scholar and knight of the pen in the reign
of Le- Tay Son dynasty. He is one of the great intellectuals, ideologists of Vietnam in XVIII
century, as well as a writer, a poet, a politician and a strategist. In the world outlook, Ngo
Thi Nham revealed his flexibility and creativity in solving matters related to the creation and
transformation of the living beings in the universe in accordance with the harmony of the
Three religions: Confucianism, Buddhism and Taoism. Studying Ngo Thi Nham’s world
outlook will lead us to a new approach in perceiving the world, as well as make some
recommendations on searching for other explanations of the world to current ideologists.
Key words: World outlook, the three religions (of Vietnam), Ngo Thi Nham, philosophy
ideology.

268


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

1.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Thế giới quan là toàn bộ quan niệm, quan điểm của con người về thế giới, về bản
thân con người, về vị trí, vai trị của con người trong thế giới đó. Thế giới quan cũng là
cách thức nhìn nhận và giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội.

Bàn về vấn đề thế giới quan, ở Phương Đơng có nhiều nhà tư tưởng đã tập trung
nghiên cứu và trình bày những quan điểm của mình về thế giới, sự thống nhất, sự vận
động của thế giới, tiêu biểu như học thuyết thái cực của Chu Đơn Di; tư tưởng về lý và
khí của Trình Di, Chu Hy… Ở Việt Nam, Trần Thái Tơng đã xuất phát từ không – hư;
Tuệ Trung Thượng Sỹ xuất phát từ cái vơ - cái khơng - tính không; Trần Nhân Tông với
khái niệm bản; Pháp Loa với quan điểm về kiến tính cịn Lê Q Đơn thì chìm đắm trong
phạm trù lý – khí để phân tích vấn đề thế giới quan… Tuy có những cách giải thích khác
nhau nhưng chung quy các nhà tư tưởng đều hướng về một mục đích là làm sáng rõ sự
tồn tại của thế giới đầy bí ẩn này.
Thế giới quan trong tư tưởng triết học Ngơ Thì Nhậm khơng chỉ mang sắc thái
của quan điểm Phật giáo mà còn chứa đựng triết lý của Nho và Lão, cho thấy rõ mong
muốn dung hịa “Tam giáo” của ơng. Trên tinh thần dung hịa Nho – Phật – Lão, Ngơ Thì
Nhậm đã đi vào giải thích nguồn gốc, sự tồn tại của thế giới; khẳng định tính thống nhất
cũng như sự vận động, biến đổi của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
2.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

2.1.

Bản thể của vũ trụ

Ngơ Thì Nhậm coi sự xuất hiện của vũ trụ là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi
chỉ có khi nào người ta thực sự hiểu thế giới này từ đâu mà có thì mới hiểu được vũ trụ
vận động, biến đổi và phát triển ra sao. Vì vậy mà ơng luôn băn khoăn về bản thể của vũ
trụ, ông luôn cố gắng đi tìm hiểu và lý giải cho sự xuất hiện của vũ trụ. Trong bài Tuyết
hay là trăng là một bài phú chứa đựng một triết lý thâm sâu của ông (Cao & Thạch,
1978, tr. 67).
Ta vừa đi vừa tự hiểu lấy chừ, buổi hỗn mang ban đầu
Ở dưới, ai tạc nên núi sông chừ, ở trên ai bày ra trăng sao

Ở giữa, muôn vật đúc nên theo trạng gì chừ, nặn ra người theo hình nào?
Lại vì sao chia giữa, dưới, trên chừ, khiến họp lại thành từng lồi khác nhau?
Cái lẽ đó thật mập mờ chừ, cái khí ấy hỗn độn sao!

269


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Ở đoạn phú trên, Ngơ Thì Nhậm đã phủ định tất cả những phạm trù, những khái
niệm không gian, thời gian; nguyên nhân, kết quả; vật chất, tinh thần. Từ đó, nhìn bề
ngồi thì có vẻ dường như ơng khơng biết vì sao có sự tồn tại của thế giới nhưng thật ra
ơng đã có những suy tư rất đặc biệt cho sự tồn tại đó. Theo ông, nguồn gốc nảy sinh, chi
phối vạn vật trong vũ trụ là hóa cơng (化 工), chính sự tồn tại của hóa cơng đã làm cho
vũ trụ có một hình hài tương đối hồn chỉnh và chất chứa những điều kỳ diệu. Điều này
được ông thể hiện một đoạn trong bài Trên núi Thần Phù, trơng ra biển:
Hóa cơng xếp đặt rõ tài thay!
Hỗn độn từ xưa quả đất này
Khiến đá xơ đi đè sóng biển
Để vùng lõm xuống chứa ao trời. (Cao & Thạch, 1978, tr. 144)
Hóa cơng ở đây được hiểu như một người sắp xếp vạn vật một cách có trật tự.
Theo Ngơ Thì Nhậm thì đây là một nhân vật có thật, một nhân vật mà mọi người đều phải
tơn kính bởi nhờ vị thần này mà người ta mới có thể tồn tại và phát triển được. Con người
khơng thể tự mình tạo ra mn vật trong cuộc sống mà phải cần phải có bàn tay khéo léo
của hóa cơng, trong bài Khúc ngâm câu ngắn câu dài, có đoạn viết:
Cao sâu nào phải tự mn vật
Chẳng định mà làm ấy Hóa cơng. (Cao & Thạch, 1978, tr. 301)
Ngơ Thì Nhậm coi trọng sự tồn tại của hóa cơng trong cách giải thích của mình
vì theo ơng xưa kia vũ trụ này khơng hề có một trật tự ổn định, chỉ khi hóa cơng xuất hiện
thì vạn vật mới được trọn vẹn thể hiện mình. Tuy đây là cách hiểu chất phác nhưng nó đã

thể hiện sự mong mỏi tìm kiếm và giải thích những điều kỳ diệu và bí ẩn của cuộc sống.
Ngồi tư tưởng bản thể là hóa cơng thì Ngơ Thì Nhậm còn coi bản thể là trời (天
) gắn kết chức năng của trời trong cách tạo dựng nên vũ trụ. Theo ơng, nhờ có trời mà
vạn vật được sinh sơi nảy nở, cũng nhờ có trời mà vạn vật có một trật tự ổn định. Ơng
cho rằng trong cái thế giới rộng lớn này khơng có gì là khơng do trời sinh ra, kể cả những
ngôi làng, những bậc hào kiệt hay cả những mảnh đất ở trần tục. Tư tưởng này được ông
thể hiện rất rõ trong bài thơ Trên đường Nghệ An:
Trời sinh hào kiệt Đẩu, Thai gần
Đường qua ghi những làng danh nổi. (Cao & Thạch, 1978, tr. 301)
Đơi lúc Ngơ Thì Nhậm lại khơng đề cao vai trị của trời, của hóa cơng mà cho
rằng việc vạn vật tồn tại trong thế giới này chỉ là sự tồn tại một cách tự nhiên, không do
ai sắp đặt. Trong bài Phú lên lầu Hồng Hạc, có đoạn viết:
Từ khi mông muội mở ra chừ, núi sông tụ lại thành hình
270


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Đương lúc hỗn độn chưa phân chừ, thần tiên mờ mịt chưa có danh
Mây mù kia chưa ai cưỡi chừ, khói ráng kia ai ngao du
Thực là cảnh vật độc lập chừ, cần gì ai điểm tơ. (Cao & Thạch, 1978, tr. 75)
Đây chính là tình huống thể hiện rõ một tâm trạng luôn băn khoăn trước những
biến đổi của cuộc sống, con người phải luôn nhanh chóng thay đổi suy nghĩ của mình để
thích nghi với những thay đổi khôn lường của tự nhiên, của thời cuộc, từ đó biết thuận
theo lẽ mà sống. Ngơ Thì Nhậm cũng khơng phủ nhận vai trị quan trọng của con người,
coi con người cũng là một nhân tố quan trọng trong việc tạo nên hình hài của vũ trụ. Theo
ơng, nhờ có bàn tay con người nên trời đất mới được mở mang, cảnh vật mới có tên, có
hình. Cũng trong bài Phú lên lầu Hồng Hạc, ơng viết:
Hẳn trời đất mở mang ra chừ, mượn tay người mà chuốt gọt
Tiên được cảnh mà thành danh chừ, cảnh có người nên tươi tốt. (Cao & Thạch,

1978, tr. 76)
Bên cạnh những tư tưởng mộc mạc về bản thể vũ trụ, Ngơ Thì Nhậm cịn tiếp thu
Thiền tơng trong tư duy triết học của mình. Ơng là một nhà Nho rất coi trọng Thiền tơng
nên bản thể của ơng cịn là Phật tính (佛 性), Phật tính cũng được gọi là chân như. Chân
như của Thiền tông là bất sinh, bất diệt, vơ thỉ, vơ chung, là chí nhất và chí đa, chí tĩnh
và chí động, chí nhu và chí cương; chân như này giống như phạm trù đạo của Lão - Trang
và phạm trù Thái cực “bất dịch mà biến dịch” của Chu dịch. Trong triết học của Ngô Thì
Nhậm, chân như được ơng tượng trưng bằng hình ảnh của mây và nước, vận động không
ngừng và bao trùm cả vũ trụ. Trong Trường đoản cú ngâm có viết. Kìa chẳng thấy:
Mây ngồi ngũ lĩnh sớm chiều trơi
Ngang dọc tầng không chẳng nghỉ ngơi,
Lại chẳng thấy:
Cuồn cuộn chảy dài dịng sơng Minh
Dồn dập về đơng vượt thác ghềnh.
Mây nước vơ tâm mà có lực,
Chuyển động xoay vần khơng nghỉ bước.
Há tâm, lực chẳng gắn cùng nhau?
Lẽ hồn nhiên ai biết đâu?
Phỏng mây muốn cao vươn tít tắp?
Phỏng nước địi sâu tìm mênh mơng?
Cao sâu nào phải tự mn vật
271


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Chẳng định mà làm, ấy Hóa công. (Cao & Thạch, 1978, tr. 300 – 301)
Ở đây, chân như được Ngơ Thì Nhậm tượng trưng bằng hình ảnh mây trôi không
lúc nào ngừng nghỉ, chân như biểu hiện mn hình, mn vẻ như mây trời. Ngơ Thì
Nhậm cũng đã nói đến dịng nước chảy mãi để nhấn mạnh sự tuyệt vời của nước. Bình

thường thì nước trơng có vẻ nhu nhược song nó chính là cái cơng phá những vật cứng
mạnh vì nước cịn có cái lực bên trong mà bằng mắt thường không thể thấy được, đó
chính là chí nhu và chí cương của vật. Việc Ngơ Thì Nhậm lấy mây và nước để thể hiện
cái bản thể của thế giới là một trong những tư tưởng tiến bộ của ông.
Bản thể vũ trụ ở Ngô Thì Nhậm là u huyền, lặng lẽ nhưng cũng rất lưu động, biến
thiên. Thiền tông đã đưa vào trong tư tưởng Ngơ Thì Nhậm những triết lý sâu sắc, giúp
ơng hình dung tốt hơn về bản thể vũ trụ.
Khơng dừng lại ở chỗ coi bản thể là hóa cơng, là trời, là chân như theo tư tưởng
Thiền tơng. Ngơ Thì Nhậm cịn thể hiện mình ở ba khía cạnh khác nhau trong lúc giải
quyết vấn đề bản thể. Có lúc ông đi theo khuynh hướng Nho, có lúc lại hướng tư tưởng
theo cách giải thích của Phật và đơi lúc lại lý giải theo phong cách Lão - Trang. Tất cả
những điều đó đều thể hiện ở ơng một tinh thần dung hòa “Tam giáo”. Đây cũng là mong
muốn của nhiều nhà triết học trước đó.
Ngơ Thì Nhậm đã khơng xa rời tư tưởng về bản thể của các bậc tiền bối khi đi tìm
cái bản thể của vũ trụ, mà đầu tiên là phải kể đến tư tưởng của Trần Thái Tông. Trần Thái
Tông đã coi bản thể khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ vạn vật là không (空). Từ không
mà xuất hiện vọng (妄) tứ vô minh (無 明), nghĩa là xuất hiện sự xuyên tạc, ảo ảnh, không
thực, không đúng sự thực. Không trong triết học của Trần Thái Tông là để bắt đầu rồi từ
không mới khởi vọng, khơng hiện vọng và vọng thì theo không, sự xuất hiện của vọng là
cơ sở để sắc (色) xuất hiện tức thế giới hiện tượng, vạn vật trong vũ trụ. Kể cả sự tồn tại
của con người và các sinh vật cũng do vọng sinh ra. Chúng ta có thể thấy q trình này
chia làm ba giai đoạn rõ rệt đó là khơng – vọng – thế giới hiện tượng. Trần Thái Tông
viết: “Do không khởi Vọng, Vọng thành Sắc, Sắc tự chân Khơng. Thị Vọng tịng Không,
Không hiện Vọng, Vọng sinh chúng Sắc”. [Trần, 1974, tr. 122] Như vậy, ở Trần Thái
Tông, không là cội nguồn và nguyên khởi của mọi thứ.
Cũng xuất phát từ không, Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng đi đến khẳng định bản thể
chính là cái vơ, cái khơng, là tính khơng (Synyata). Mọi cái suy cho cùng đều là khơng.
Ơng viết:
“Thân tịng vô tướng bản lai không”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 285)
“Sinh tử ngun lai tự tính khơng”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 285)

“Chân như vọng niệm tổng giai không”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 248)
“Tâm cảnh bản lai vô”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 289)
272


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

“Bản vô tâm đạo”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 310)
Và cái bản thể này là vô tướng, vơ hình, khơng ngơn ngữ nào có thể diễn tả được.
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã thể hiện tư tưởng này trong bài Tâm Vương:
“Khơng hình, khơng tướng “chúa tâm ta”
Mắt dẫu ly châu đố nhận ra
Muốn biết đâu là “khuôn mặt thực”
Giữa trưa ngủ hết đến canh ba”. (Thơ văn Lý Trần,1998, tr. 237)
Nhìn chung thì tư tưởng về thế giới quan của Trần Thái Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ cơ bản là không khác nhau, cả hai ông đều xuất phát từ khơng để giải thích
cho quan điểm của mình. Điều này đã giúp Ngơ Thì Nhậm rất nhiều khi ơng cũng lấy cái
khơng để nói về vấn đề bản thể. Đứng trên lập trường của một nhà tu Phật, Ngơ Thì Nhậm
đã chỉ rõ về xu hướng Phật học của mình. Ơng đã đặt thế giới vào một trạng thái hỗn độn.
Ông xuất phát từ âm thanh của cái không (寤) để làm rõ hơn tư tưởng, quan điểm của
mình về bản thể. Theo ơng: “Trong cái Khơng mà có thanh thì thanh ấy khơng biết từ đâu
đến, cũng khơng biết nó đi đâu, đón trước thì cũng khơng biết chỗ nó bắt đầu, theo sau
nó thì khơng biết chỗ nó chung kết, sang sảng, oang oang không dừng lại một giây”. [Mai,
2001, tr. 144]. Như vậy, Ngơ Thì Nhậm coi sự xuất hiện của tiếng khơng là điểm xuất
phát của vạn vật trong vũ trụ và khi thời cơ chưa đến thì tiếng khơng cịn ở trong sự hỗn
độn, mịt mờ. Có nghĩa là “Khi mà Tý chưa mở (chưa có trời), Sửu chưa sinh (chưa có
đất) thì thanh ở nơi hỗn đỗn (mờ mịt, lộn xộn chưa phân biệt)” chỉ “khi mà Dương đi
xuống Âm đi lên (trời điều hịa) thì Thanh quanh quẩn ở trong đó”. [Mai, 2001, tr. 144]
Ngơ Thì Nhậm đã coi âm thanh của cái không là một phần tất yếu trong vũ trụ, chúng ta
chỉ có thể nghe nó nhưng khơng thể tìm thấy nó. Trong Trúc Lâm tơng chỉ ngun thanh

(Ẩn thanh) có viết: “Từ một luồng khí thơng thống hỗ độn chưa chia, mn vàn hiện
tưọng sinh ra từ cái Khơng, cái Khơng cũng chính là Thái cực”. [Mai, 2001, tr. 155]
Nếu đứng ở góc độ Phật học thì ta thấy khơng là thể tính của vạn hữu, bất sinh bất
diệt, không từ đâu tới cũng không đi về đâu, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ khái niệm.
Ngơ Thì Nhậm coi xuất phát của thế giới, vạn vật trong vũ trụ này từ không là một điều
dễ hiểu bởi ơng chính là một nhà tu Phật. Trong triết học Phật giáo thì khơng cũng là một
khái niệm đa nghĩa, khơng có nghĩa là bản thể khởi ngun, cội nguồn của vũ trụ vạn vật.
2.2.

Sự dung hòa “Tam giáo” trong thế giới quan của Ngơ Thì Nhậm

Ngơ Thì Nhậm đã cho chúng ta thấy có bước phát triển mới hơn, ơng khơng chỉ
giải thích vấn đề của mình ở một góc độ tản mạn, đơn giản, khơng chỉ dựa vào kiến thức
Phật học mà ơng cịn đứng trên cả lập trường của Nho giáo để phát triển tư tưởng của
mình. Ở Ngơ Thì Nhậm, khơng khơng chỉ là thể tính của vạn hữu, bất sinh, bất diệt mà
đứng về phía Nho học thì khơng cịn là thái cực (太 极), là khí hỗn ngun. Ngơ Thì
Nhậm đã tán đồng với những quan điểm của các nhà Nho học đời Tống khi ông xác định
273


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

vạn vật của vũ trụ này đều sinh ra từ thái cực. Ông đồng ý với quan điểm của Chu Liêm
Khê cho rằng thái cực sinh ra hai khí âm và dương, từ hai khí ấy sinh ra ngũ hành (五 行
) và tạo thành vạn vật trong vũ trụ, đồng thời cũng tán thành với quan điểm của Trình
Hạo và Chu Hy vì họ cũng dùng thái cực để giải thích nguồn gốc của thế giới. [Xem:
Dỗn, 1997, tr.556]. Ngơ Thì Nhậm cho rằng, sở dĩ các sự vật và hiện tượng trong thế
giới này hình thành được là do hai khí âm dương hợp lại với nhau, tất cả đều xuất phát từ
chỗ ngộ, từ thứ, thứ ở đây là thái cực sinh ra trời đất. Ơng viết: “Hai khí âm, dương đọng
lại mà thành vật tượng, đều bắt mối ở Ngộ (thứ), Ngộ chính là Thái cực sinh Lưỡng nghi

đây (…), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng”. [Mai, 2001, tr. 156] Như vậy, từ không (Thái cực)
sinh Lưỡng nghi (trời đất) và Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (bốn mùa) chính là quy luật vận
hành và biến hóa của vũ trụ. Ơng đã chia làm ba giai đoạn rõ rệt sự sinh thành vạn vật
trong vũ trụ.
Ngơ Thì Nhậm đã xác định thái cực có hai khí âm, dương: “Thái cực động mà
sinh dương, tĩnh mà sinh âm”. [Mai, 2001, tr. 211] Chính hai thể động và tĩnh này tự vận
hành, biến hóa đã sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, chúng ta thấy vạn vật trong thế giới này rất
đa dạng mà thái cực chỉ có duy nhất một thì làm thế nào vạn vật sinh sôi nảy nở được, cái
làm cho thái cực biến thành những sinh vật cụ thể vô cùng phong phú, đa dạng nhưng lại
mang trong mình bản chất thái cực là gì đây? Trả lời cho vấn đề này, các nhà Lý họ đời
Tống đều cho rằng nhờ có lý (理) mà Thái cực sinh hóa thành vạn vật, nó gắn liền, tồn tại
ở trong mọi sự vật, hiện tượng cụ thể. Mỗi người đâu có quan để khác nhau về lý song
chung quy lại thì các nhà Nho vẫn coi lý là tính phổ biến, có trong sự vật, hiện tượng và
mang tính khách quan. [Xem: Dỗn, 1997, tr. 602]. Tuy nhiên, bản chất của lý là Phật và
Lão học. Mặc dù lý ở đây mang sắc thái Nho giáo nhưng lại có nội dung Phật giáo và Lão
giáo.
Khi trả lời vấ đề về lý, Ngơ Thì Nhậm đã đồng nhất lý với đạo: “Một âm, một
dương gọi là đạo”. Cùng với các nhà Tống Nho đời Tống, Ngô Thì Nhậm cũng coi lý là
điều kiện để thái cực sinh hóa thành vạn vật. Theo ơng, lý là khơng, là cái mà “Lý chưa
mở (chưa có trời), Sửu chưa sinh (chưa có đất) thì thanh ở nơi hỗn độn”. [Mai, 2001, tr.
144] Ông cho rằng lý là đạo (道), là đường lối vận hành của vũ trụ phân tán thành vạn
vật, cái thể thì đồng nhưng cái dụng thì dị. Đồng là gốc mà dị là ngọn, xem bề ngồi thì
tưởng như khác đường khác nẻo, nhưng thống hội lại đến chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu thì
chẳng có gì vượt ra ngồi đạo lớn kia được. [Xem: Mai, 2001, tr.141]
Ông cũng đã tán đồng quan điểm của Trình Hạo về khí. Trình Hạo đã viết: “Cái
nào làm cho có âm, có dương là khí. Khí là cái hình nhi thượng” [Dỗn, 1997, tr.559].
Ngơ Thì Nhậm coi khí chính là cái gốc của vạn vật, nhờ có lý thì khí mới chuyển hóa
thành sự vật phong phú, đa dạng khác nhau, trời đất đều có hình, có khí, vạn vật đều bẩm
khí ở trời và thành hình ở đất: “Khí và hình vật đã chia rời nhau ra, thì khí trời xuống
dưới, khí đất bay lên, có cái biến hóa vơ cùng, cái đó như trên trời có sấm, cái thể của nó

(sấm) là đại tráng, cái đức của nó là ẩn (ầm ầm)”. [Mai, 2001, tr.156]
274


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Theo Ngơ Thì Nhậm thì chính hai khí âm dương đọng lại thành vật tượng. Đề này
đều bắt mối ở ngộ. Ơng đề cao vai trị của hai khí âm dương, ln coi hai khí này là cơ
sở sự tồn tại của sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.
Ngơ Thì Nhậm cũng coi đạo là khơng do ai sinh ra và cũng khơng ai có thể làm
nó tiêu tan mà bản thân đạo phát sinh từ tự nhiên, tự nhiên nó đến, khơng ai có thể thay
đổi được đạo. Ông viết: Đạo lý phát sinh tự nhiên, sắc đen thì mn đời vẫn đen, màu
trắng ắt muôn đời vẫn trắng. [Cao & Thạch, 1978, tr. 25] Ngơ Thì Nhậm tin vào đạo, tin
vào những gì đạo mang đến cho con người. Vạn vật trong vũ trụ này đều từ đạo phát ra,
một gốc phân tán ra làm vạn vật, vạn vật khác nhau hợp lại làm một gốc bởi vì đạo cũng
có tụ và tán. Ngơ Thì Nhậm cịn viết: “Kinh Ngọc Hồng Cốt tuỷ có nói: “Người ta ai
cũg có tinh, tinh hợp lại thì thần có hình, hình đều có khí, khí hợp lại thì thân thể có thật”.
Tinh khí hợp lại mà làm người, người đem hình mà truyền cho nhau, vì vậy thân thể cũng
giống nhau”. [Mai, 2001, tr.164] Theo đó, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ này đều có
những mặt đối lập với nhau như thể và dụng, tán và tụ, dị và đồng… có cái này khơng
thể nào khơng có cái kia. Mặc dù chúng đối lập với nhau nhưng lại không gạ bỏ nhau mà
là điều kiện tồn tại của nhau: “Có “thể” khơng thể nào khơng có “dụng” có “tán”khơng
thể nào khơng có “tụ”, có “dị” khơng thể nào khơng có “đồng” Có thơng suốt cái lẽ “tán”
“tụ”, “dị”, “đồng” mới có thể nói được về “đạo””. [Cao & Thạch, 1978, tr. 177]
Ngơ Thì Nhậm và các bậc tăng sư đã coi lý và khí như là cơ sở của sự sinh thành
vạn vật trong vũ trụ. Trong đó, lý là đạo, là phần hình nhi thượng của vũ trụ, của khí, là
nơi mà vạn vật trong trời đất phát tán ra. Khi coi lý cũng là đạo, cái mà từ đó vạn vật phát
tán ra thì ơng đã giải thích bản thể theo cách củ Lão - Trang.
Bên cạnh đó, Ngơ Thì Nhậm cịn coi sự xuất hiện của con người là do khí trời
sinh ra, ơng thừa nhận hình thể con người là do hình và khí tạo nên. Ơng viết: “Người thì

có hình, có khí, đã bị hạn chế trong hình và khí thì ai mà vơ sinh, ai mà vơ diệt được”.
[Mai, 2001, tr.158] Ơng cịn viết: “Cái thân của mình là do tinh khí tụ hợp lại”. [Mai,
2001, tr.164] Ngơ Thì Nhậm cho rằng cái thân thể của con người là đồng chất với trời
đất, chỉ khi nào có cái tinh thần rồi mới có cái thân thể.
Thế giới quan trong tư tưởng triết học Ngơ Thì Nhậm khơng chỉ mang sắc thái
của quan điểm Phật giáo mà còn chứa đựng triết lý của Nho và Lão, cho thấy rõ mong
muốn dung hịa “Tam giáo” của ơng. Trong tư tưởng “thế giới quan”, Ngơ Thì Nhậm đã
lấy cái khơng làm để xuất phát, khơng cịn là Thái cực, từ khơng (Thái cực) xuất hiện trời
đất và trời đất vận hành sinh ra bốn mùa, tạo nên một quy luật khách quan vốn có trong
vũ trụ. Ơng khơng chỉ giải thích ngun nhân sự xuất hiện thế giới mà ơng cịn chỉ ra sự
vận động, biến đổi không ngừng của vạn vật. Giải quyết vấn đề “thế giới quan”, Ngơ Thì
Nhậm cịn đề cao vai trò của đạo, sự lưu hành đạo trong vũ trụ, nhờ có đạo mà vạn vật
trong trời đất mới được vận hành và phát tán.

275


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

2.2.

Tính thống nhất và sự vận động của vũ trụ

Ngơ Thì Nhậm đã nhận thấy thế giới này là một thể thống nhất hoàn chỉnh, tất cả
đều bắt nguồn từ một mối nhất định. Theo ông: “Số của trời bắt đầu từ một nguyên, lý
của âm dương bắt đầu từ một khuyên. Số một là nơi hóa cơng chứa cái “vơ tận” và thánh
nhân chứa đựng những cái khơng bao giờ hết, chỉ có núi sơng và trăng gió mới đương nổi
mà thơi”. (Cao & Thạch, 1978, tr. 170)
Thế giới này sinh ra từ sự hỗn độn nhưng nó đều bắt nguồn từ một điểm duy nhất,
nhìn vào đó có thể thấy một trật tự ổn định mà không cần phải suy xét. Không dừng lại,

Ngô Thì Nhậm cịn nhấn mạnh sự thống nhất của thế giới ở chỗ: “Vạn” quy vào “một”,
hợp cái khác nhau vào chỗ “nhất quán”, vào cái “lý”, cái “số” cả trời đất, âm dương đều
ở đó”. (Cao & Thạch, 1978, tr. 171)
Rõ ràng Ngơ Thì Nhậm đã thấy được sự thống nhất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới. Ở đây, ơng đã đề cao vai trị của số một (一). Nhờ có số một mà vạn vận
mới hợp lại thành hình, nhờ số một mà hóa cơng mới có nơi cất giấu những điều bí ẩn
của mình. Nhìn chung thì: “Trời được một số mà trong, đất được một số mà yên, thánh
nhân được mộ số mà thiên hạ đâu vào đấy”. (Cao & Thạch, 1978, tr. 171 – 172)
Ngơ Thì Nhậm khơng chỉ dùng số một để diễn đạt tư tưởng của mình mà bên cạnh
đấy ơng cịn dùng từ đình (亭) có nghĩa là “chứa đựng” đã thể hiện tư tưởng của mình
một cách rõ ràng và dứt khoát hơn. Đây là một tư tưởng khá lạ và thể hiện một tầm nhìn
hết sức thiên tài của Ngơ Thì Nhậm. Ơng đã cảm nhận được vạn vậ trong vũ trụ này đều
chứa đựng trong một vật dụng vơ hình của trời đất, nhờ cái vật dụng vơ hình đó mà mn
vật, mn lồi đều được che chở. Con người sở dĩ tập trung lại được với nhau là nhờ có
đình. Ơng viết: “Trời lấy “đình”(chứ đựng) để ni mn vật đất lấy “đình” để chứa mn
lồi; người ta lấy “đình” để tụ họp với nhau mà mn vật mn lồi đều là khách. Cho nên nơi
người ta tụ họp lại với nhau thì có “đình””. (Cao & Thạch, 1978, tr. 177)
Từ đình ở đây đã giúp Ngơ Thì Nhậm diễn tả được những tư tưởng của mình. Dù
thế giới này có đa dạng, có phức tạp đến đâu chăng nữa thì thế giới này vẫn ln trong
sự thống nhất, luôn ở trong một không gian nhất định. Con người không thể thay đổi được
cái trật tự mà trời đất đã an bài.
Theo Ngơ Thì Nhậm, khơng phải nằm trong sự thống nhất mà vạn vật trở nên bất
động mà ln có sự vận động biến đổi khơng ngừng. Chính trong sự vận động biến đổi
đó giúp sự vật khơng ngừng phát triển. Ở Ngơ Thì Nhậm, sự vận động, biến đổi của thế
giới không phải do một cá nhân, một lực lượng nào sinh ra mà nó diễn ra một cách hết
sức tự nhiên, trong bài Đợi thuyền nơi bến vắng (bài 2), có viết:
Đầy vơi chuyển động nào vơ sự
Đóng mở vịng xoay há phải cầu. (Cao & Thạch, 1978, tr. 379)
276



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

Vạn vật trong thế giới không bao giờ bất động mà luôn trong một trạng thái biến
đổi khơng ngừng. Ngơ Thì Nhậm khơng khao khát con người có thể điều khiển được sự
vận động biến đổi đó bởi đó là một quy luật trong tự nhiên không do ai sinh ra và cũng
không bao giờ bị mất đi. Ngồi ra, ơng cịn thấy được sự chyển động của vũ trụ mênh
mơng. Ơng coi trời chỉ là khoảng khơng cao thẳng nhưng ở trong đó lại có sự biến đổi và
phát triển khơng ngừng, trong bài Lịng ln thanh thản có viết:
Mây bay, mưa dội, hình thảy trôi đi
Tháng lạ ngày qua chút không ngừng lặng. (Cao & Thạch, 1978, tr. 23)
Ở đây, sự thay đổi của thời gian cũng tuân theo một quy luật khá ổn định, thời
gian như được một cỗ máy điều khiển mà như cách nói của Ngơ Thì Nhậm thì đây là cỗ
máy huyền vi, một cỗ máy chỉ có trong sự tưỏng tượng của con người nhưng chính nhờ
cỗ máy này mà thời gian luôn xoay vần theo một trật tự. Cũng trong Thiên qn thái
nhiên phú, ơng có viết: “Máy huyền vi xoay vần hun đúc, khi thảm ắt muôn vật đều thảm,
lúc thư thì vạn vật đều thư”. [Cao & Thạch, 1978, tr. 23]
Tuy nhiên, sự vận động, biến đổi của thế giới khơng phải lúc nào cũng có thể
chứng kiến bằng mắt thường mà có lúc phải dùng đến lý lẽ để nhận biết. Về điều này Ngơ
Thì Nhậm có viết trong bài Lâm Trì phú như sau:
Đem lý lẽ mà suy
Trờ kia cùng với nước
Lúc mênh mang giữ bầu không
Khi cuồn cuộn giữn mặt đất
Đầy vơi, thừa thiếu
Vần xoay không ngừng. (Cao & Thạch, 1978, tr. 49)
Ở Ngơ Thì Nhậm, sự vật, hiện tượng trong thế giới khơng phải điều gì cũng sáng
rõ mà trong đó cịn có những sự biến đổi mà con người tuy gắn bó nhưng vẫn chưa tìm ra
câu trả lời cho phù hợp, giống như trường hợp biến đổi của trăng, của nước, của hoa hay
của băng, ơng viết tiếp:

Trăng sao có thượng huyền hạ huyền?
Nước sao có triều xuống triều lên?
Hoa sao có khi tàn khi nở?
Băng sao có khi cứng khi mềm? (Cao & Thạch, 1978, tr. 49)
Vũ trụ này bao giờ cũng vậy, khơng phải bất kể điều gì cũng sáng tỏ ngay khi con
người ta đi vào tìm hiểu, có những cái có thể giải thích được ngay nhưng có những cái
277


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC THƯỜNG NIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT NĂM 2018

muôn đời vẫn luôn là một vấn đề bị đóng kín. Khơng khuất phục trước những bí ẩn của
vũ trụ Ngơ Thì Nhậm ln tìm cách phá bỏ hàng rào vơ hình ấy, ơng cố gắng tìm kiếm
những cách lý giải mang tính thuyết phục cho những gì đã và đang tồn tại, cả những trạng
thái động, tĩnh trong tự nhiên. Là một nhà tư tưởng lớn, khi đi vào vấn đề bản thể của thế
giới, ở Ngơ Thì Nhậm chứa đựng rất nhiều quan điểm và tư tưởng nổi bật, ông không chỉ
biết quanh quẩn với những cách giải thích mộc mạc mà ln cố gắng tạo ra một đường
truyền dẫn con người đi vào những giá trị cao hơn, đích thực hơn của cuộc sống. Tư tưởng
của Ngơ Thì Nhậm về bản thể càng rõ hơn về sau khi ông đã trải qua nhiều biến động của
thời cuộc, khi ông nghiệm ra được những giá trị to lớn trong các vấn đề của xã hội.
3.

KẾT LUẬN

Những quan điểm của Ngơ Thì Nhậm đề thế giới quan đã đem đến cho chúng ta
cái nhìn mới hơn trong cách hiểu thế giới. Khuynh hướng chủ đạo trong thế giới quan của
Ngơ Thì Nhậm là hướng đến sự dung hịa “Tam giáo”. Ơng khơng phải là người đầu tiên
theo xu hướng này nhưng sự hòa hợp của ông không giống như các nhà tư tưởng khác.
Ông đã không bê y nguyên các phạm trù về thế giới quan của Phật, Lão - Trang dung hợp
thành các phạm trù của mình như các học giả đời Tống mà ông chỉ sử dụng các phạm trù

mà Tống Nho đã tạo dựng như tâm, tính, lý, dục đã giải thích trở lại các quan điểm triết
học của Phật giáo.
Quan điểm thế giới quan của Ngơ Thì Nhậm về thế giới quan đã mở ra một hướng
đi cho các nhà tư tưởng đương thời trong quá trình tìm một cách giải thích mới hơn về
thế giới, thể hiện yếu tố biện chứng rõ rệt. Sự vận dụng có khoa học và có chọn lọc những
tư tưởng của các nhà triết học đi trước đã tạo ra một phong thái khác trong tư tưởng của
Ngơ Thì Nhậm nói riêng cũng như tư tưởng triết học Việt Nam nói chung lúc bấy giờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Xuân Huy & Thạch Can (1978), Tuyển tập thơ văn Ngơ Thì Nhậm, Tập 1, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
Cao Xuân Huy & Thạch Can (Chủ biên), 1978, Tuyển tập thơ văn Ngơ Thì Nhậm. Tập 2,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Dỗn Chính (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mai Quốc Liên (2001), Ngơ Thì Nhậm tác phẩm, Tập 3, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên
cứu Quốc học, Hà Nội.
Thơ văn Lý Trần (1998), Tập 2, Quyển thượng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Thái Tông (1974), Khoá hư lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

278



×