Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tìm hiểu về các loại ghe và nghề đóng ghe tại Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.67 KB, 14 trang )

Tìm hiểu về các loại ghe và nghề đóng ghe tại Nam B ộ
Nam Bộ là một châu thổ thấp và phẳng, là sản phẩm bồi tụ của sông
Mekong, kéo dài từ bồn địa Tonle Sap (campuchia) t ới đồng b ằng sông
Tiền và sông Hậu. Do là vùng đất cửa sông giáp biển nên việc bồi t ụ này
vẫn đang tiếp diễn hằng năm, kéo dài và nới rộng mũi Cà Mau. Vì th ế, đ ặc
điểm nổi bật của văn hóa Nam bộ là nền văn hóa sơng n ước, th ể hi ện qua
nền nông nghiệp lúa nước, tập quán khai thác th ủy sản, rồi cách th ức đi
lại, tổ chức lễ hội và ngôn ngữ giao tiếp. Sống giữa sơng ngịi ch ằng chịt, t ự
bao đời nay con người đã gắn bó với sơng rạch trong các sinh ho ạt th ường
nhật của mình. Ghe xuồng ở Nam Bộ có vị trí rất quan tr ọng trong giao
thông đường thuỷ, ở một địa bàn mà mạng lưới sơng ngịi, kênh rach
chằng chịt, việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện đi lại, vận chuy ển đã
trở thành nét độc đáo trong đời sống của cư dân vùng này. Có th ể nói, c ư
dân miệt sông nước ra đến ngõ là gần như phải đi ghe, xuồng. Ngay t ừ
thuở đi khai hoang của cha ông ta, việc đi lại bằng đường thuỷ v ẫn tiện l ợi
và an toàn nhất.
Sách Gia Định thành thơng chí mơ tả: Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe
thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc đi chợ, hay để đi thăm ng ười
thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuy ền ch ật
sông ngày đêm qua lại, sỏng xuồng liên tiếp”
1.Đặc điểm phân loại
Ghe xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều ki ểu lo ại, tên
gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và
phương thức hoạt động có thể phân chia thành:
Ghe bầu là loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng phình to, có t ải
trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi
nhanh, có nhiều chèo để đi sơng và đi biển dài ngày.th ường dùng đi đ ường
biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe tr ường đà. Ghe b ầu (Prau) b ắt


nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến ti ếp thu


được của người Chăm.Trước năm 1945, hàng năm các lái buôn l ớn t ừ mi ền
Trung chở cá, mắm cá mòi, chủ yếu là nước mắm cá c ơm c ủa vùng Phan
Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở ra bằng loại ghe này.
Ghe cửa: nhỏ, mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có th ể
ra vào các cửa sông dễ dàng, hay chở hàng đi men theo bờ bi ển.
Ghe lồng (hay ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che
mưa nắng, lịng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để ch ứa các loại
hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuy ển hàng hóa đi d ọc b ờ
biển.
Ghe hàng bo là loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe giàn : có kích thước khá lớn, hai bên hơng trổ cánh cao đ ể ch ở
được nhiều hàng hóa
Ghe be khơng mui hoặc có mui nhỏ chệch về ph ần lái khoảng 1/4
chiều dài của ghe, có thêm hai ghe bên sườn để tăng thêm s ức ch ở.
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên c ố, gồm nhi ều
mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai ph ần, ph ần đ ầu ch ứa
hàng hóa, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui r ời phía sau
phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có s ức ch ở t ừ 150-200 t ấn,
loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài th ường có c ả ch ục
người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không nh ư ki ểu chèo ghe bình
thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho ng ười đi
buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông n ước. Th ường dùng ch ở lúa g ạo,
than củi.
“Chài” xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều Châu, Pok: nhiều,
chài: tải, ghe chài là loại ghe có sức tải lớn.


Theo Vương Hồng Sển, ghe chài gọi đầy đủ là ghe bốc chài, g ốc t ừ
tiếng Khơme “tuk pokchay”, tuk: ghe, thuyền (Khơme); pokchay: ch ở nhi ều
(Triều Châu)[3]

Ghe cà vom: nhỏ, dài, có mui nhỏ nhưng khác ghe l ườn và ghe ngo.
Ghe cá, hay còn gọi là ghe rỗi ,chuyên chở sá đồng t ừ miền Tây v ề Sài
Gịn. Đặc biệt mực nước trong ghe ln cân bằng v ới m ực n ước sơng bên
ngồi để giữ cá luôn sống và ghe cũng luôn vững. “Anh đi ghe cá mũi son,
để em đan đệm cho mịn mười ngón tay”
Ghe bè to và sâu, giống như chiếc xà lan, có mái che, tải tr ọng l ớn,
người chèo có thể đi lại trên mui, dùng chuyên chở hàng hóa trên sơng.
Loại ghe to, mau bán tận Campuchia.
Ghe lưới :giống như chiếc thuyền độc mộc, thân dài, thon, mũi nh ọn.
Đây là loại ghe của người Khơme.
Ghe cào tơm: đầu mũi lài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng
nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm.
Ghe mỏ vạch: mũi vớt cao lên như cái vạch của thợ may.
Ghe cui: ngắn, mũi và lái tương đối bằng, không nhọn nh ư các ghe
khác. Dùng chở củi, lá lợp nhà.
Ghe ngo (tuk ngua): loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Kh ơme,
thường dùng trong bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m
trở lên. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, ph ụng, lân ho ặc
voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở từ 20 đến 40 tay chèo, x ếp thành
hàng đôi, một người cầm lái và một người cầm mũi.
Ghe điệu: mũi lái chạm trổ, kèo mui thường sơn son thếp vàng, bên
trong lót ván trơn bóng, có chỗ nấu nướng, đủ tiện nghi để hút á phi ện cho
giới nhà giàu.
Ghe hầu: sang hơn ghe điệu, dành cho cai tổng, tri ph ủ, tri huy ện. Ban
đêm ghe thắp sáng khơng phải vì mục đích soi đường, mà đ ể báo hi ệu cho


biết là ghe của quan. Một đoạn trích của Huỳnh Minh cho ta th ấy hình ảnh
của chiếc ghe hầu ngày xưa: “Khác với những ghe th ường, ghe h ầu đ ược
đóng vẻ đẹp đẽ, sang trọng hơn: sơn son thếp vàng, đầu rồng đuôi ph ụng,

trước mũi hai chèo, mui ghe lộng lẫy, bên trong trang trí rất đẹp nh ư m ột
phòng khách trên nhà, nào chiếu bông nẹp điều, gối d ựa vải màu s ặc s ỡ,
đồ lệ bộ, ống điếu bình, văn án thấpv.v…Ban đầu chỉ có loại quan ch ức
mới đi loại ghe này, về sau các nhà giàu có, dư dả cũng đua nhau s ắm ghe
hầu, như kiểu đổi Citroen con cóc để sắm Dodge hay Mercédes đi cho
oai”[4]
Ghe sai: cịn gọi là ghe khoái, nhỏ, chèo nhẹ, dùng vào vi ệc quan.
Ghe quyển: có mui che từ đầu đến cuối ghe, dùng để ch ở quân lính.
Ghe lệ hoặc ghe ô: dùng vận chuyển lính hay quân cụ. Nh ững chiếc
dành cho chỉ huy thường được chạm trổ toàn thân rất tinh xảo. Loại này
thường được sơn đỏ nên cũng gọi là ghe son hay ghe vẹm.
Ghe trẹt (trẹt): không mui, đáy bằng, hai đầu ghe đều bằng đ ể ch ở
trâu bò.
Ghe vợi: ghe nhỏ, cột theo sau những chiếc ghe lớn đ ể chuy ển hàng
hóa vào bờ.
Vỏ lãi: mũi ghe bằng, dài khoảng 9m, thành ghe th ấp, bề ngang h ẹp.
Tắc ráng: thường dài hơn vỏ lãi, mũi nhọn, chạy rất nhanh (chiếc
Speedo do Kiên Giang Composite chế tạo có thể chạy đến 60km/gi ờ).
Chiếc ghe đặc biệt xuất hiện từ năm cuối 1959 ở địa danh mà cả xóm, ấp,
chợ và con rạch đều mang tên Tắc Ráng (nay là khóm Vĩnh Vi ễn, ph ường
Vĩnh Hiệp, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù h ợp v ới đi ều
kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. M ột s ố lo ại ghe có
tiếng như:


Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng đ ể đánh
bắt thuỷ sản.
Ghe cửa Phú Quốc để chở thuỷ sản và mắm.
Ghe Cần Thơ: lớn, dài, tiện cho việc đi sông.

Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh b ắt
thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại: dùng đánh bắt trên biển, chuyên ch ở hàng hóa đi bi ển
hoặc trên các con sơng lớn. Loại ghe có đặc tr ưng riêng, khá n ổi ti ếng, do
những thợ thủ cơng Bình Đại (Bến Tre) đóng. Ngày xưa, vùng này có m ối
giao lưu mua bán với Mỹ Tho, Sài Gịn, Gị Cơng, Vũng Tàu, Bà R ịa, Phan
Thiết. “Khác với ghe Cần Đước mũi ngắn, lườn rộng, ghe Vàm Láng (Gị
Cơng) mũi nhọn mà cao, lườn dẹt, ghe Hòn (Phú Quốc) c ủa miền tây mũi
đứng, lườn rộng, thân dài, ghe của Bình Đại- thường đ ược gi ới sông n ước
gọi là ghe số 14 mũi đen- cao vừa phải, lườn rộng, thân v ững, đi bi ển ho ặc
chuyên chở trên sông đều tốt, chịu nhảy sóng, mạnh s ức ch ở. Ghe c ửa Bình
Đại bánh lái đẹp và dài, có hai buồm, có trục cuốn, buồm đánh b ằng lá
bn đan( tức một loại lá cọ, người ta quen gọi là đệm buồm) “[5]
Ghe Cần Đước (Long An) dùng đánh bắt cá(đóng đáy, chài cá),
chuyên chở hàng hóa trên các tuyến sông. Loại ghe l ớn, ch ạy nhanh, ch ở
khoẻ, có dáng đẹp, nhưng chỉ sử dụng tiện lợ trịn sơng rạch vì l ườn trịn,
nhảy sóng kém. Mũi và lái đều nhọn và nhô cao, chậu mũi vàchậu lái cong
tròn, bánh lái to và cao, cần lái nằm ngang quá mũi ghe. Ghe C ần Đ ước mũi
sơn màu đỏ tươi, lườn màu xanh, hai mắt tròn xoe, tròn đen và to, th ường
gọi là “đôi mắt đảo mèo”[6]
Ghe ai đ ỏ mũi tr ảng l ườn
Ph ải ghe Gia Đ ịnh xu ống v ườn thăm em?


Ngồi ra, tuỳ vào mục đích sử dụng mà ghe xuồng ở Nam Bộ có những
tên gọi khác nhau, như dùng để giăng câu thì gọi là xuồng câu ; đánh b ắt
thì có ghe lưới, ghe đáy; đưa khách trên sơng thì g ọi ghe đị (đị ngang, đị
dọc; đị chèo, đị đạp, đị máy) ; dùng bn bán hàng hóa thì có ghe hàng…
2. Nghề đóng ghe

Từ cuối thế kỷ XVIII, ở đất Gia Định- Đồng Nai, ngành đóng và s ửa
chữa tàu thuyền đã ra đời, phục vụ cho nhu cầu vận chuy ển đ ường thu ỷ
ngày càng lớn của vùng đất này.”Ở ngã ba sông Nhà Bè thu ộc huy ện Ph ước
Long, tục gọi phường Thương Đà, trước kia tàu thuyền của ph ương Bắc
đến bn bán, phàm thuyền bị nát, bị rị phải sửa chữa hoặc đóng thuy ền
mới, tất do chỗ này”. “Luỹ cũ Trao Trảo ở huyện Long Thành năm Canh
Tuất (1790) đầu đời trung hưng, đắp thành luỹ, đóng tàu thuy ền”
Ở Nam Bộ có nhiều “lị” đóng ghe nổi tiếng, thành ra nh ững tr ường
phái riêng, có thể kể như: ghe Bình Đại, ghe Cần Đước, ghe Bà R ịa, ghe Phú
Quốc…
Trước Cách mạng tháng Tám- 1945, tại Bình Đại có các tr ại ghe B ắc
Hải ở Thọ Phú và ghe Đông Hải ở Phước Thuận chuyên đóng nh ững ghe
cửa lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các tỉnh c ực Nam Trung B ộ, n ổi
tiếng một thời. Thợ thủ công ở Vũng Luông (Thọ Phú- Thới Thuận) và vàm
Bà Khoai là những nơi có tay nghề cao.
Tại Cần Đước đã hình thành nên hai trung tâm đóng ghe, m ột ở ch ợ
Kinh và một ở vàm Cầu Nổi với những trại ghe tiếng tăm nh ư Hiệp Phát,
Hiệp Lợi, Trần Văn Chà (sau đổi là Tân Hưng) ở chợ Kinh; Năm Châu, Bảy
Thạch…ở Phước Đơng hay có thể kể thêm Hiệp Đồng, Hiệp Hoà ở Tân T ập
(Cần Giuộc)
Từ đầu thế kỷ XX, nghề đóng ghe xuồng ở Cần Thơ đã phát triển. Lúc
đầu chỉ vài hộ, rồi dần dần trở thành làng nghề, mang tính chuyên nghiệp,
cha truyền con nối. Nổi tiếng nhất là ở Ngã Bảy (Phụng Hiệp). Ở Vàm


Xáng, Phong Điền, thị trấn Cái Răng (Châu Thành) cũng là nh ững làng ngh ề
đóng ghe xuồng danh tiếng.
Ghe đóng ở Cần Thơ nổi tiếng kiểu dáng thanh mảnh, mũi nh ọn, nhảy
sóng tốt. Phong Điền là nơi chuyên đóng ghe h ầu v ới kỹ thu ật ch ạm tr ổ
rất khéo.

Ở thành phố Hồ Chí Minh có làng đóng ghe cầu Rạch Ong n ằm hai bên
bờ rạch Ong, gần ngã ba của con rạch này và kinh Tẻ, thuộc đ ịa bàn
phường Tân Hưng (quận 7) và phường 1 (quận 8). Làng ngh ề này hình
thành khoảng năm 1962, do những người thợ từ Cần Đước, C ần Giu ộc
(Long An) mang đến. Trọng tải của loại ghe Cần Đước đóng t ại đây có
nhiều cỡ, khoảng từ 30-200 tấn. Gần đây, làng nghề chủ yếu đóng các lo ại
tàu kéo, tàu ủi và xuồng thơng với sức chở từ 500kg đến 3 tấn, và s ửa ch ữa
các loại ghe thuyền khác nhau.
Ở An Giang, nghề đóng ghe xuồng ngày càng phát tri ển ở m ột s ố làng
xã như: Mỹ Hiệp, Mỹ Luông, Chợ Thủ (Chợ Mới), Bình Mỹ, Bình Long (Châu
Phú). Ghe xuồng có giá rẻ, dễ mua sắm, kiểu dáng ln đ ược cải ti ến.
Tại Bà Rịa- Vũng Tàu, các trại ghe tập trung chủ yếu ở Bình Châu,
Phước Bửu, Long Hải, Phước Lễ, Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu…
Ở Vĩnh Long hiện còn vài trại ghe nổi tiếng, do cha truy ền con n ối
nhiều đời, như trại ghe Năm Danh, Phước Thành, Năm Sên, Thanh H ải ở
Trà Ôn; trại ghe Hòa Hiệp tại Cầu Mới; trại ghe ở ấp Thanh Tân và Thanh
Khê xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm…
3.Phương thức hoạt động
Ngày xưa, việc lưu thông của ghe xuồng trên sông đã đ ược nhà n ước
đặt thành những luật lệ với những quy định cụ thể:”phàm ghe thuy ền đi
bất luận gặp gió nước thuận hay nghịch, khi đi gần gặp nhau thì ph ải hơ là
“bát” (tục thường ghe đi phía tả gọi là “cạy”, đi phía h ữu g ọi là “bát”) thì
ghe mình đi qua phía hữu, để cho thuận lái thuận sào dễ điều khi ển mà


tránh nhau. Nếu ghe này đã hô “bát” mà ghe kia cịn đi t ới phía t ả khơng
tránh để cho đụng nhau hư hỏng, thì lỗi ấy về ghe khơng tránh kia. L ại
trong trường hợp ấy có kẻ biện chiết chưa chịu khuất phục, thì phải xét
ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận dòng n ước, th ừa th ế ấy chạy mau ph ải
đụng ghe kia, thì ghe ấy bị lỗi”

Khoảng từ 1920, chính quyền thuộc địa đã ra một “bài ch ỉ” ghe ở các
tỉnh Nam Bộ, quy định ghe mỗi tỉnh có một con số riêng. Bài ch ỉ ấy l ấy ch ữ
đầu của 20 tỉnh ở Nam Kỳ ghép thành vần, rồi đặt số:
“Gia, Châu, Hà,
Rạch, Trà, Sa, Bến,
Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên,
Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, Gò, C ần, B ạc “
Như vậy ghe Gia Định mang số 1, ghe Bến Tre có số 7, ghe Bà R ịa thì
số 15…
Hoặc như ghe của các vùng cũng sơn màu nơi mũi ghe để phân biệt
nhau
Thuy ền B ắc Nam lui t ới
Ghe đen mũi, ghe vàng mũi ra vào coi loà n ước
Ng ười Đông Tây qua l ại
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa ch ất ng ất
(Ngơ Nhân T ịnh)
Để đề phịng nạn cướp bóc diễn ra trên sơng nước, chính quy ền
phong kiến đã có quy định rõ ghe thuyền phải có “đăng ki ểm” đ ể d ễ b ề
kiểm soát:”ghe thuyền lớn nhỏ trong hạt, quan nha sở tại phải buộc khai
báo tên họ làm số sách tra cứu rõ ràng, rồi khắc chữ đóng n ơi đầu thuy ền,
người nào trái lệnh bị tội, và làm bộ tịch ghe thuyền đ ể l ưu chiếu. T ừ đó
người chủ bị cướp nhận thấy được kẻ cướp, chỉ tên ra tố cáo, truy nã, mà
bọn ác ôn khiếp phục yên lặng cả”


Có thể nói, ghe xuồng có mặt khắp mọi nơi, theo từng b ước chân của
người dân Nam Bộ, trên mọi “địa hình” của miền sơng n ước: t ừ n ơi th ị t ứ
đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu nguồn đến cuối bãi, n ơi giáp n ước,
ngã ba sông, dọc ven biển…Người ta dùng ghe xuồng đi mua bán, thu
hoạch nông sản, đánh bắt tôm cá trên sông cho đến đi thăm ng ười quen,

giỗ chạp, ma chay, cưới xin…Ngày nay tận dụng ưu thế đó, nh ững con
“thuyền văn hóa”, “thuyền bệnh viện” đã hoạt động khá hi ệu qu ả n ơi
miền sông rạch này.
Một phương thức sinh hoạt kinh tế nhưng lại mang đậm dấu ấn c ủa
văn minh sông nước, đó là chợ nổi của miền Tây Nam Bộ. Ng ười dân mi ền
Tây đã tạo cho mình một phong cách sinh hoạt riêng, phù h ợp v ới đi ều
kiện đặc thù của tự nhiên nơi đây. Gần như ở các tỉnh đồng bằng sơng C ửu
Long đều có chợ nổi: Ngã Bảy, Cái Răng, Phong Điền (C ần Th ơ), An H ữu
(Tiền Giang), Ngã Năm, Trà Men (Sóc Trăng), Năm Căn, phường 8, Thới
Bình (Cà Mau), Long Xuyên (An Giang), Sa Đéc (Đồng Tháp)…Trong đó vang
tiếng cả nước là chợ nổi Ngã Bảy (Phụng Hiệp, Cần Thơ) và ch ợ nổi Ngã
Năm (Thạnh Trị, Sóc Trăng) trên kênh Quản Lộ. Ở chợ nổi bán người ta
mua bán đủ thứ, từ trái cây, rau thịt, cá…cho đến hàng tiêu dùng, bán cả đồ
ăn thức uống, gần như không thiếu thứ gì. Chợ nổi có lối tiếp thị trên trời,
theo kiểu “treo gì bán nấy”. Trước mỗi ghe có một cây sào cao, trên đó treo
những hàng hóa cần bán (dân địa phương gọi là bẹo). Ch ợ n ổi cũng có
những chợ dạng “chuyên doanh”. Chợ nổi An H ữu (Cái Bè, Tiền Giang) là
chợ trái cây đầu mối lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Ch ợ Trà Men (Sóc
Trăng) nổi tiếng với các mặt hàng lọp, lờ, lu, khạp…Chợ nổi thực s ự là b ức
tranh đầy màu sắc của châu thổ sông Cửu Long.
4.Trong đời sống văn hóa
Ghe xuồng ở Nam Bộ cũng được phản ánh khá đậm nét trong nhi ều t ừ
điển, từ đó có thể thấy được sự đa dạng, phong phú trong cách th ức đ ặt


tên theo chức năng, theo địa phương, theo chất liệu cấu tạo, theo màu sắc
của loại hình phương tiện giao thông đặc biệt này.
Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của ghi 28 tên ghe:
ghe bầu, ghe trường đà, ghe cửa, ghe bản lồng, ghe bất mãn, ghe v ạch (ghe
mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe v ợi, ghe giàn,

ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then tr ỗ, ghe
hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng
bổ.
Dictionnaire Vietnamien – Francais (1898) của Génibrel th ống kê
được 38 tên ghe: ghe bầu, ghe biển, ghe cửa, ghe nốc (ghe giã), ghe mành,
ghe nang, ghe lồng, ghe lồng chón, ghe bốc chài, ghe trẹt, ghe giàn, ghe r ập
đáy, ghe cui, ghe cá, ghe rớ, ghe lườn, ghe vạch (mũi v ạch, m ỏ v ạch), ghe
câu, ghe rỗi, ghe đò, ghe hầu, ghe lê, ghe son, ghe vẹm, ghe ô, ghe h ồng, ghe
quyển, ghe diều, ghe mui ống, ghe giã vọng, ghe sơn đỏ, ghe ti ểu điếu, ghe
bản lồng, ghe khoái, ghe sai, ghe đại trường đà, ghe chiến, ghe nan.Trong
đó có một số loại ghe khơng phải của (hoặc chỉ có) ở Nam Bộ nh ư: ghe
nốc, ghe mành, ghe nang, ghe giã vọng, ghe bầu, ghe đ ại tr ường đà.
Dictionnaire Vietnamien – Chinois – Francais (1937) của Gustave Hue
chép 40 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe b ể (ghe bi ển), ghe b ốc chài,
ghe cá(ghe câu), ghe cui (ghe be), ghe cửa, ghe chiến, ghe di ểu, ghe đ ại
trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe guộc, ghe giã, ghe vọng, ghe giàn, ghe h ầu,
ghe hồng, ghe khối, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe chón, ghe l ườn, ghe
mành (ghe biển), ghe mui ống, ghe nan, ghe n ốc (ghe bi ển), ghe ngo, ghe
quyển, ghe rập đẩy (ghe be), ghe rỗi, ghe r ớ, ghe sai, ghe son, ghe s ơn đ ỏ,
ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch (ghe mỏ vạch, mũi vạch), ghe v ụn (ghe
son), ghe nan.
Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais (1957) của E. Gouin cho ta
39 tên ghe: ghe bầu, ghe be, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe cá, ghe


câu, ghe cui, ghe cửa, ghe chiến, ghe chiều, ghe giàn, ghe di ểu, ghe đ ại
trường đà, ghe đinh, ghe đò, ghe giã, ghe giã v ọng, ghe h ầu, ghe k ẻ, ghe
khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe lườn, ghe mành, ghe mui ống, ghe
nan, ghe nốc, ghe ngo, ghe quyển, ghe ô, ghe r ỗi, ghe r ớ, ghe sai, ghe son,
ghe sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch, ghe vẹm (ghe son).

Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) của Vương Hồng Sển cung cấp 32
tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe nạn, ghe cửa, ghe bản lồng (ghe l ồng),
ghe bất mãn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe l ườn, ghe be,
ghe ngo, ghe vợi, ghe đò, ghe giàn, ghe câu, ghe l ưới, ghe cá, ghe lái ngồi,
ghe đi tơm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chi ến,
ghe điệu, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ, ghe bè, ghe chài.
Từ điển phương ngữ Nam Bộ (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên đếm
được 15 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bầu nóc, ghe be, ghe cà vom,
ghe chài, ghe chài lớn, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe h ầu, ghe l ồng, ghe
lườn, ghe mỏ vạch, ghe ngo. Đây là số tên ghe được ghi nhận ít trong s ố 5
cuốn từ điển trên và ít hơn trong thực tế rất nhiều.
Các từ ngữ liên quan đến chiếc ghe cũng được thể hiện khá rõ, ch ỉ
riêng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh T ịnh C ủa đã có: ở ghe, đi
ghe, về ghe, ra ghe, lui ghe, xuống ghe, coi ghe, đ ậu ghe, ghe gu ộc. V ề t ục
ngữ thì có câu: Ghe khơng lái như gái khơng chồng.
Xung quanh chuyện ghe xuồng ở Nam Bộ đã để lại dấu ấn qua nhiều
địa danh, chẳng hạn như: Nhà Bè, Cái Bè, Vũng Tàu, R ạch Tàu…
Nhà Bè vốn gắn liền với truyền thuyết Võ Thủ Hoằng (đọc trại thành
Huồng), nhà giàu có, thường cho vay nặng lãi. Sau s ợ bị tr ừng ph ạt n ơi âm
phủ bèn phát tích làm lành, dựng nhà bè n ơi ngã ba sông, trên đ ể g ạo c ủi
mắm muối cho khách lỡ đường. Truyền thuyết Thủ Huồng v ới môtip “du
địa phủ” này, nay hãy còn để lại dấu vết ở chùa Chúc Đảo (th ường g ọi
chùa Sau hay chùa Thủ Huồng), xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà.


Nhà Bè n ước ch ảy chia hai
Ai v ề Gia Đ ịnh Đ ồng Nai thì v ề
Trên sơng La Ngà (Đồng Nai) và Long Xuyên (An Giang) trên sông H ậu
nay là những nhà bè nuôi cá nổi tiếng, mà con cá basa đã đi vào th ị tr ường
nước Mỹ.

Theo Sơn Nam trong Bến Nghé xưa thì Cái Bè (Tiền Giang) vốn do ghe
bè, một loại ghe lớn, tụ tập mua bán lên Campuchia mà thành tên đ ất. Cái
trong từ cổ chỉ sông rạch.
Vũng Tàu (Bà Rịa- Vũng Tàu), Rạch Tàu (Cà Mau) là nh ững n ơi tàu
thuyền thường trú đậu.
Trong diễn xướng dân gian Nam Bộ, hị sơng n ước chiếm m ột vị trí
quan trọng. Liên quan đến việc đi lại trên sơng n ước có th ể k ể ra nh ư
những điệu hò như: hò chèo ghe, hò mái đoản, hò mái nhì, hị mái tr ường,
hị khoan, hị mái ố, hị Đồng Tháp, hị Sơng H ậu…Có nh ững câu t ư duy
nghệ thuật dân gian đạt đến mức táo bạo:
N ước Tân Ba ch ảy qua Vàm Cú
Th ấy em chèo c ặp vú mu ốn hun
Gắn với ghe xuồng cịn có nhiều bài vè mơ tả l ại các ho ạt đ ộng s ản
xuất, mua bán: Vè đánh lưới, Vè đi biển, Vè lái rỗi, Vè đ ường sông L ục T ỉnh,
Vè thương hồ…
Đua ghe là một trị chơi giải trí mang tính cộng đồng khơng th ể thi ếu
được ở miền Tây Nam Bộ. Hoạt động này thường diễn ra vào dịp T ết, d ịp
lễ, cúng đình…Người ta thường tổ chức đua ghe giữa các thôn ấp v ới nhau.
Ghe đua của người Việt là loại ghe be, ghe trảng l ườn. Trong khi đó ghe
đua của người Khơme lại là ghe ngo.
C. Lemire trong tác phẩm Cochinchine Francaise et Royaume de
Cambodge (1884) của mình đã mơ tả lại cảnh đua thuyền độc mộc đầy
náo nhiệt trên sơng Sài Gịn vào cuối thế kỷ XIX. Đây chính là nh ững cuộc


đua ghe ngo hào hứng mà ta thường thấy trong các dịp lễ Ĩoc-om-bóc ở
Sóc Trăng. Đọc lại đoạn trích này để thấy được sức sống mãnh liệt của
một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đậm đà bản sắc của dân t ộc
Khơme, mà đã có một thời người ta phục hồi lại ở thành ph ố Hồ Chí Minh
những năm đầu 90 của thế kỷ trước.”Mỗi năm ở Sài Gịn vào ngày 15 tháng

tám có đua ghe kỳ lạ. Trên sơng Sài Gịn bề ngang t ừ ba đến bốn trăm mét
vắt ngang qua thành phố, khoảng 20 ghe độc mộc dài, thon có treo c ờ: ở
đằng đầu sừng sững một đầu rồng bằng cáctông với sừng và râu dài b ằng
dây sắt, ở đằng sau là hình cái đi của con qi v ật. Các thuy ền đ ộc m ộc
này hẹp đến nỗi hai người chỉ có thể ngồi đối diện nhau trên một cái băng
nhỏ (…). Ba chục người ngồi ép sát nhau trên các ghe mảnh mai này và ch ờ
lệnh. Một phát đại bác từ sối hạm được bắn đi, chng tr ống đáp l ại và
các ghe lướt trên sóng thi đua chèo nhanh. Các bạn tưởng đâu là nh ững con
rắn, rất quái đản lướt trên nước. Các tay chèo mình trần đến th ắt l ưng,
màu da hơi xanh xanh màu ô liu, bắp th ịt nổi vồng; (...)Âm thanh c ủa các
nhạc cụ xa lạ này, những tiếng la thét này làm người ta liên t ưởng đến các
cuộc tấn công của giặc cướp rất thường xảy ra ngày tr ước trên các sơng
lớn này (…)
Một khía cạnh văn hóa liên quan đến ghe xuồng đó là tín ngưỡng xung
quanh loại phương tiện giao thơng thuỷ đặc biệt này. Ng ười đóng ghe thì
có lễ cúng ghim lô, cúng khai nhãn, cúng hạ thuỷ, đại khái cầu cho m ọi
việc được hanh thông. Người sử dụng ghe thì cúng ở đầu mũi ghe cầu cho
mua may bán đắt (dân thương hồ), đánh bắt được nhiều cá tôm (ngh ề h ạ
bạc), chở khách được an toàn (dân tàu đò)…
Đặc biệt mắt ghe là một biểu tượng văn hóa cần đ ược gi ải mã.
Mắt ghe từ TP.Hồ Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là m ắt
tròn, tròng đen, nhãn trắng, mang ghe được trang trí nhi ều ki ểu dáng khác
nhau với đường viền trắng chạy xung quanh.


Nhìn chung, sự khác biệt về hình dáng, màu sắc, đ ường nét c ủa
các con mắt thuyền ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, trình đ ộ tay
nghề của những người thợ đóng ghe thuyền và phong cách này cũng
thường mang tính ổn định. Mắt ghe thuyền được trang trí lại sau m ột th ời
gian sử dụng.

Lời kết
Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là m ột loại ph ương tiện giao vơ cùng
hữu hiệu, nó gắn bó vơ cùng mật thiết với cư dân vùng sông n ước, lại v ừa
là ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vơ cùng độc đáo. Mai đây, ở
vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kỹ thuật có phát tri ển đến m ấy
đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn lên, nh ưng ch ắc r ằng vai trò
của “người bạn đường” này là không thể thay thế đ ược.



×