Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN văn học SO SÁNH NHÂN vật mẹ xứ sở TRONG TRUYỀN THUYẾT của NGƯỜI CHĂM và NGƯỜI VIỆT ở TỈNH KHÁNH hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.13 KB, 12 trang )

SO SÁNH NHÂN VẬT MẸ XỨ SỞ TRONG TRUYỀN
THUYẾT CỦA NGƯỜI CHĂM VÀ NGƯỜI VIỆT Ở KHÁNH
HỊA
1. TÌM HIỂU SƠ NÉT VỀ TỤC THỜ ĐẠO MẪU VÀ HIỆN
TƯỢNG TRUYỀN THUYẾT THIÊN Y A NA
1.1. TỤC THỜ ĐẠO MẪU
Trong tín ngưỡng dân gian người Việt, tục thờ Nữ thần và thờ
Mẫu có vai trị, vị trí khá quan trọng. Nó đáp ứng nhu cầu và khát
vọng của đời sống thường nhật. Có một điểm văn hóa chung đầy lí
thú và thích hợp nhất cho sự lí giải về hiện tượng tiếp xúc hai nền
văn hóa truyền thống. Đó là tục thờ Đạo mẫu. Dân tộc Việt cũng
từng trải qua chế độ mẫu hệ nên truyền thuyết của người Việt cũng
không thể khơng kể về văn hóa mẹ. Người Việt tơn kính Mẹ Âu
Cơ, Bà Nữ Oa, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thượng
Thiên, Mẫu Thoải…Tôn thờ họ là những bà mẹ linh thiêng, ban sự
sinh sôi, ban phúc lành cho dân chúng. Văn hóa Chăm cũng có nét
tương đồng ấy. Họ đã tôn thờ Nữ thần Pô Nagar thành một Bà mẹ
thị tộc, thành Bà Chúa Chàm. Cho nên, khi tiếp xúc với văn hóa
Việt, tín ngưỡng tơn vinh Đạo Mẫu đã được phổ biến cho cả hai
dân tộc.
Bà Thiên Y được miêu tả như một nữ thánh nhiều lần hóa
kiếp, trong đó rõ nhất là bà hiện thân thành cây kỳ nam để qua
Trung Hoa lánh nạn. Tại đây, bà lấy một ơng hồng làm chồng rồi
cùng hai con quay trở về quê cũ để khai hóa dân chúng. Đồng thời,


bà cũng không ngần ngại sử dụng quyền lực siêu nhiên ban phước
lành cho dân để nhân dân tơn kính và ngưỡng mộ. Nhà nghiên cứu
văn hóa Việt – Chăm Parmentier đã nói về vấn đề này: “ Để có một
giải thích đơn giản về hệ thống chư thần mà họ quen thuộc lắm,
người Việt đã coi hình ảnh nữ thần Pơ Nagar cũng như hình tượng


bất cứ vị thần nào”. Kết luận này cũng có phần hợp lí để lí giải
một trong những lí do khiến cho truyền thuyết về Nữ thần Pơ
Nagar Việt hóa thành truyền thuyết Thiên Y A Na. Những quyền
hạn và thiên chức của một mẫu thần ban sự sống và đại phúc cho
muôn dân như bất cứ một thánh mẫu của truyền thuyết dân tộc
nào: Tiên Thiên Thánh Mẫu, Tây Vương Mẫu, Nữ Oa, Âu Cơ. Cho
nên, trong đời sống tâm linh của người Việt, họ đã xem bà như một
vị cứu tinh đã đồng háo Bà trở thành Bà mẹ xứ sở.
Trong quá trình Nam tiến của nhà Lý, Trần, đặc biệt đến nhà
Nguyễn, hàng loạt những cuộc di cư ồ ạt đến vùng đất phương
Nam, trong đó có mảnh đất Khánh Hịa ở Nam Trung Bộ. Người
dân mới đã gặp ngay một bà mẹ quen thuộc ở vung đất lạ. Họ gửi
gắm người mẹ Việt trong bà mẹ Chăm, họ sẵn sàng tơn thờ Bà theo
tinh thần thờ mẹ vốn có của mình. Vì thế, Nữ thần Pơ Nagar, một
quốc mẫu của xứ Kau Thara, đã được cả người Việt và người
Chăm thờ phụng và tôn vinh là Bà mẹ xứ sở của hai dân tộc đang
cùng sinh sống. Người dân bản địa gọi nữ thần bằng cái tên rất
Việt: Thiên Y A Na, Thiên Y Thánh Mẫu, và cả hai cùng gọi thánh


mẫu với tên rất gần gũi mà đầy cung kính là Bà (lễ vía Bà, Tháp
Bà, Lễ hội tháp Bà,…)
1.2. HIỆN TƯỢNG TRUYỀN THUYẾT THIÊN Y A NA
Theo bài nghiên cứu Thiên Y A Na hay sự tiếp nhận Bà Chúa
Chăm của vương triều Nho giáo Việt Nam, thì nguồn gốc của Nữ
thần Pơ Nagar trong bia kí Chăm là nữ thần đại biểu ẩn dưới hình
dạng của Bhagavati Umâ, tức nữ thần Saakti, vợ thần Siva. Vì văn
hóa Chăm ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ nên hình tượng nữ thần
Saakti đã đi vào đời sống tinh thần của họ qua truyền thuyết Nữ
thần Pô Nagar.

Từ vị nữ thần Sâkti của Ấn Độ đến nữ thần Pô Nagar của
người Chăm là một q trình Chăm hóa phức tạp, và từ nữ thần Pô
Nagar của dân tộc Chăm đến Bà Thiên Y A Na của người Việt
cũng là một quá trình Việt hóa đặc sắc. trên thực tế, những ai
nghiên cứu về văn hóa Pơ Nagar ở Khánh Hịa đều có một kết luận
chung về q trình chuyển hóa từ nữ thần Pô Nagar (Chăm) sang
Thiên Y Thánh Mẫu (Việt) là một q trình tiếp xúc văn hóa độc
đáo có một khơng hai trên đất Việt.
Chúng ta có thể thấy rằng: Thực tế tơn giáo và nền văn hóa
cảu hai dân tộc đã làm cho thể loại truyền thuyết dân gian có sự
biến chuyển theo quy luật khách quan. Đó là sự vận động, biến đổi
trong sự thống nhất. Thống nhất đến nỗi khó phân biệt và nhận
diện.
Dân tộc Chăm thờ Pô Nagar là vị thần của cây cỏ, đất đai, sự
sống. Thần là bà mẹ tối cao ban phúc lành cho mn dân. Chính


quan niệm tốt đẹp như thế khiến cho người Việt mới sinh cơ lập
nghiệp trên mảnh đất này mới dễ dàng tiếp nhận, tơn sùng và thờ
cúng Bà như chính Người mẹ vĩ đại của mình
2. SO SÁNH NHÂN VẬT NGƯỜI MẸ XỨ SỞ TRONG
TRUYỀN THUYẾT CỦA NGƯỜI CHĂM VÀ NGƯỜI VIỆT
Ở KHÁNH HÒA
Truyền thuyết về Người Mẹ xứ sở ở Khánh Hòa hiện nay tồn tại
rất nhiều dị bản. sau khi khảo sát, có được tất cả là 8 dị vản thuộc
hai nhóm:
- Truyền thuyết người Chăm kể (nhóm 1).
- Truyền thuyết người Việt kể (nhóm 2).
Con số 8 chưa là tất cả nhưng qua đó cũng thấy rằng đề tài
truyền thuyết này là đề tài trung tâm của truyền thuyết Khánh Hòa,

được giới nghiên cứu quan tâm nhiều hơn cả.
Chúng tơi nhận thấy ở nhóm truyện kể thứ 1 tuy có nhiều chi
tiết khác nhau nhưng nhìn chung vẫn có nét tương đồng về nội
dung cốt truyện: “Pơ Nagar là một vị thần sáng tao ra các xứ sở
người Chăm. Bà lấy chồng, sinh con và hay đi đây đi đó giúp đỡ
nhân dân. Sau khi hồn thành trọng trách, bà đã bay về trời nghỉ
ngơi”. Tuy nhiên trong nhóm truyện kể thứ 2 (nhóm truyền thuyết
do người Việt kể) lại tồn tại ở hai dạng khác biệt: Truyền thuyết
Thiên Y A Na (hay Thiên Y thánh mẫu) kể về cô bé mồ côi được
ông bà tiều phu nhận làm con nuôi. Sau nàng lấy Thái tử Bắc hải,
rồi bỏ chồng trở về quê giúp đỡ nhân dân trồng cây, dệt vải, biết đủ
trăm nghề. Cuối cùng, nàng bay về trời. còn Truyền thuyết Tinh vệ


Mễ Nương kể rằng: “Nàng Tinh Vệ là con gái của vua Hùng. Vợ
chồng bà không ở trong cung son mà đi đây đó để khai hóa nhân
dân, trong đó có xứ Cù Huân. Một trận đại hồng thủy xảy ra, hai
vợ chồng lãnh đạo nhân dân hăng hái chống lũ cứu nhà cửa, ruộng
vườn. hai vợ chồng cũng tử nạn tại đây. Họ được nhân dân tơn
kính gọi là Thiên Y Thánh Mẫu”.
Xét một cách chi tiết, cụ thể, hai nhóm văn bản có những chi tiết
hồn tồn khác nhau khi kể về một nhân vật lịch sử được tôn vinh
là bà mẹ xử sở. chẳng hạn, nổi bật nhất là cách kể về nguồn gốc,
hành tích của Bà khác nhau. Liệu văn bản nào được cơng nhận
chính thống? Văn bản nào được xem có trước? Vì sao lại xuất hiện
nhiều nhóm truyền thuyết khác nhau đến vậy? Điều này vẫn còn
đang bị bỏ ngỏ.
2.1. SỰ KHÁC NHAU
1. Thứ nhất, vì truyền thuyết này ra đời sau, khá muộn so với
tình hình xã hội lúc bấy giờ nên nó đã khơng cịn mang

nhiều dấu ấn của thể loại huyền thoại như nhóm văn bản 1.
Những yếu tố thần kì về nguồn gốc nhân vật, những công
trạng tái tạo cuộc sống mn lồi của Bà mẹ cũng khơng cịn.
Thay vào đó các mơ típ này được kể một cách thực tế hơn. Ít
nhất cũng có một vài chi tiết lấy từ cảm hứng lịch sử dân tộc:
Bà Tinh Vệ ( Mỵ Nương) sinh ra ở vùng đất phía Bắc, bà là
con gái của vua Hùng Càn Vương. Rồi bà Tinh Vệ cũng phải
cùng nhân dân lao động, cùng nhân dân chiến đấu bảo vệ


vùng đất đến hơi thở cuối cùng, chứ không phải được hóa về
trời như một thánh nữ.
2. Thứ hai, các chi tiết xây dựng truyện được miêu tả tỉ mỉ
và cụ thể hơn so với truyện kể Nữ thần Pô Nagar của người
Chăm. Khi xã hội tiến đến thời kì mới, tư duy nhận thức của
con người sẽ cao hơn so với lồi người thời mơng muội. Ý
thức giải thích các chi tiết của cuộc sống cũng có ý nghĩa rõ
ràng hơn. Ở một vài chi tiết tương đồng, truyện có cách lý
giải khác hẳn với nhóm truyện kể 1, nhưng cụ thể và khá hợp
lý hơn. Chẳng hạn, chi tiết cây trầm hương đã được kể như
sau: “Hai vợ chồng ghé vào vùng đất Cù Lao Huân đã thấy
loại cây này, khi đốt lên nghe mùi thơm, có thể xua tan độc
khí. Hai ơng bà lấy nó để chữa bệnh cho nhân dân”. Còn chi
tiết về cây dưa cũng được kế rất rõ ràng: “Bà Tinh Vệ lấy
giống dưa trồng ở Trường Sa (của nước Việt ngày xưa) để
trồng ở thôn Đại Điền. Về sau, người ta gọi nơi đây là Cánh
Đồng Dưa”. Hay chi tiết hai vợ chồng giúp dân chống lũ thể
hiện được cá tính mạnh mẽ và cương quyết của nhân vật:
“Thấy mọi người, nhất là Khánh Long tỏ vẻ ái ngại, trù trừ
cưa quyết, Tinh Vệ hét lớn: “Thời xưa đã dạy: “Nhân định

thắng thiên”, hễ đồng tâm quyết chí cùng nhau thì nhất định
sẽ thành cồng được thôi, mau lên”.
3. Các chi tiết về nguồn gốc, sự xuất hiện chính và cách kết
thúc truyện Bà mẹ xứ sở đã khơng cịn mang dấu ấn của


thần thoại như truyền thuyết Nữ thần Pô Nagar nữa, mà có
vẻ mang hơi hướng của truyện cổ tích hơn. Bà mẹ xứ sở
không xuất thân từ nguồn gốc cao quý mà lại là một cô bé
mồ côi mười ba tuổi, lưu lạc khắp nơi, may được vợ chồng
ông lão tiều phu nhận làm con ni. Sau Bà mới hóa thân vào
cây trầm để đi đến vùng biển Bắc, gặp nhân duyên với Thái
tử Bắc Hải. về sau, Bà đem văn minh học được ở xứ sở người
để khai hóa chúng dân Đại An. Cuối cùng, sau khi hoàn
thành trách nhiệm Bà cũng khơng phải bị trừng phạt như
nhóm văn bản 1 kể, cũng không hi sinh trong cơn lũ như cách
kể cùng nhóm, mà bay về trời nghỉ ngơi, thỉnh thoảng hiển
linh về thăm chốn cũ. Rõ ràng mô típ nhân vật xuất thân từ
nguồn gốc nghèo khổ, tội nghiệp là một mơ típ quen thuộc,
thường thấy ở truyện cổ tích thần kì hơn là truyền thuyết.
Chính cách kể nhân vật có nguồn gốc vơ danh, đáng thương
này là cách kéo nhân vật xuống với đời thường, gần gũi với
nhân dân. Sau đó, phủ lên nhân vật một lớp hào quang cơng
trạng, một lớp áo huyền bí để nhằm tơn vinh, ngưỡng mộ
nhân vật có cơng với xứ sở. Cách xây dựng nhân vật như thế
rất phù hợp với ý thức lý tưởng hóa, khát vọng nhân văn của
người Việt trong cuộc sống buổi đầu trên đất mới.
4. Theo truyền thuyết ghi trên bia kí Chăm, bà Pơ Nagar có đến
79 ơng chồng, sinh ra 38 người con gái, sau này những người
con đều trở thành nữ thần ở các vùng đất Chăm để tiếp tục sự



nghiệp khai hóa và bảo trợ cho dân tộc của mẹ mình. Chi tiết
này phản ánh hiện thực về xã hội theo chế độ mẫu hệ của
lồi người nói chung và dân tộc Chăm nói riêng trải qua
trước kia. Chỉ có điều rất nhiều dân tộc từ từ đã xóa bỏ nó và
phát triển sang chế độ phụ hệ, trong đó có người Việt.
Nhiều vùng Chăm vẫn giữ tập tục mẫu hệ cho đến ngày nay.
Quả thật vậy, trong các truyện kể của nhóm thứ nhất đều có
chi tiết này. Khi tiếp xúc với nền văn hóa Việt, nhân dân đã
Việt hóa những yếu tố này cho phù hợp với sự thay đổi chung
của thời đại và nền văn hóa bản địa. Chi tiết “Bà Chúa đã lấy
một người chồng là Thái tử Bắc Hải và sinh ra hai con, một
trai tên là Tri, một gái tên là Qúy” đã thay thế. Như vậy, tổ
chức gia đình của một vị thần cũng khơng cịn nét đặc biệt
như trước mà đã được miêu tả như những gia đình bình
thường của người Việt. Bà Thiên Y chỉ lấy một người chồng,
sinh có hai con, trai gái đều đủ cả, và hai người con cũng
mang những cái tên rất bình thường, rất Việt. Quả đây là một
sự thay đổi táo bạo của người kể chuyện dân gian. Kinh tế xã hội loài người đã chuyển sang hình thái phong kiến từ rất
lâu, hơn nữa trên một mảnh đất có tiếp xúc hai nền văn hóa,
trong đó người Việt chiếm đại đa số, thì cuộc sống khơng cịn
chấp nhận chế độ mẫu hệ và đa phu nữa. Xã hội dần dần
chuyển sang chế độ phụ hệ, rồi nam quyền, đề khẳng định


sức mạnh của người đàn ơng. Chính vì vậy, truyện kể cũng
thay đổi.
5. Bà Chúa đã có gia đình, có sự nghiệp hiển hách nhưng đã
không ở lại xứ sở người để hưởng thụ mà quay trở về quê

hương sinh sống, đem văn minh tiến bộ học tập được để khai
hóa dâ chúng. Và cuối cùng, Bà đã bay về trời nghỉ ngơi sau
khi đã làm xong nhiệm vụ cao cả ấy. Cách xây dựng tình tiết
này biểu lộ một tinh thần dân tộc rất sâu sắc. nó cũng cho
thấy tập quán của người Việt sống trọng tình nghĩa. Dù đi
đâu, về đâu, dù sống giàu sang hay nghèo khó, họ cũng nhớ
về cội nguồn của mình.
6. Ở nhóm truyện kể của người Việt, có xuất hiện mơ típ hóa
kiếp và mơ típ khúc gỗ trơi: Bà Thiên Y A Na hóa thân vào
cây trầm, theo dịng nước lũ trơi ra biển, về sau cũng nhập
vào cây trầm trôi ra biển Bắc trở lại quê hương. Chi tiết này
mang ý nghĩa nhân sinh. Đó là chuỗi q trình ln hồi,
chuyển kiếp của con người theo triết lý Phật giáo. Thiên Y A
Na có nhiều kiếp và mỗi kiếp sẽ có một linh vật để nhập hồn.
ở truyền thuyết này là một khúc gỗ trầm vì đây là đặc sản
riêng của vùng đất, mà sau này nói đến Khánh Hịa người ta
cịn có tên gọi là Xứ Trầm Hương.
7. Ở nhóm truyện kể của người Việt, có sự phong hiệu của các
triều đại phong kiến đối với Bà mẹ xứ sở: Hồng nhơn phổ
tế linh cảm diệu thông, Mặc tướng trang huy thượng


đẳng thần, Hồng nhân phổ tế linh ứng thương đẳng trần;
phong sắc chỉ cho Bà là Thiên Y A Na Thánh Mẫu
2.2. SỰ GIỐNG NHAU
- Cả hai nhóm truyện này đều có kết cấu cốt truyện gồm: xuất
thân, cơng trạng, bay về trời, hiển linh.
- Cả hai nhóm truyện kể đều xây dựng mối hữu duyên giữa
thần và người trần.
- Ý thức chống giặc ngoại xâm cũng thể hiện khá rõ trong hai

nhóm truyện kể trên.
3. SỰ GIAO LƯU VĂN HĨA THƠNG QUA TRUYỀN
THUYẾT VỀ NGƯỜI MẸ XỨ SỞ
- Xét theo sự thật lịch sử, vùng đát từ miền Trung trở vào
Nam xưa kia không phải của người Việt mà là vùng đất lâu đời
của người Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp. họ lập vương quốc
từ rất lâu, tạo nên những nền văn minh riêng biệt, rực rỡ. văn
hóa – tín ngưỡng của họ ảnh hương văn hóa Ấn Độ khá rõ nét.
Những biểu hiện này không chỉ để lại dấu ấn trong văn học dân
gian mà còn để lại rất nhiều dấu tích trong các lĩnh vực khác
nhau cho đến tận ngày nay. Đến thời Nguyễn (năm 1653), người
Việt mới xem là đất của mình, cư dân ở phía đàng ngoài đã tập
trung sống ở đây thành một cộng đồng hòa hợp với cư dân bản
địa người Chăm. Trong một thời gian khá dài của cả hai cộng
đồng giao lưu, tiếp xúc văn hóa với nhau.
Theo dịng vận động của lịch sử, một khi phải rời xa vùng đất
cha ông, đi đến sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất hoàn toàn
khác lạ, người Việt đã đem theo văn hóa của mình để làm vốn


sống. Hơn nữa, khi tiếp xúc với những con người có tiếng nói,
văn hóa, tín ngưỡng khác mình, người Việt phải ứng dụng nền
văn hóa của mình một cách triệt để. Vì văn hóa ơng cha là chỗ
dựa tinh thần, động viên, an ủi, họ khẳng định tư cách độc lập
của cộng đồng. ngay từ buổi đầu đến nơi đây, đứng trước một
truyền thuyết sừng sững về Bà mẹ thị tộc Chăm, người Việt đã
dùng trí tưởng tượng bay bổng và lịng tơn kính người mẹ kể
thêm một truyền thuyết nữa về đấng tối cao của cộng động.
Ví dụ, để phù hợp với hiện thực lịch sử và cuộc sống ở vùng
đất mới, truyền thuyết Tinh Vệ Mễ Nương về cơ bản cũng có

những chi tiết được xây dựng trùng khớp với các truyền thuyết
của nhóm văn bản 1. chẳng hạn, chi tiết kể công trạng và những
phẩm chất của nhân vật cũng thống nhất với nhau: bà Tinh Vệ
Mễ Nương cùng với nhân dân trồng lúa, trồng dưa, khai thác
trầm hương chưa bệnh, giúp dân chống lại nạn lũ lụt…bà hết
lòng yêu thương dân chúng, đem những điều tốt đẹp để giáo hóa
cho dân, khơng ngại gian khổ cùng nhân dân lao động và chiến
đấu chinh phục thiên nhiên. Nhưng nhìn chung cách xây dựng
các chi tiết này khác hẳn. nói cụ thể hơn, mang đặc trưng của
thời đại và văn hóa Việt hơn.
- Xét qua nhiều chứng tích văn hóa cịn tồn tại đến ngày nay
ở Khánh Hịa, có thể khẳng định rằng văn hóa của cộng đồng
người Việt đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm nhiều hơn và
truyền thuyết về Bà mẹ xứ sở là một minh chứng xác đáng. Và


cũng có một điều đặc biệt là yếu tố mở của văn hóa Việt. đó là sự
dung hợp văn hóa một ccahs tự nguyện của cả hai cộng đồng cư
dân, chứ khơng phải là đồng hóa theo kiểu cưỡng ép. Người Việt
đến đây chung sống chứ khơng phải đồng hóa người Chăm, nên
q trình tiếp xúc văn hóa đã đi theo quy luật tự nhiên. Những đặc
sắc, tiến bộ của văn hóa Chăm đều được cư dân Việt tiếp thu một
cách tích cực. tiếp nối sự giao thoa ấy, truyền thuyết về Bà mẹ xứ
sở Thiên Y A Na sẽ khơng cịn là của riêng ai mà là của chung cho
cả hai dân tộc cùng sống trên một vùng đất Khánh Hòa.



×