Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VŨ TRỤNG PHỤNG CUỘC đời và NHỮNG ĐÓNG góp CHO sự NGHIỆP văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.9 KB, 16 trang )

VŨ TRỌNG PHỤNG – CUỘC ĐỜI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO SỰ NGHIỆP
VĂN HỌC
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút không lâu, song khối lượng tác
phẩm Vũ Trọng Phụng để lại khá lớn và rất có giá trị: hơn 30 truyện ngắn, 9 cuốn tiểu
thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch... cùng rất nhiều những bài báo, bài nghiên cứu đăng
trên các tạp chí đương thời. Tác phẩm của ông là tấm gương phản ánh chân thực bức
tranh cuộc sống. Nó có giá trị như một nhân chứng, vật chứng của thời đại, là bản cáo
trạng đối với chế độ thực dân nửa phong kiến, là lời kêu gọi thống thiết phẩm giá, tự do,
một cuộc sống xứng đáng không chỉ cho một thời mà cho mọi thời.
Vũ Trọng Phụng có những đóng góp to lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam
ở rất nhiều thể loại: phóng sự, truyện ngắn, kịch, phê bình... nhưng có thể nói, ở thể loại
tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có những thành cơng nổi bật hơn cả. Những đóng góp của
Vũ Trọng Phụng vào quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam vừa
mang tính khai mở, vừa khẳng định tính hiện đại của thể loại này.
I.

Cuộc đời
Vũ Trọng Phụng sinh ra trong một gia đình nghèo ở Hà Nội. Ơng mồ cơi cha khi
mới 7 tháng tuổi. Người cha mất đi để lại một gia cảnh rất đơn côi, gồm một mẹ già, một
người vợ hiền thảo và một đứa con trai đang còn trong trứng nước. Tài sản gia đình hầu
như khơng có gì đáng kể ngồi bàn tay tần tảo, lam lũ sớm hơm ni mẹ, ni con của
người vợ góa.
Vũ Trọng Phụng lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và được đến trường. Nhưng
trong thế giới vui tươi của nhà trường, hoàn cảnh mồ côi, nghèo khổ và sự cách biệt với
đám bạn học giàu có chưa biết đến tình thương đã sớm gieo vào đầu óc non trẻ của cậu
học trị nghèo tội nghiệp mặc cảm yếu đuối, đơn độc. Mặc cảm đó ngày càng lớn dần, rắn
lại thành sự phẫn uất, thù ghét cái bất công, cách biệt vô lý ở đời.
Tốt nghiệp tiểu học, Vũ Trọng Phụng chọn thi vào trường Sư phạm sơ cấp nhưng
khơng có kết quả, hồn cảnh gia đình bấy giờ lại hết sức khó khăn nên cậu học trò nhỏ
1




buộc phải đi làm kiếm sống. Chính trong khoảng thời gian đi làm thêm đó, Vũ Trọng
Phụng có điều kiện “tự học” rất nhiều điều. Không thể đến lớp, Vũ Trọng Phụng bổ sung
vốn kiến thức về văn chương, đời sống qua sách vở, báo chí. Ơng rất chăm đọc sách và
thường xuyên lui tới các thư viện. Cũng trong thời gian này, Vũ Trọng Phụng còn thu nạp
được thêm cho mình nhiều vốn sống quý giá mà sau này trở thành những tư liệu ngồn
ngộn chất sống từ trong chính cuộc sống mà ơng đã trải qua.
Vũ Trọng Phụng cống hiến cho nghệ thuật trong nhiều lĩnh vực, song nhà văn tỏ ra
đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực báo chí (hơn 500 bài viết ở mọi lĩnh vực của cuộc sống:
văn hóa, xã hội, văn học), lĩnh vực kịch (bi kịch, hài kịch, kịch ngắn - dài), lĩnh vực
truyện ngắn (trên 45 truyện), lĩnh vực tiểu thuyết (Nhà văn Nguyễn Đình Thi tơn vinh
ơng là “nhà tiểu thuyết trác tuyệt”) và lĩnh vực phóng sự (các phóng sự dài, dày dặn, đề
cập đến những vấn đề nóng bỏng tính thời sự).
II.

Tiểu thuyết: Đặc trưng tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng
1. Chất phóng sự hịa nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết
Giông tố và Số đỏ thực sự là những đỉnh cao của tiểu thuyết phóng sự VN. Trong
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, hai yếu tố tiểu thuyết và phóng sự hịa nhập vào nhau
một cách tự nhiên, nhuần nhị, các chất liệu hiện thực được tiểu thuyết hóa đến tận gốc.
Mảng tư liệu ngồn ngộn từ cuộc sống, với biết bao người, biết bao việc cụ thể, phức tạp,
chồng chéo lên nhau đã được nhà văn xử lí một cách nghệ thuật, tập hợp lại trong một
chỉnh thể thống nhất của thế giới nghệ thuật tiểu thuyết.
a. Khả năng tiểu thuyết hóa các chất liệu phóng sự
Những thiên phóng sự hay và những tiểu thuyết kiệt tác đã đưa Vũ Trọng Phụng
lên hàng “chiếu nhất” thuộc hai lĩnh vực tiểu thuyết và phóng sự. Đối với ơng, tuy sự tơn
vinh thuộc hai thể tài riêng, nhưng nếu khơng có “ơng vua phóng sự” thì cũng khó lịng
có “tiểu thuyết gia trác tuyệt” Vũ Trọng Phụng, vì “trác tuyệt” của ơng so với các nhà tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại là ở thể tiểu thuyết phóng sự.

Vũ Trọng Phụng viết 7 thiên phóng sự và 7 cuốn tiểu thuyết. Riêng về tiểu thuyết,
theo trình tự thời gian được viết như sau: Dứt tình (năm 1934); Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê,
Làm đĩ (năm 1936); Lấy nhau vì tình (năm 1937) và Trúng số độc đắc (năm 1938).
2


Ngay từ năm 1942, với con mắt “tinh đời” Vũ Ngọc Phan đã phát hiện ra mối
quan hệ hữu cơ giữa “tố chất” phóng sự và tiểu thuyết trong cây bút đa tài này: “cây bút
của Vũ Trọng Phụng trong những năm đầu là một cây bút phóng sự sắc sảo và khơn
ngoan, sau ơng luyện nó ra cây bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng phóng sự vẫn cịn”
Vũ Trọng Phụng đã “luyện” cây bút như thế nào; “cái giọng” phóng sự nhỏ to ra sao’ chất
phóng sự đã được “dẫn truyền” vào tác phẩm như thế nào và có tác động gì đến nghệ
thuật tiểu thuyết? Đó là những câu hỏi mà chúng tơi tự đặt ra, khi tìm hiểu yếu tố phóng
sự trong một số tác phẩm được coi là tiểu thuyết phóng sự của ơng. Sau đây, chúng tôi
xin nêu một số ý kiến bước đầu xung quanh những vấn đề lý thú đó.
Có thể nói quá trình Vũ Trọng Phụng “luyện thành cây bút tiểu thuyết” đã diễn ra
ngay từ khi ơng viết thiên phóng sự đầu tay Cạm bẫy người (năm 1933). Tác phẩm này
có kết cấu, cốt truyện và hệ thống nhân vật, trong đó, một vài nhân vật có tâm lý, tính
cách khá rõ rệt. Chính Vũ Trọng Phụng đã “trình làng” tác phẩm với các tiêu đề “Tiểu
thuyết phóng sự”, nhưng xét về tổng thể, chất tư liệu, lối văn phóng sự rất đậm đặc, áp
đảo chất tiểu thuyết. Vì vậy, có lẽ, chính xác hơn nếu ơng gọi đó là một phóng sự tiểu
thuyết.
Năm 1934, cùng với việc cho ra đời thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây nổi tiếng, Vũ
Trọng Phụng đã viết Dứt tình - cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Và cứ thế, quá trình “luyện” đã
đem lại cho ngòi bút của Vũ Trọng Phụng cả hai khả năng đặc biệt: một là, sự tinh nhạy
nắm bắt một cách mau lẹ các vấn đề thời sự nóng hổi, sự sắc sảo trong quan sát, miêu tả
người thực, việc thực; hai là, năng lực khái quát tổng hợp, xử lý những tư liệu để xây
dựng những bức tranh cuộc sống và khả năng hư cấu, sáng tạo ra những hình tượng, điển
hìn. Đây chính là hai thế mạnh tạo nên sở trường của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết
phóng sự mà đỉnh cao nhất là bộ ba tiểu thuyết phóng sự Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê, trong

đó có tác phẩm được coi là kiệt tác, là “khơng tiền khống hậu” là “cuốn sách ghê gớm
có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”.(Nguyễn Khải)
Có thể nói, trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng đều ít nhiều có chứa cái
“giọng” phóng sự. Ở đây chúng tơi chỉ xin khảo sát ba tác phẩm Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê

3


vì thấy trong những tác phẩm này cái “giọng” phóng sự diễn ra thường xuyên, rõ rệt, trở
thành cái chất khá đậm đà trong tác phẩm.
Trong bộ ba tiểu thuyết Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê, chất phóng sự được thể hiện khá
rõ ở việc phản ánh kịp thời những vấn đề thời sự của đời sống chính trị, xã hội đương
thời vào tác phẩm. Bức tranh hiện thực trong ba tác phẩm nói trên rất rộng lớn, bao quát
cả cái xã hội thuộc địa thối nát và có giá tri như những cuốn biên niên sử ghi lại những sự
kiện, những vấn đề thời sự của xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kủ này.
Giông tố phản ánh những biến động dữ dội như những cơn lốc xoáy, gây ra nhiều nghịch
cảnh, nhiều sự đảo lộn từ trong tế bào gia đình đến tồn xã hội, sự tàn bạo, phản động của
bọn thuộc địa chủ quan lại mại bản; sự hoạt động của nhà cách mạng quốc tế cộng sản
Đông phương ở Mốtxcu, về nước hợp nhất Đảng, rồi bí mật xuất dương dự Hội nghị đỏ
Viễn Đông.
Tất cả những sự kiện, biến cố như thế được đặt trên cái “phông” lịch sử là thời kỳ
Mặt trận bình dân khoảng từ 1936 đến 1939. Trong tác phẩm xuất hiện những từ như “óc
bình dân”, “hạng bình dân”, “xã hội bình dân”. Nhân vật tri huyện Cúc Lâm khoe với
Nghị Hách (thực ra là ngầm ý đe doạ) : “... quan thầy của tôi trong Đảng xã hội, nay mai
mà có sang nhận chức Tồn quyền thì tơi sẽ lại làm quan cũng chưa muộn” (ở đây chỉ
Đảng xã hội của Léon Blum, đứng đầu Chính phủ Mặt trận bình dân ở Pháp năm 1936).
Trong Vỡ đê cũng nổi lên những vấn đề thời sự đương thời: những cuộc đấu tranh của
quần chúng, những tai nạn, “thuỷ, hoả, đạo, tặc” gây bao cảnh đau thương, khốn cùng. Sự
kiện “một uỷ ban đã làm việc suốt ngày đêm để có thể kịp gởi những hồ sơ chính trị
phạm về cho quan Tổng trưởng thuộc địa” phản ánh hoạt động của Ủy ban Đơng Dương

vận động đại xá tù chính trị được thành lập tháng 6-1936 ở Sài gòn. Vụ đê vỡ, lụt lội
cũng xảy ra đúng như trong lịch sử...
Khác với Giông tố và Vỡ đê, Số đỏ đề cập đến phạm vi hẹp hơn. Đó là xã hội tư
sản thành thị nhố nhăng, đồi bại đương thời. Tuy được viết theo bút pháp trào phúng, sử
dụng rộng rãi, thoải mái thủ pháp phóng đại để tạo ra những tình huống và những nhân
vật hài hước, phi lý, khơng có thực trong cuộc đời; nhưng khi đọc tác phẩm, điều kỳ lạ là
mọi người đều thấy những cái phi lý, tưởng như bịa đặt lại là những cái có thật, thậm chí
4


lại là những cái rất phổ biến trong xã hội thành thị đương thời, như phong trào Âu hoá,
phong trào Bình dân, chấn hưng Phật giáo... Nhân vật Xn Tóc Đỏ hai lần tự vỗ ngực
cho mình là: “dịng dõi nhà bình dân”, “Tơi khơng phải là q phái! Tơi chỉ là bình dân
mà thơi”
. Hoặc có nhân vật được giới thiệu là người của đương thời: “Đây là ông Hải, một tay
quần vợt đại tài, quán quân Bắc Kỳ năm 1936...”
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, đồng thời là một nhà báo. Đúng là nghề làm báo
buộc ông phải gắn bó với thời thế, phải cập nhật những vấn đề chính trị, xã hội theo cách
nhìn riêng của mình. Chính vì vậy mà các tác phẩm “Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê hệt như
những cuốn phim thời sự, đương thời ít có cuốn tiểu thuyết nào lại gần với khơng khí
chính trị của thời đại như thế”.
Chất phóng sự trong bộ ba tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng không chỉ
biểu hiện bằng việc phản ánh những “việc thực” như trên, mà còn ở chỗ nhiều nhân vật
được dư luận “phát hiện” ra đó là những “người thật” có ngun mẫu bằng xương, bằng
thịt ngồi đời. Chẳng hạn, khi bàn đến nhân vật bà Phó Đoan trong Số đỏ, nhiều người đã
liên hệ đến “bà” Bé Tý, có chồng Tây tên Betty để lại cho một gia tài lớn, dinh cơ của mụ
ở sát ngay nhà Vũ Trọng Phụng. Mụ mẹ Tây nhố nhăng này lại còn được “Nhà nước bảo
hộ” tặng thuởng bội tinh và mụ thích được phỉnh là “bà chúa Hàng Bạc”. Hoặc trước đó
khơng lâu một ả tên là “cơ Tư Hồng” nổi tiếng về hành vi lẳng lơ, dâm đãng. Dư luận
đương thời luôn đàm tiếu, phỉ nhổ vào mụ đàn bà “nổi danh” ấy. Đương thời, có một lão

nghị viên khét tiếng tên là Nguyễn Hữu C, Hắn vốn nổi tiếng là gã vô học, bất lương và
gian dâm, phất lên thành bậc “phú gia địch quốc” nhờ vào những thủ đoạn lưu manh, độc
ác, tàn nhẫn... Đọc Giông tố, nhiều người thấy cái chân dung lem luốc của nhân vật Nghị
Hách có nhiều điểm “đồng dạng” với cái lý lịch bất hảo của gã Nghị C nọ...
Người đọc lại nhận thấy chất phóng sự trong Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê ở lối văn báo
chí, lối văn tư liệu. Trong tiểu thuyết mà có những chỗ, tác giả như trích nguyên lại một
mẩu tin từ một tờ nhật báo đương thời:
THỜI SỰ CÁC TỈNH
Phải chăng là một vụ cưỡng dâm?
5


Cúc Lâm (tin điện thoại) – Quan huyện
Cúc Lâm mới đây có chấp một lá đơn
của một ơng đồ ở làng Quỳnh Thông,
kiện một nhà tai to mặt lớn kia, về tội
cưỡng dâm con gái ông ta...”
Hoặc một mẩu tin chi ly với những số liệu chính xác “như thật”:
MỘT NGHĨA CỬ HIẾM CĨ
Nhà triệu phú Tạ Đình Hách
Ở Bắc Kỳ phát chẩn cho bần dân
Mấy đồng nghiệp ở Bắc đều đăng tin
rằng hôm 13 vừa rồi, nhà triệu phú Tạ
Đình Hách đã bỏ ra 250 tạ gạo và một
Nghìn đồng bạc, phát chẩn cho dân tỉnh ơng...”
Và có khi tác giả cho nhân vật này lật tẩy hành tung của nhân vật kia bằng một
“trích đoạn lý lịch” như lấy ở hồ sơ của toà án:
“Năm Tân Hợi tức là năm 1911, quan bác phạm tội thông dâm vợ người. Năm
Quý Sửu (...) Đến năm Kỷ Mùi, tức là năm 1919, năm quan bác đúng ba mươi tuổi (...)
Lại đến năm Nhâm Tuất thì quan bác giết người...” Lối văn báo chí, tư liệu và những con

số chính xác như vậy xuất hiện khá nhiều trong cả ba tác phẩm.
Trên đây chúng tôi đã điểm một vài biểu hiện của chất phóng sự trong bộ ba tiểu
thuyết Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng. Sự năng động, xơng xáo, tốc tả của
ngịi bút phóng sự đã giúp cho nhà văn bao quát hiện thực ở một qui mô rộng lớn. Rõ
ràng cao trào Mặt trận dân chủ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cảm quan của Vũ Trọng
Phụng, hướng ngịi bút của ơng vào những vấn đề thời sự chính trị, xã hội nóng bỏng để
phản ánh và sáng tạo nên những tác phẩm này có sức tố cáo mạnh mẽ và tính chiến đấu
rõ rệt.
Chính cái chất thời sự, (tính “người thực, việc thực”, lối văn tư liệu, báo chí...) đã
khiến cho khơng ít người đồng ý với nhận định rằng nhiều tiểu thuyết của Vũ Trọng
Phụng “chỉ là những thiên phóng sự được tiểu thuyết hoá”
6


Đúng là sự tiểu thuyết hố những chất liệu phóng sự đã làm cho hai yếu tố tiểu
thuyết và phóng sự trong tác phẩm nói trên hồ quyện với nhau một cách tự nhiên.
Những tư liệu, số liệu.. đã thành chất liệu nghệ thuật của tiểu thuyết.
Các tư liệu mang chất phóng sự đi vào tác phẩm đã được xử lý một cách nghệ
thuật, được sắp đặt đúng vị trí khiến chúng trở thành những yếu tố hữu cơ của chỉnh thể
nghệ thuật, ta có thể thấy những sự kiện thời sự, những tư liệu được “đóng đinh” bằng
những con số năm, tháng cụ thể đều được tác giả khéo léo cài lồng vào các biến cố của
cốt truyện. Chẳng hạn, đoạn văn tư liệu, liệt kê tội ác của nhân vật Nghị Hách (đã dẫn ở
trên), được tác giả đặt vào mồm nhân vật đối thoại hoà chung vào diễn tiến của mạch câu
chuyện, vừa làm đầy đặn thêm chân dung đểu, ác của Nghị Hách, vừa khắc họa được tính
cách, bản lĩnh, sự “cao tay” của nhân vật “nhà cách mạng” Hải Vân.
Việc sử dụng những nguyên mẫu “nổi tiếng” có thật trong xã hội đương thời như
viên nghị Nguyên Hữu C “cô Tư Hồng”, bà “Bé Tý”... đã tạo nên tính sốt dẻo, tính đương
thời cho tác phẩm. Tất nhiên, cuộc đời, lịch sử có nhiều vấn đề, nhiều nguyên mẫu gợi ý
nhà văn. Nhưng ngòi bút phóng sự của Vũ Trọng Phụng lại có sở trường trong việc “đeo
bám” những hiện tượng vận động, những đối tượng đang nhảy nhót, lẩn quất ... và từ

những nguyên mẫu, những tư liệu sống động ấy của cuộc đời, ơng đã nhào nặn, hư cấu
được những điển hình có tầm khái quát cao: Nghị Hách - đại biểu lớn nhất của giai cấp
địa chủ, tư sản phản động, mại bãn; Xn Tóc Đỏ điển hình tiêu biểu của xã hội tư sản
thành thị lọc lừa... Những hình tượng điển hình được xây dựng trên những tư liệu ngun
mẫu có thật đã phơi bày ra sự thật xấu xa, bản chất tàn bạo, kệch cỡm .. của cái xã hội
thuộc địa.
Chất phóng sự cịn đóng vai trị chi phối, góp phần hình thành những đặc điểm
riêng trong thi pháp tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
trong các tiểu thuyết của ông, thời gian sự kiện luôn khẩn trương, dồn dập, hối hả; sự
kiện này chưa qua, sự kiện kia đã ập đến. Sự dồn nén sự kiện trong một khoảng thời gian
ngắn đã gây nên sự gấp gáp về thời gian nghệ thuật. Vì vậy, thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết của Vũ Trọng Phụng ngoài sự chịu đựng những đảo lộn bất ngờ, quay cuồng trong
cơn lốc còn bị khống chế bởi sự câu thúc nghiệt ngã về thời gian của nhịp sống hiện đại.
7


Chúng thường hối hả, khẩn trương, di chuyển với tốc độ nhanh, hành vi luôn hấp tấp, vội
vàng; tâm trạng đầy lo âu, căng thẳng: Phú (trong Vỡ đê) lúc thì lo lắng, lúc thì sốt ruột;
Xn Tóc Đỏ (trong Số đỏ) thường liến láu, vội vã như thằng ăn cắp; Nghị Hách (trong
Giơng Tố) hay có những “pha” phóng xe phăng phăng, hết tốc lực ...
Nhịp điệu thời gian, tốc độ vận động mau lẹ của lịch sử xã hội được thâu thái
trong cây bút phóng sự, khơng chỉ tạo nên nhịp điệu gấp gáp của thời gian nghệ thuật mà
đã đem lại cách mô tả, diễn tả thời gian theo lối hiện đại của ông. Nhiều biến cố trong
Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê được mở đầu bằng một thời điểm hết sức cụ thể, độ dài thời gian
của biến cố cũng được đo bằng thời lượng lối tính hiện đại của phương Tây như một
tuần, một ngày, một giờ, một phút, một giây ... rõ ràng là do ảnh hưởng của lối văn tư
liệu, báo chí. Sự mô tả thời gian như vậy đã mở rộng thời gian, khơng gian cho sự linh
hoạt, biến hố trong nghệ thuật trần thuật, kể chuyện ...
Sự hiện diện và hiệu quả nghệ thuật của chất phóng sự cịn diễn ra ở nhiều phương
diện khác của tác phẩm tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Những khám phá bước đầu này góp

phần xác định đặc điểm thể Tiểu thuyết phóng sự một sự sáng tạo có ý nghĩa to lớn của
ơng đối với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
b. Khả năng khái quát, tưởng tượng phi thường
b.1 Biệt tài tạo dựng những không gian vĩ mơ
Khơng gian tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nói chung, bao giờ cũng là khơng gian vĩ
mơ. Đó là cả xã hội VN được thu nhỏ lại. Đọc GT là đọc cả một xã hội, đọc cả một thời
đại. Tác phẩm có quy mơ dài – rộng, đồ sộ của một bức tranh toàn cảnh mà người họa sĩ
đã dùng hầu như tất cả các gam màu, mảng khối để miêu tả hầu hết các cảnh vật, các tầng
lớp, các vùng miền đất nước. Giông tố dựng nên một nông thôn tối tăm, lạc hậu, nghèo
khổ với những con người tủi nhục, xác xơ, quần quật làm việc tối ngày như trâu, như
ngựa vẫn không sao lo đủ ngày hai bữa. Nơng thơn ấy cịn nổi lên bóng dáng của những
kẻ cường hào, chức dịch thi nhau đè đầu, cưỡi cổ, bóp nặn dân nghèo. Từ địa bàn nơng
thơn, tác phẩm liên tiếp mở ra những không gian cuộc sống khác. Đó là thành thị với tất
cả sự ăn chơi, sa đọa, sự xuống cấp và tha hóa của đạo đức từng ngày, từng giờ, là vùng

8


mỏ, miền biển, miền núi với những ông quan Tây có, ta có cùng bọn địa chủ tư sản mại
bản “phú gia địch quốc” như Nghị Hách…
Khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, Giơng tố cịn mở rộng ra mảng không
gian quốc tế, sang đến tận Xiêm, Lào, đến Macao, Matxcơva theo dấu chân nhà cách
mạng Hải Vân…Không có một khả năng khái quát và tưởng tượng cao, nhà văn không
thể xây dựng được không gian vĩ mô cho tác phẩm.
Số đỏ về quy mô tuy nhỏ hẹp hơn GT, nhưng vẫn ôm trọn được mảng đời sống
thành thị. Hà Nội, thủ đô VN, những năm 30 hiện ra với tất cả mọi đường nét, mọi ngõ
ngách, mọi xó xỉnh, từ nhà ra đường, từ nhà săm, sở cẩm đến chùa chiền, khách sạn, hiệu
may, tiệm nhảy, sân quần với mọi chi tiết “thượng vàng hạ cám” của hầu hết mọi hạng
người trong xã hội thành thị.
b.2 Thế giới nhân vật đậm đặc

Tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng thường được xây dựng với quy mơ
lớn,vì vậy nó kéo theo một hệ quả tất yếu là hệ thống nhân vật đông đúc, phức tạp.
Không kể tới hàng ngàn nhân vật vơ danh ẩn hiện thấp thống trong tác phẩm (4000 dân
nghèo trong lễ phát chẩn, hàng trăm nơng dân của làng Quỳnh Thơn…), trong GT đã có
tới 84 nhân vật có đủ tên tuổi, xuất xứ, chức danh, nghề nghiệp…hợp thành một hệ thống
nhân vật nền thứ yếu như bọn hương lí, cụ đồ Uẩn, Long, Mịch, Tú Anh…để làm nổi lên
hình ảnh các nhân vật trung tâm: Nghị Hách – Hải Vân
Số đỏ có tới 64 nhân vật. Toàn bộ mọi hoạt động của nhân vật điển hình – Xn
tóc đỏ đều diễn ra trong mối quan hệ phức tạp, đa chiều giữa hắn với hơn 60 nhân vật còn
lại. Tác phẩm tập trung miêu tả thế giới thượng lưu, qúy tộc, bề ngoài tốt đẹp, văn minh
nhưng thực chất chỉ là bọn cóc nhái nhảy lên làm người.
Qua GT và SĐ ta hiểu được bản chất của xã hội VN thời thực dân chiếm đóng. Đó
là xã hội với quá nhiều mặt xấu xa, làm băng hoại truyền thống đạo đức, làm tha hóa con
người; là xã hội ăn chơi, trụy lạc, chạy theo lối sống vật chất chủ nghĩa chuộng hư danh.
Với ngòi bút sắc như gươm rút ra được bản chất của xã hội, chỉ ra những ung nhọt có
nguy cơ làm băng hoại xã hội đang treo lơ lửng, Vũ Trọng Phụng đã rung lên hồi chng
cảnh tỉnh xã hội có ý nghĩa sâu sắc. (Chính vì điều này mà Tố Hữu từng nói: “Vũ Trọng
9


Phụng không phải là nhà văn cách mạng nhưng cách mạng cảm ơn Vũ Trọng Phụng vì đã
vạch rõ cái thực xấu xa của xã hội ấy”)
2. Đóng góp xuất sắc trong việc xây dựng điển hình hiện thực chủ nghĩa
a. Hồn cảnh điển hình
GT phơi bày cuộc sống xã hội của dân tộc vào giai đoạn cụ thể của những năm 30
dưới chế độ thực dân phong kiến. Xã hội ấy chứa đựng trong lịng nó những mối mâu
thuẫn va xung đột gay gắt, dữ dội ở nhiều chiều, nhiều tầng, có tác động mạnh mẽ đến
tồn bộ cơ cấu xã hội với tư cách là một guồng máy thống trị trên tầm vĩ mơ. GT cịn
phản ánh xã hội VN trong bối cảnh cụ thể của những năm kinh tế suy thối với khí thế
đấu tranh cách mạng, quyết vùng lên xóa bỏ xiềng gơng nơ lệ, với các cuộc biểu tình của

quần chúng đối lập với các thế lực phong kiến và đế quốc phản động cấu kết với nhau.
Tất cả những mối mâu thuẫn ấy được tổng hợp lại trong một chỉnh thể nghệ thuật, xoay
quanh nhân vật chính – Nghị Hách với hai vụ “dâm sự” liên quan đến y:
Vụ hiếp dâm của NH với TM
Vụ đổ bể của bà nghị với thằng cung văn
Đó là hai yếu tố làm nên cái trục xuyên suốt tác phẩm, kéo theo hàng loạt nhân vật
khác chuyển động quanh nó, lần lượt mở ra tồn bộ khơng gian nghệ thuật của tác phẩm:
Cảnh sinh hoạt của làng quê, cảnh trường học của Tú Anh, cảnh nghiện hút ăn chơi. Tồn
bộ bối cảnh và các nhóm nhân vật hợp thành yếu tố nền móng của hồn cảnh điển hình
trong GT
Bối cảnh của SĐ là toàn bộ hiện thực bi hài của thế giới thành thị giữa thời nhố
nhăng, kệch cỡm của xã hội văn minh Âu hóa rởm, mọi con người đều bị cuốn vào dịng
xốy của thời cuộc, ngụp lặn với những phong trào chính trị, xã hội, văn hóa sơi động:
Âu hóa, văn chương lãng mạn, thể dục thể thao, chủ nghĩa bình dân. Xã hội như một sân
khấu trò hề với những con rối múa may, quay cuồng là bối cảnh xuất hiện của nhân vật
chính đi suốt tác phẩm – Xuân tóc đỏ.
b. Nhân vật điển hình
b.1 Nghị Hách

10


NH không phải là một ông nghị tầm thường, không phải như Nghị Quế của NTT
trong TĐ, Nghị Lại của NCH trong BĐC. Nghị Quế, Nghị Lại là những tên địa chủ thơn
q, có lẽ ngồi huyện nhỏ chúng ở khơng ai biết đến. Cịn NH chẳng những là một tên
địa chủ có năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, hắn còn là một nhà đại tư bản, một nhà
đại cơng nghiệp có mỏ than ở Quảng n, ba chục nóc nhà Tây ở HN, bốn chục nóc nữa
ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng.
Cách ăn chơi của hắn thì y như các vị cơng hầu, khanh tướng trong tiểu thuyết TQ, có 11
nàng hầu đặt dưới quyền một mụ quản gia. Khơng những thế hắn cịn sắp ứng cử ghế

Nghị trưởng, sắp có Bắc đẩu bội tinh. NH – Tạ Đình Hách, xuất thân từ tên cai thợ nề,
bằng những thủ đoạn lưu manh, bỉ ổi, độc ác như lừa đảo, giết người, bóc lột thậm tệ
nhân công ở mỏ than Quảng Yên, cướp 500 mẫu đồn điền…hắn phất lên thành một tên tư
bản kếch xù và một nhân vật đặc biệt trong xã hội.
Có người nói mỗi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là một quả bom ném vào xã hội
cũ. Nhưng phải nói, quả bom Giơng tố có sức cơng phá mãnh liệt hơn cả.
Quả bom ấy là hình tượng thằng Nghị Hách.Tính cách Nghị Hách là một tính cách bạo
chúa. Nó dâm một cách bạo chúa, đểu một cách bạo chúa, ác một cách bạo chúa. Lý lẽ
của mọi bạo chúa là tất cả phải sợ nó, phải phục tùng nó. Bạo chúa coi thân phận và sinh
mệnh con người như rơm rác: đánh người, giết người, hiếp người không hề áy náy, ăn
năn gì. Khi Long thuyết phục nó bồi thường cho Thị Mịch 300 đồng, nó giẫy nẩy lên kêu
đắt quá. Nó có 11 nàng hầu, lại cịn rắc con khắp thiên hạ, nhưng khi vợ nó ngủ với thằng
cung văn thì nó lồng lộn lên như thú dữ. Vì nó có thể lừa người, phản người, chứ khơng
ai được lừa nó, phản nó. Bạo chúa chỉ nghĩ đến thắng khơng bao giờ nghĩ đến thất bại.
Nghị Hách là một tính cách như thế.
Nhưng sức công phá của trái bom Giông tố chủ yếu phóng ra từ hai vụ bê bối
chính của Nghị Hách, một là trong quan hệ xã hội, hai là trong quan hệ gia đình của nhân
vật này.
Vụ “xì căng đan” thứ nhất là vụ Nghị Hách bị kiện về tội hiếp dâm Thị Mịch. Vụ
này thuộc về quan hệ xã hội nên được xét xử bằng tòa án của pháp luật xã hội, của công
lý thực dân. Chẳng những Nghị Hách khơng bị kết tội mà chính gia đình cụ đồ Uẩn phải
11


khốn khổ, có thể bị đi tù và cả làng Quỳnh Thơn thì điêu đứng mất ăn, mất ngủ. Rồi tri
huyện Cúc Lâm bị mất chức, lý dịch làng Quỳnh Thơn bị đe dọa tù tội. Có lẽ chưa có tác
phẩm văn học hiện thực nào đương thời đã lên án công lý của xã hội thực dân một cách
trực diện, quyết liệt, sâu sắc và có nghệ thuật như thế.
Vụ “xì căng đan” thứ hai là vụ loạn luân trong gia đình Nghị Hách: hai anh em
Long, Tuyết - con đẻ của Nghị Hách, trót có “dâm sự” với nhau. Vụ này thuộc quan hệ

đời tư, quan hệ cá nhân, nên chỉ có thể được xét xử bằng tịa án lương tâm mà thôi. Nghĩa
là Nghị Hách tự xét xử. Và đây là “lương tâm” của Nghị Hách, y xử cho hai đứa con đẻ
chính thức lấy nhau và mượn ln tình huống loạn ln này để đọc một bài diễn văn “đầy
xúc động” (bài diễn văn thỉnh thoảng phải dừng lại để diễn giả lau nước mắt) về tấm lịng
“thương xót” của hắn đối với bình dân.
Viết về Giông tố, Nguyễn Tuân đã “sợ” Vũ Trọng Phụng về đoạn văn này. Quả
thật, phải là ngòi bút Vũ Trọng Phụng mới đủ sức dựng lên được một nhân vật bất nhân
đến mức quỷ sứ đáng “sợ” như thế.
Cho đến nay, có thể nói, chưa có một nhân vật tư sản địa chủ nào trong văn học
Việt Nam địch nổi nhân vật Nghị Hách, một con quỷ dâm ô, độc ác, đểu giả, trắng trợn
cỡ bạo chúa. Một nhà văn nói với tơi: Đọc Nam Cao người ta bắt buộc phải suy nghĩ băn
khoăn không dứt ra được. Đọc Vũ Trọng Phụng, người ta muốn hành động, muốn đập
phá một cái gì cho hả giận. Giơng tố là một quả bom chính là với ý nghĩa ấy.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
b.2 Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong tiểu thuyết " Số đỏ "
Xã hội thực dân phong kiến đến thời Vũ Trọng Phụng đã phơi bày đầy đủ bản chất
xấu xa, thối nát của nó. Cuộc sống giả dối, bịp bợm với đủ trị cải cách, đó là mơi trường
thuận lợi cho “ký sinh trùng” Xuân Tóc Đỏ hoạt động. Xuân Tóc Đỏ đã phát triển trọn
vẹn tính cách của nó: từ một tên lưu manh, đại bịp đã trở thành một “anh hùng cứu
quốc”, một “vĩ nhân”.
a. Xuân Tóc Đỏ là loại bụi đời trong môi trường thành thị. Tác giả đã theo dõi tính
cách nhân vật từ bé. Xn Tóc Đỏ là một đứa bé mồ côi, lên 9 tuổi được ơng bác họ ni.
Nó nhìn trộm bác gái tắm và bị đuổi. Từ đó, Xuân lấy đầu hè xó chợ làm nhà, lấy sấu ở
12


các phố, lấy cá Hồ Hồn Kiếm làm cơm. Tóc hắn đỏ như lơng gà vì phơi nắng, trèo me,
trèo sấu. Rồi hắn len lỏi vào nhặt banh sân quần vợt. Bị đánh, bị đuổi vì hắn nhìn trộm
một cơ đầm thay quần áo. Vài nét biếm họa khá chân thật đó, Xuân Tóc Đỏ hiện lên rõ
nét là một tên vô giáo dục.

b.Từ môi trường vô giáo dục, lang thang kiếm sống với nhiều nghề phức tạp,
Xuân Tóc Đỏ trong một hồn cảnh đặc biệt, được nhập vào mơi trường của những kẻ
giàu có, những con người đang ơm ấp mộng Âu hóa và cải cách xã hội như bà Phó Đoan,
ơng bà Văn Minh, ơngTYPN.
Mụ Phó Đoan dâm đãng đã xin cho hắn ra tù và tạo điều kiện cho hắn gia nhập
vào xã hội thượng lưu. Mụ giới thiệu hắn đến tiệm may Âu Hóa của Văn Minh. Hắn dốt
nát, đến những chữ trên bảng hiệu cũng khơng xem được. Trong tiệm Âu Hóa của Văn
Minh, hắn chỉ biết học thuộc lòng như hắn đã từng học thuộc lòng những bài rao thuốc
lậu trước đây. “Hở cánh tay và hở cổ là dậy thì”, “Hở đến nách và hở nửa vú là ngây
thơ”. Hắn cũng nhớ lời của chủ: “Từ đi trở đi, xã hội văn minh hay dã man là trách nhiệm
của anh!”. Hắn đã rơi vào mơi trường của các nhân vật tồn là qi thai của xã hội như
mụ Phó Đoan dâm đãng được bằng “Tiết hạnh khả phong”, như ông bà Văn Minh, ông
TYPN đang chạy theo phong trào Âu Hóa chơi bời hưởng lạc thời bấy giờ. Xuân Tóc Đỏ
đã lợi dụng họ để tiến thân.
c. Hội nhập với xã hội thượng lưu, Xuân Tóc Đỏ gặp nhiều vận may và với bản
tính lém lỉnh, láu cá, hắn nhanh chóng tạo cho mình một chỗ đứng trong gia đình ơng bà
Văn Minh. Tính cách lưu manh, bịp bợm, dâm đãng của Xuân Tóc Đỏ cứ bành trướng
trong mơi trường thuận lợi đó. Với một số hiểu biết về bệnh tật thu được trong nghề rao
thuốc dạo, hắn chữa khỏi bệnh cho cụ cố và được tâng bốc là sinh viên trường thuốc rồi
quan “đốc-tờ”. Biết Xuân Tóc Đỏ là sinh viên trường thuốc, Tuyết, em gái Văn Minh tìm
cách làm thân. Xuân Tóc Đỏ lại được phen bộc lộ tính cách lưu manh, dâm đãng của hắn.
Hắn trò chuyện với Tuyết theo kiểu triết lý rởm: “Thời buổi này biết làm sao được. Giả
dối hết thảy! Yêu cũng yêu giả dối! Tầm thường cũng tầm thường giả dối! Hủ lậu cũng
hủ lậu giả dối!”. Rồi bất ngờ Xuân sờ ngực Tuyết và nói: “Chỉ có một mình q nương là
khơng giả dối như đời mà thôi”.
13


Con đường tiến thân của Xuân Tóc Đỏ thuận lợi. Y biết cách luồn lách, dùng mưu
mẹo thủ đoạn để làm lợi cho mình. Từ một đứa nhặt banh quần vợt, Xuân Tóc Đỏ trở

thành một danh thủ, một cây hy vọng của giới quần vợt Bắc Kỳ. Hắn cũng biết chấp nhận
thua theo đề nghị của quan trên trước nhà vô địch quần vợt Xiêm La để được trở thành
“Anh hùng cứu quốc”, bậc “Vĩ nhân”.
Trong xã hội mà thủ đoạn bịp bợm, gian xảo lan tràn thì bản chất lưu manh, bịp
bợm của Xn Tóc Đỏ khơng thể nhận ra. “Sự ngu độn của nó người ta cho là nhũn nhặn,
là sự khiêm tốn nên nó càng được yêu mến hơn”. Bà Phó Đoan xem Xuân là người có
học thức. Ơng phán mọc sừng cũng cho Xn là người đứng đắn. Giữa lúc cụ bà, mẹ Văn
Minh nguyền rủa Xuân Tóc Đỏ là đồ xỏ lá, đồ ba que, mặt chó chứ khơng phải mặt người
thì cố Hồng phẫn nộ “Con Tuyết mà chửa với thằng Xuân thì thật phúc bảy mươi đời cho
nhà này. Bà câm đi. Bà ngu lắm”. Một chi tiết nữa cũng cười ra nước mắt: cụ cố, ông nội
của Văn Minh ngã bệnh. Cả gia đình cầu cứu đốc-tờ Xuân. Hắn được dịp trả thù vì cụ cố
đã địi nhổ vào mặt hắn khi hắn quan hệ bất chính với Tuyết. Hắn nói xẵng: “Thưa cụ,
quả con vô học, nhặt banh quần, hạ lưu, không biết thuốc ạ!” rồi bỏ chạy. Mà đốc-tờ
Xuân bỏ chạy thì các ơng lang nổi danh khác bó tay. Thế là cụ cố chết. Lúc hắn thành thật
nhất thì người đời lại cho là giả dối. Vũ Trọng Phụng sâu sắc biết bao!
d. Xuân Tóc Đỏ là một nhân vật được xây dựng trong quá trình phát triển, tính
cách của Xn Tóc Đỏ được miêu tả trong q trình vận động.
Một mặt tính cách Xn Tóc Đỏ gần như không đổi. Vốn được giáo dục, đào
luyện trong nền văn hóa vỉa hè nên bản chất của Xuân vẫn giữ nguyên chất lưu manh của
kẻ lang thang đầu đường xó chợ. Từ ngơn ngữ cho đến cử chỉ, hắn luôn luôn văng tục,
không chịu học hành mà chỉ dùng thủ thuật bắt chước, che đậy, giả dối để đối phó trong
mọi tình huống. Có thể nói, tính cách lưu manh xuyên suốt con người Xuân Tóc Đỏ từ
khi là một cậu bé lang thang ở đầu đường xó chợ cho đến lúc trở thành “anh hùng cứu
quốc”.
Tuy nhiên, tính cách của Xuân cũng có những thay đổi nhất định. Y nhanh chóng
thích hợp với hồn cảnh mới và hồn cảnh cũng làm cho y thay đổi. Khi còn là kẻ hạ lưu,
hắn bộc lộ tính ti tiện, yếu đuối. Nhưng khi đã có vị trí trong xã hội, Xn bắt đầu xem
14



thường mọi người, “Xuân Tóc Đỏ càng kiêu ngạo làm bộ làm tịch bao nhiêu thì lại được
thiên hạ kính trọng bấy nhiêu”, Xuân Tóc Đỏ có lúc như kết hợp giữa tính cách của một
kẻ hạ lưu pha lẫn với lối sống thượng lưu, ngôn từ hạ đẳng lại xen với kiểu cách học đòi
của bọn người thượng lưu. Và đến lúc kết thúc tác phẩm, tính khinh người của Xuân Tóc
Đỏ càng lộ rõ và càng trở nên lố bịch. Hắn đã nói trước quần chúng: “Hỡi quần chúng, mi
khơng hiểu gì, mi ốn ta, ta vẫn u q mi mặc lịng mi chẳng rõ lịng ta. Thơi giải tán
đi”. Mọi người hơ ”Xn Tóc Đỏ vạn tuế! Sự đại bại vạn tuế!”.
e. Xuân Tóc Đỏ là một nhân vật được xây dựng chủ yếu trên sự tổng hợp nhiều nét
của những người cùng loại. Tác giả đã xây dựng Xn Tóc Đỏ theo phương pháp điển
hình hóa. Tác giả kết hợp lối miêu tả chân thật và phóng đại, phóng đại để biếm họa.
Nhiều tình tiết đã được hư cấu rất hấp dẫn như hành động của Tuyết với Xuân Tóc Đỏ,
quan hệ giữa Phó Đoan với Xuân hay là Xuân Tóc Đỏ chịu thua tài tử quần vợt Xiêm La,
bà Phó Đoan được phong “Tiết hạnh khả phong Xiêm La”, tất cả đều là những tình huống
phóng đại đầy tính châm biếm, đả kích.
Thế là Xn Tóc Đỏ từ một tên đầu đường xó chợ, nhặt banh quần, bán thuốc lậu
đã trở thành sinh viên trường thuốc, đốc-tờ Xuân, giáo sư quần vợt, nhà cải cách xã hội,
nhà cải cách Phật giáo, cố vấn cho báo Gõ Mõ rồi đến tột đỉnh vinh quang “anh hùng cứu
quốc”, “bậc vĩ nhân”, thật là “Số đỏ”.
Qua nhân vật trung tâm này, Vũ Trọng Phụng đả kích, châm biếm bản chất xấu xa,
thối nát của xã hội thực dân phong kiến. Có thể nói Xuân Tóc Đỏ là một bức tranh biếm
hoạ cỡ lớn phơi bày sự thối nát của cả một xã hội.
Bao giờ xã hội còn giả dối, cịn bịp bợm, cịn xảo trá, lừa lọc thì bức tranh biếm
họa Xn Tóc Đỏ vẫn cịn ý nghĩa răn đời.
3. Bút pháp đa dạng
Mỗi nhà văn thường có một cái “tạng” riêng, một sở trường riêng, một giọng điệu,
một bút pháp riêng (vd: Nguyễn Tuân thành công chủ yếu ở thể loại tùy bút, thể loại thể
hiện được cái tôi cá nhân đặc sắc của nhà văn, Tố Hữu thiên về thơ ca cách mạng…)
Riêng ở Vũ Trọng Phụng, người ta thấy ở hai tác phẩm GT và SĐ tác giả thể hiện hai bút
pháp khác nhau:
15



Ở GT, Vũ Trọng Phụng đi “tự nhiên” trên con đường Balzac đã khai thông với
giọng văn lạnh lùng, sắc sảo.
Ở SĐ, nhà văn sử dụng giọng bông đùa, trào phúng, nghệ thuật gây cười đa dạng,
biến hóa (sử dụng ngơn ngữ, tình tiết, nhân vật, tình huống trào phúng) trong một dung
lượng tác phẩm dài. Nghệ thuật trào phúng “đùa” mà rất thật, bản chất vấn đề bộc lộ rõ
ràng, thông qua tiếng cười, tác giả lên tiếng báo động về sự băng hoại của đạo đức xã hội
với ngịi bút biến hóa sinh động.
4. Hạn chế:
-

Yếu tố nhục dục quá đà

-

Cái nhìn đối với người cách mạng: chưa chân thực

-

Chủ nghĩa định mệnh: sự xuất hiện của những nhân vật thầy bói…

-

Nghệ thuật khơng trau chuốt kĩ lưỡng do vấn đề sinh kế

5. Đánh giá vị trí của Vũ Trọng Phụng
a. Vũ Trọng Phụng là một hiện tượng phức tạp bậc nhất trong lịch sử văn học VN
hiện đại hơn sáu mươi năm qua. Trong giai đoạn hiện nay, Vũ Trọng Phụng ngày càng
được mọi người trân trọng, đánh giá cao tài năng và cống hiến của ông – một trong

những cây bút xuất sắc của văn học hiện thực.
b. Vũ Trọng Phụng in đậm dấu ấn thành tựu văn chương của mình ở hai mảng phóng
sự và tiểu thuyết. Trong lịch sử văn học nước ta, hiếm có một nhà văn đồng thời chiếm
lĩnh được hai đỉnh cao như vậy. Rất nhiều nhà văn, nhiều thế hệ người cầm bút VN đã
chịu ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp từ văn chương ông.
c. Là một nhà văn trong những nhà văn hàng đầu của dòng văn học hiện thực 1930 –
1945 và văn học VN hiện đại, ông xứng đáng đứng ở vị trí cao trên văn đàn. Các tác
phẩm của ông được tiếp tục nghiên cứu, giảng dạy toàn diện và sâu sắc hơn nữa.
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Chúc chúng ta thi tốt! Ka ka

16



×