ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
------------]^-----------
TRƯƠNG THỊ HỒNG
BÀI TẬP
Chuyên đề:
THI PHÁP TIỂU THUYẾT TRUYỀN THỐNG PHƯƠNG TÂY
VÀ L.TÔNXTÔI
Hà Nội, 10/2004
1
I. Đặt vấn đề
Nguồn gốc của văn nghệ nói chung và văn học nói riêng không tách khỏi
nguồn gốc của con người. Quá trình phát triển của xã hội loài người gắn với quá
trình lao động, chính lao động đã làm cho con người phát triển về tư duy mà
trước hết được thể hiện ở việc con người luôn tìm cách cải tiến công cụ lao
động. Con người luôn có ý thức vươn lên đến sự hoàn thiện bởi thế luôn có có
sự sáng tạo trong mọi hoạt động. Đồng thời với sự phát triển của lao động, nhu
cầu cuộc sống và thị hiếu thẩm mĩ của con người cũng sớm nảy sinh và phát
triển. Sự nảy sinh và phát triển này cũng đồng hành với quá trình hình thành và
phát triển của nghệ thuật. M. Gorki đã khái quát nghệ thuật này như sau: “Con
người bẩm sinh đã là một nghệ sĩ. Ở đâu nó cũng cố gắng bằng cách này hoặc
cách khác đưa cái đẹp vào cuộc sống của mình. Nó không muốn con người chỉ
biết ăn uống và sinh con đẻ cái một cách khá vô ý thức, gần như máy móc. Nó
đã tạo nên xung quanh mình một thiên nhiên thứ hai gọi là văn hoá”.
Nghệ thuật chỉ nảy sinh khi con người đã phát triển đầy đủ về năng lực tư
duy và cảm xúc thẩm mĩ. Trong những nhân tố góp phần quyết định vào sự phát
triển của những cảm xúc thẩm mĩ, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ thì vai trò của
những tác phẩm nghệ thuật rất quan trọng. Việc bồi dưỡng thị hiếu và trình độ
cảm thụ nghệ thuật ở từng người chính là trực tiếp tạo nên một đối tượng thưởng
thức nghệ thuật, tạo nên sự hoà hợp giữa khách quan và chủ quan trong sáng tác
và thưởng thức nghệ thuật. Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật đã
chứng minh nhận định trên rất rõ, đó là ứng với mỗi giai đoạn phát triển của xã
hội loài người là sự ra đời và phát triển của một loại hình nghệ thuật. Ở đây dưới
khuôn khổ một tiểu luận nhỏ, điều kiện chưa cho phép có thể đưa ra những
chứng minh cụ thể ở diện rộng đó là nghệ thuật nói chung mà chỉ đi vào xem xét
ở một chuyên ngành nhỏ đó là Văn học để lí giải cho một thể loại có thể coi là
“máy cái của văn học” đó là tiểu thuyết. Qua đó nhằm tìm hiểu để trả lời cho câu
hỏi: “Tiểu thuyết đi về đâu? Tiểu thuyết chết hay không chết?” và soi ngay
chính vào nền văn học Việt Nam để xem “Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?”.
II. Hành trình của tiểu thuyết
1. Quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản
của tiểu thuyết.
Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, “xã hội thế nào văn
học thế ấy”, quả không sai. Quá trình phát triển của loài người cũng cho ra đời
những thể loại văn học tương ứng mang nội dung phản ánh đời sống của chính
xã hội sinh ra nó. Ví như thời nguyên thuỷ có thần thoại, khi xã hội đã có sự
phân chia giàu nghèo thì cổ tích cũng ra đời…Xã hội loài người phát triển, tư
duy thẩm mĩ của con người ngày càng cao thì các thể loại văn học cũng không
còn là thuần tuý, đơn giản nữa mà đòi hỏi phải ra đời loại tác phẩm văn học cho
phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của con người đương thời. Điều này nêu lên mối
quan hệ mật thiết giữa văn học (mà cụ thể là tác phẩm văn học) – Nhà văn − Bạn
đọc. Nghĩa là quá trình sáng tác gắn liền với quá trình tiếp nhận, không thể tách
rời từng khâu riêng biệt. Tác phẩm muốn tồn tại thì trong quá trình sáng tác nhà
2
văn phải xác định đối tượng tiếp nhận của mình là ai (viết cho ai) rồi mới đến
viết cái gì? viết như thế nào?.
Từ những lí luận chung về văn học trên đây ta đi vào tìm hiểu quá trình
hình thành và phát triển của tiểu thuyết để tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Tiểu
thuyết đi về đâu? Hay tiểu thuyết chết hay không chết?”
Tiểu thuyết là thể loại văn học ra đời muộn nhưng lại được coi là cái máy
cái của văn học. Nó có được vị trí như vậy là lẽ đương nhiên bởi lẽ, khi xã hội
loài người phát triển, tâm lí con người, các mối quan hệ xã hội phức tạp hơn thì
phản ánh vào văn học phải bằng một thể loại đủ sức chứa đựng sự phức tạp ấy,
thế là tiểu thuyết ra đời. Ở Châu Âu tiểu thuyết xuất hiện vào thời kì xã hội cổ
đại tan dã cũng như văn học cổ đại suy tàn. Cho nên các tiểu thuyết cổ đại Hi
Lạp, La Mã đã không thể đứng chen vai với anh hùng ca, bi kịch, hài kịch cổ đại
nữa. Cá nhân lúc ấy không còn thấy lợi ích và nguyện vọng của nó gắn liền với
cộng đồng xã hội cổ đại, nhiều vấn đề của đời sống riêng tư đặt ra gay gắt. Số
phận họ luôn bị đe doạ và họ cũng ý thức được tình trạng trơ trọi không nơi bấu
víu của mình. Bêlinxki khi phân tích nguồn gốc của tiểu thuyết đã viết rằng:
Tiểu thuyết bắt đầu phát sinh từ lúc “vận mệnh của con người, mọi mối liên hệ
của nó với đời sống nhân dân được ý thức. Vì vậy đời sống cá nhân bất luận thế
nào cũng không thể là nội dung của anh hùng ca Hi Lạp, nhưng có thể là nội
dung của tiểu thuyết”.
Xã hội ngày càng có nhiều biến động và chính điều đó lại là mảnh đất màu
mỡ, thuận lợi cho sự phát triển của tiểu thuyết. Sự ra đời của tiểu thuyết
“Đônkihôtê”, Xecvantec đã đưa tiểu thuyết sang một trang mới với những cách
tân trong sự mở rộng cốt truyện, phương pháp khắc hoạ tính cách cũng như
chiều sâu hiện thực của tác phẩm.
Cùng với tên tuổi của Banzăc, Stăngđan, Huygô, Đichken, Đôxtôiepxki,
L.Tônxtôi… thế kỉ XIX của văn học Phương Tây là thời đại hoàng kim của tiểu
thuyết. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, các nghệ sĩ bậc thầy của chủ nghĩa
hiện thực phê phán đã tạo nên những mẫu mực hoàn thiện của thể loại. Sang thế
kỉ XX với trào lưu văn học hiện thực Xã hội Chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều nhà
tiểu thuyết lớn như M.Gorki, A.Tônxtôi, Sôlôkhốp, Êrenbua… và đã góp cho
nền tiểu thuyết hiện đại của Châu Âu nhiều tác phẩm bất hủ. Ở đây những vấn
đề của số phận cá nhân được đặt trong mối liên hệ với số phận giai cấp, nhân
dân và dân tộc…Những biến cố, sự kiện lịch sử được vận dụng theo hướng khái
quát mang ý nghĩa thời đại lớn lao.
Từ việc khái quát quá trình hình thành và những chặng đường hành trình
của tiểu thuyết ta thấy tiểu thuyết luôn có sự vận động, phát triển đi lên gắn liền
với sự tiến lên của xã hội loài người và chính những gì diễn ra trong xã hội loài
người đã tạo nên đặc điểm của tiểu thuyết. Tiểu thuyết là thể loại tự sự cỡ lớn có
khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian.
Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của những cuộc đời, những bức tranh
phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện
những tính cách đa dạng.Trong quá trình vận động và phát triển diện mạo của
tiểu thuyết không ngừng thay đổi nhưng vẫn có thể thấy rõ những đặc điểm cơ
bản phân biệt với các thể loại khác. Thứ nhất, so với các thể loại tự sự khác như
3
ngụ ngôn,anh hùng ca thì tiểu thuyết có đặc điểm tiêu biểu là có cái nhìn cuộc
sống từ góc độ đời tư. Tuỳ theo từng thời kì phát triển cái nhìn đời tư có thể sâu
sắc tới mức thể hiện được, hoặc kết hợp được với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử,
nhưng yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại, yếu
tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà. Điểm thứ hai mà
tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên và anh hùng ca là
“chất văn xuôi”, tức là sự tái hiện cuộc sống, không thi vị hoá, lãng mạn hoá, lí
tưởng hoá. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu
thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tổ ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời bao
gồm cả cái cao cả và tầm thường, nghiêm túc và buồn cuời, bi và hài, cái lớn lẫn
cái nhỏ. Quả không sai khi Ăngghen cho rằng: Với bộ “Tấn trò đời của Banzăc
bằng toàn bộ những công trình lịch sử, kinh tế, kinh tế chính trị, pháp luật, xã
hội học, triết học, tôn giáo, khảo cổ học…của nước Pháp thế kỉ XIX cộng lại”.
Còn với nhân vật của tiểu thuyết đó là những “con người nếm trải”, tư duy, chịu
đau khổ, dằn vặt của cuộc đời. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người đang
biến đổi trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo.
Thành phần chính yếu của tiểu thuyết thì sao? Nó không phải là cốt truyện và
tính cách nhân vật như ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ thống sự
kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật
về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, trình bày
tường tận tiền sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người với người, về
đồ vật, môi trường nội thất…Trong tiểu thuyết khoảng cách về giá trị giữa người
trần thuật và nội dung trần thuật bị xoá bỏ, tiểu thuyết miêu tả hiện thực như cái
hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Chính đặc điểm này
làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép người trần thuật có
thể có thái độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình. Đặc điểm
cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng
tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác.
Chính hiện tượng tổng hợp trên đã làm cho thể loại tiểu thuyết cũng đang vận
động không đứng yên. Nhà nghiên cứu Xô Viết Bakhtin cho rằng, tiểu thuyết là
“thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi”. Ông ví sự hình thành và
phát triển của tiểu thuyết “đang diễn ra dưới ánh sáng ban ngày của lịch sử, bộ
xương của tiểu thuyết chưa hoàn toàn cứng cáp, chúng ta chưa dự đoán được sự
tạo hình của nó”.
Dựa trên sự hình thành, con đường hình thành và những đặc điểm cơ bản
của tiểu thuyết ta cần xem xét và đánh giá đúng hơn về thể loại này trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình tiểu thuyết hiện nay
Tiểu thuyết là “mảnh đất lưu giữ hình bóng cuộc đời” hay với Xtandan thì
“Tiểu thuyết là tấm gương đi rong trên đường cái, nó phản chiếu cả sắc thanh
thiên của bầu trời lẫn rác rưởi bên đường”. Nghĩa là tiểu thuyết gắn liền với cuộc
đời với đầy đủ cả tốt và xấu, nó mang hơi thở phập phồng của cuộc sống. Vậy
theo tôi cuộc sống của con người còn thì tiểu thuyết cũng còn. Nhưng hiện nay
có nhiều ý kiến cho rằng tiểu thuyết đã chết. Điều đó đúng hay sai? Chúng ta
4
cần xem xét một cách khách quan chứ không thể công nhận những nhận định mà
nhiều người đã đưa ra là “chết” hay “không chết”.
Với những con số thống kê về số lượng các tác phẩm tiểu thuyết được sáng
tác hàng năm, tôi thấy rằng tiểu thuyết không phải đã chết như một số người đã
nói. Theo thống kê gần đây nhất, năm 2004 đã có 452 tác phẩm tiểu thuyết của
Pháp và 217 tác phẩm của các nước khác được xuất bản. Ngay ở Việt Nam từ
năm 1980 đến 1996 cũng đã có tới 360 tác phẩm được xuất bản. Nhưng cũng có
những lí do riêng cần phải xem xét vì sao họ nói tiểu thuyết đã “chết”. Khách
quan nhận xét, chúng ta phải thấy rằng tiểu thuyết hiện nay tuy chưa “chết”
nhưng rơi vào khủng hoảng.
Vậy vì sao tiểu thuyết khủng hoảng? Có phải thể loại này không còn khả
năng đảm nhận sứ mệnh phản ánh chân thực đời sống nữa hay không? Hay ngày
nay không còn những độc giả có hứng thú đọc tiểu thuyết nữa? Cần phải tìm
nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng này. Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề
này. Với Naipaul, một nhà văn Ấn – Anh, thì ông cho rằng: “Tiểu thuyết đã
chết” điều ông muốn ám chỉ rằng, các nhà văn chuyên nghiệp hiện nay đều
giống như khuôn sẵn về nhân vật, sự kiện và khuôn vào đó những ngôn từ rẻ
tiền. Điều ông muốn nói tới ở đây là chất lượng của tác phẩm, ông muốn những
tác phẩm phải theo đúng nghĩa của nó: mới mẻ, khá công thức, đầy thể
nghiệm…Còn với một nhà văn khác – Salman Rushdie – thì cho rằng tiểu thuyết
không chết, nó chỉ bị chôn… không phải có quá nhiều sách đi săn đuổi độc giả
(như ý kiến của bà Roth) mà có quá nhiều sách đã đuổi độc giả đi, khiến cho họ
không muốn tìm đọc những cái mới.
Những ý kiến trên quả không sai vì không ít những tác phẩm viết ra vì mục
đích lợi nhuận chứ không phải mục đích làm văn học. Những tác phẩm đó là
loại tiểu thuyết tình cảm uỷ mị, cá nhân, cô đơn hay là thứ tiểu thuyết bạo lực,
hành động…chỉ phục vụ mục đích giải trí nhất thời để người ta đọc rồi lại quên
ngay. Điều này chứng tỏ rằng tiểu thuyết khủng hoảng một phần cũng do chất
lượng của tác phẩm, nhưng điều này không hoàn toàn vì không phải không còn
những tiểu thuyết có chất lượng tốt. Thế nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự khủng
hoảng của tiểu thuyết là ở đâu? Như chúng ta đã biết giữa nhà văn - tác phẩm -
độc giả có mối quan hệ rất mật thiết, mối quan hệ này quy định sự tồn tại và
phát triển của nhau. Dựa vào lịch sử hình thành và phát triển của văn học nói
chung và tiểu thuyết nói riêng ta thấy văn học là tấm gương phản chiếu đời sống
xã hội, ứng với nội dung của từng thời đại thì cũng có hình thức của từng thời
đại trong văn học. Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của kho học kĩ thuật đã
ảnh hưởng tới tận mọi ngõ ngách của đời sống. Xét sự phát triển của khoa học kĩ
thuật ở mỗi thời kì ta thấy chưa lúc nào khoa học kĩ thuật lại phát triển nhanh
như hiện nay, chính sự phát triển nhanh chóng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến
nhịp điệu cuộc sống, dường như con người hiện đại sống hối hả hơn, gấp gáp
hơn, quỹ thời gian của họ dường như bị thiếu, họ không có nhiều thời gian để
giành cho những việc khác ngoài công việc chính của họ. Chính vì vậy họ không
đủ kiên nhẫn để đọc hết cả cuốn tiểu thuyết trừ những người nghiên cứu hoặc
những người làm công việc liên quan tới văn học nói chung và tiểu thuyết nói
riêng. Xu thế chung hiện nay cho thấy thể loại truyện ngắn chiếm ưu thế hơn so
với tiểu thuyết vì để đọc truyện ngắn không mất nhiều thời gian. Mặt khác so