Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra của viện kiểm sát nhân dân tỉnh hà tĩnh trong các vụ án về tội giết người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.5 KB, 92 trang )

DƯƠNG THỊ HOA

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

DƯƠNG THỊ HOA

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
TRONG CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓA 24

Nghệ An, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------

DƯƠNG THỊ HOA

ĐINH THỊ PHƯƠNG THANH


ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH TRONG CÁC
VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 8.38.01.06
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn

Nghệ An, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình học tập và xây dựng luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cơ trong Khoa Luật - Trường Đại học
Vinh, các chuyên gia, nhà quản lý, đặc biệt TS. Nguyễn Thị Thanh Nhàn và
sự nỗ lực của bản thân đã giúp tơi hồn thành luận văn này.
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, với sự giúp
đỡ chân thành, nhiệt tình của TS. Nguyễn Thị Thanh Nhàn và các thầy cô trong
Khoa Luật - Trường Đại học Vinh. Các số liệu nêu trong luận văn là trung
thực, được tác giả thu thập từ các nguồn tài liệu khác nhau được trích dẫn cụ
thể trong luận văn. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào trong luận văn tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm trước nhà trường và trước pháp luật.
Nghệ An, ngày 8 tháng 9 năm 2018.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dương Thị Hoa


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Viện kiểm sát nhân dân

VKSND

Cơ quan điều tra

CQĐT

Tịa án nhân dân

TAND

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

Bộ luật hình sự

BLHS


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT
NGƯỜI
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ................................................... 8
1.1. Khái niệm ............................................................................................. 12
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự .......................................................................................... 12
1.3. Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về tội giết
người của viện kiểm sát nhân dân ............................................................. 133
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các
vụ án về tội Giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ............. 24
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH ...................................................................... 29
2.1.Tổng quan về tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ......... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết
người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2013 đến năm 2017
................................................................................................................... 344
2.3. Kết quả đạt được trong việc áp dụng pháp luật về kiểm sát điều tra các
vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2013
đến năm 2017 .............................................................................................. 58
2.4. Tồn tại, hạn chế trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết
người tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2013 đến năm 2017
và nguyên nhân ........................................................................................... 59
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT
NGƯỜI ........................................................................................................... 64
3.1. Quan điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội
giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ............................... 644
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các
vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh..............67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 83





1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay nói chung và ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, tình
hình tội phạm giết người diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ về số lượng án
giết người tăng mà cịn về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Trong đó có nhiều vụ án đối tượng sử dụng phương thức, thủ đoạn gây án xảo
quyệt, tạo hiện trường giả để che dấu hành vi phạm tội. Đặc biệt hơn một số vụ
án, đối tượng thủ tiêu xác nạn nhân bằng cách vứt xác nạn nhân xuống sông,
nhưng nhờ sự nổ lực của các cơ quan chức năng, kẻ phạm tội vẫn bị phát hiện,
đưa ra ánh sáng và chịu sự trừng phạt nghiêm minh của pháp luật.
Thời gian qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt công tác điều
tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng này, góp phần đắc lực
trong cơng tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, Viện kiểm
sát giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt
động điều tra ngay từ khi tiếp nhận thông tin về tội phạm và trong suốt quá trình
điều tra thu thập chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự
thật khách quan của vụ án. Hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát hướng
đến tính chính xác, khách quan của q trình chứng minh sự thật của vụ án hình
sự thuộc phạm vi trách nhiệm của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc truy cứu trách
nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra các trường hợp oan, sai,
bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động
kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ
án giết người nói riêng cịn có những hạn chế, yếu kém chung là: chưa phát huy
hết vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát; phần nhiều hoạt động còn

tiến hành theo lối mòn, chưa kịp đổi mới tư duy; thiếu tính chủ động trong các


2

hoạt động kiểm sát điều tra làm cho quá trình giải quyết vụ án chậm lại, kéo dài
thời hạn điều tra, nhiều vụ án bị Tòa án cấp cao sửa, hủy...đặc biệt, những năm
gần đây có khơng ít người bị khởi tố, truy tố, xét xử oan liên quan đến tội giết
người như: Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn, Bùi Minh Hải…qua các vụ án
đó có nhiều bài học kinh nghiệm rút ra trong hoạt động kiểm sát điều tra.
Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra các vụ án về tội giết người, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề
cần phải nghiên cứu như đổi mới phương thức kiểm sát điều tra ngay từ khi tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra vụ án giết người,
nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; góp phần thực hiện mục tiêu

chung xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý .
Từ những lý do trên, là một cán bộ công tác trong ngành kiểm sát ở tỉnh Hà
Tĩnh, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ của mình là “Áp dụng pháp
luật trong kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong
các vụ án về tội giết người” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử
nhà nước và pháp luật, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên
cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất quan điểm giải pháp đảm bảo chất lượng áp dụng
pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người trên phạm
vi cả nước nói chung và ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và kiểm sát điều tra các

vụ án giết người nói riêng là hoạt động tố tụng quan trọng, góp phần rất lớn vào
quá trình làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, làm cơ sở cho việc truy tố và xét
xử hành vi phạm tội. Vì vậy đây là vấn đề thu hút các nhà hoạt động thực tiễn
quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong nhiều


3

cơng trình khoa học được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể
nêu ra như sau:
- Các bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chun ngành, như:
+ Lý Văn Chính, “Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 06/2005.
+ Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 07/ 2006.
+ Đỗ Đức Hồng Hà “ Mặt khách quan của tội giết người, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” , Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06/2004.
+ Đổ Đức Hồng Hà “Một số quan điểm khác nhau về định nghĩa về đối tượng
tác động của tội giết người”, Tạp chí Tịa án, số 13/2004.
+ Trần Cơng Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu
cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát 03/2012.
+ Trần Cơng Phàn, “Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 16/2012.
+ Trần Công Phàn , “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra", tạp
chí Kiểm sát số 08/2014.
- Luận văn, khóa luận của một số tác giả:

+ Phạm Hồng Cử (2005), Phòng ngừa đấu tranh với tội phạm giết người
tại các tỉnh, thành phố phía Nam, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học Cảnh sát
nhân dân, Hà Nội.
+ Nguyễn Thị Thu Hiền (2009), Đấu tranh phòng chống các tội phạm giết
người tại Thành phố Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.


4

+ Trần Cơng Hịa (2004), Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát , Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Nguyễn Văn Hoan (2000), Đối tượng chứng minh và phương tiện chứng
minh trong vụ án hình sự về tội giết người, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Hồ Thị Thanh Hương (2013), Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật
Hà Nội.
+ Nguyễn Thị Lan (2012), Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh,
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
+ Phạm Thùy Vân (2011), Đấu tranh phòng chống tội phạm giết người và
tội cố ý gây thương tích trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt
nghiệp đại học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Tất Viễn (2003), Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, Kỷ yếu đề tài cấp bộ, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
- Chuyên đề:
+ " Một số bài học rút ra từ công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trưòng các
vụ án oan sai" (1998), tác giả Dương Thanh Biểu - Tiến sỹ Luật, Phó Viện trưởng
Viện KSND tối cao.

+ “Một số kinh nghiệm trong thực hành quyền Công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án Giết người" (2010), tác giả Vũ Việt Hùng - Phó Vụ trưởng Vụ 1A, Viện
KSND tối cao.
Hoạt động Kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được nhiều tác giả trong nước
nghiên cứu. Các cơng trình khoa học nêu trên là nguồn tài liệu quý để tác giả luận
văn tham khảo, kế thừa. Riêng về nghiên cứu chuyên sâu đề tài áp dụng pháp luật
trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội “giết người” ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh từ


5

cách tiếp cận của chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, liên hệ
vào thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đặt trong bối cảnh thi hành
Hiến pháp năm 2013, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì đến
nay chưa có cơng trình ở cấp độ luận văn, luận án luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ án về tội giết người, lấy đó làm căn cứ đánh giá thực trạng hoạt
động áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người ở tỉnh
Hà Tĩnh từ năm 2013 đến năm 2017 và đề xuất quan điểm, giải pháp để nâng cao
chất lượng, hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự nói chung và tội giết người nói riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Phân tích khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật và các yếu tố
bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người.
Hai là: Phân tích thực trạng việc áp dụng pháp luật trong giai đoạn kiểm sát

điều tra các vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian vừa qua. Làm rõ những ưu điểm, tồn tại và những nguyên nhân của ưu
điểm, tồn tại của hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Ba là: Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm việc áp dụng pháp luật trong
hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng
cộng sản cộng sản Việt nam.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trong giai
đoạn điều tra các vụ án về tội giết người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi về không gian
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu và thực hiện trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
4.2.2. Phạm vi về thời gian
Thời gian nghiên cứu trong vòng 5 năm trở lại đây, từ năm 2013 đến năm 2017.
4.2.3. Phạm vi về nội dung
Tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ về tội giết người ở tỉnh Hà Tĩnh, cụ thể là từ khi khởi tố vụ án
đến khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra, đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra
vụ án.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và
pháp luật nói chung, về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân;
các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
tư pháp, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê…, cụ thể:


7

- Tổng kết thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra
các vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh nói riêng.
- Thống kê, so sánh, phân tích số liệu liên quan đến việc giải quyết các vụ án về
tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2013
đến năm 2017.
- Nghiên cứu điển hình các trường hợp áp dụng pháp luật cụ thể trong giai
đoạn kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người.
- Phương pháp thống kê xã hội học.
- Phương pháp luật học, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần hồn thiện lý luận về hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát điều tra các vụ án về tội giết người. Luận văn có thể dùng làm
tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, vận dụng trong thực tiễn của Viện kiểm sát
và Kiểm sát viên trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và vụ án giết
người nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
kết quả nghiên cứu được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra
các vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án
về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm
sát điều tra các vụ án về tội giết người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.


8

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều
tra các vụ án giết người.
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm tội phạm:
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”
1.1.1.2. Khái niệm tội giết người
Điều 93 BLHS 1999, nay là Điều 123 Bộ luật hình sự hiện hành quy định về
tội giết người, theo đó:

“1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;


9

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất cơn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội khơng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì
bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm cơng việc nhất
định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05
năm.”
[Trích Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017]

Trên cơ sở quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015, khái niệm Tội giết
người được hiểu như sau: Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người
khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ
14 tuổi trở lên thực hiện.
1.1.1.3. Áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực
hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để các
chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình
theo quy định của pháp luật. Thơng qua hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho


10

pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ
thể được thực hiện và bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ trên các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội. Có thể nói áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong
các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện.
Áp dụng pháp luật được thực hiện trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài đối
với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Đây là trường hợp áp dụng pháp luật
được áp dụng phổ biến đối với các tội phạm hình sự, các vi phạm hành chính.
Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể tự phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt nếu khơng có sự tác động của nhà nước.
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa
các bên tham gia các quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải quyết được.
Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã xuất hiện nhưng do có sự tranh chấp
giữa các bên về các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó nên các bên khơng thể thực hiện

được các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình.
Thứ tư, đối với một số quan hệ pháp luật quan trọng mà Nhà nước cần thiết
phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia tham gia quan
hệ đó, hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một sự việc, sự kiện
thực tế nào đó.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng ý với quan điểm:
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước
thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn


11

cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.4: Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra
Áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự là một dạng
của áp dụng pháp luật nói chung. Áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các
vụ án hình sự thuộc trường hợp áp dụng pháp luật: Khi Nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia trong
các quan hệ điều tra, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Cơ sở phát sinh hoạt
động áp dụng pháp luật của VKSND đó là các quyết định của CQĐT, các hành vi
của những người tiến hành tố tụng trong hoạt động TTHS. Các quyết định và các
hành vi đó có thể được ban hành, thực hiện theo đúng hoặc khơng đúng quy định
của pháp luật. Khi đó Nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của VKSND, nhằm phát hiện những sai phạm, kịp thời đề ra các yêu cầu,
kiến nghị các chủ thể trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, khắc phục, sửa
chữa thiếu sót, vi phạm.
Từ khái niệm về áp dụng pháp luật nói chung, có thể hiểu áp dụng pháp
luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND là hoạt động thực hiện

pháp luật nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án hình sự của
CQĐT và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND được tuân thủ
theo đúng quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của VKSND
có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các VAHS là hoạt động
chỉ do VKSND tiến hành theo pháp luật quy định.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT các VAHS của VKSND
phải tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.


12

Thứ ba, quyết định áp dụng pháp luật trong hoạt động KSĐT của VKSND
được pháp luật bảo đảm thi hành
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì chức năng,
nhiệm vụ cơng tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự
để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội
phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội
phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm thì Kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt

động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự....
Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc
giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy
định của pháp luật; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định
của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải
được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật


13

phải được thi hành nghiêm chỉnh; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp
phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
1.3. Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về tội
giết người của viện kiểm sát nhân dân
1.3.1. Chức năng kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
Theo Điều 1 Quy chế tạm thời thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định: “Công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố bắt đầu từ khi tiếp nhận
nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát ra quyết
định truy tố hoặc quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật”. Điều
166 Bộ luật tố tụng hình sự đặt trọng tâm vào việc kiểm sát hoạt động điều tra
trong vụ án hình sự theo ba loại công việc: khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra,
việc tiến hành các hoạt động điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra.

Về khởi tố vụ án hình sự, Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định
quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự. Trước
hết, Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố
vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều bị khởi tố, việc khởi tố
vụ án có căn cứ và hợp pháp. Để đảm bảo việc khởi tố vụ án hình sự kịp thời,
khách quan, chính xác và đúng pháp luật, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan có quyền khởi tố (Cơ quan điều tra, Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra và cả Hội đồng xét xử) phải gửi quyết định khởi tố tới Viện kiểm
sát để kiểm sát việc khởi tố. Trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của các
cơ quan nói trên, trừ Hội đồng xét xử, khơng có căn cứ thì Viện kiểm sát có quyền
ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó. Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự


14

của Hội đồng xét xử khơng có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án cấp
trên.
Bên cạnh trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án
hình sự, Viện kiểm sát cịn có trách nhiệm kiểm sát cả việc không khởi tố vụ án
hình sự.
Về kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều
tra, nhiệm vụ cụ thể của Viện kiểm sát được thể hiện ở nhiều quy định khác nhau.
Trong quá trình kiểm sát hoạt động điều tra, việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan
điều tra, cũng như kiểm sát việc khởi tố, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn:
yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của
Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra
viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra.

Cùng với việc tác động đến Cơ quan điều tra và Điều tra viên thông qua việc
kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát cịn có trách nhiệm kiến nghị với các cơ quan, tổ
chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Để bảo đảm cho các kiến nghị của Viện kiểm sát có hiệu lực và hiệu quả, Điều
168 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: những quyết định, yêu cầu của Viện kiểm
sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân
nghiêm chỉnh chấp hành.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền cơng dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra phải khách quan, tồn diện, đầy
đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra


15

phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Xuất phát từ của hoạt động kiểm sát điều tra nêu trên và trên cơ sở nghiên
cứu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát hoạt động điều
tra vụ án hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát điều
tra vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự là
chức năng hiến định của viện kiểm sát, được thực hiện bắt đầu từ khi cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi cơ quan tiến hành
tố tụng kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho
viện kiểm sát đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi

hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá
trình điều tra vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong kiểm sát điều tra vụ án hình
sự là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, viện kiểm sát thực hành
quyền kiểm sát thông qua các hoạt động:
Đề ra yêu cầu điều tra: Trong quá trình thực hành quyền cơng tố, kiểm sát
điều tra vụ án hình sự, khi cần làm rõ về tội phạm, người phạm tội và những vấn
đề phải chứng minh trong vụ án hoặc để hoàn thiện thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên
đề ra yêu cầu điều tra. Yêu cầu điều tra có thể được thực hiện nhiều lần, bằng văn
bản hoặc bằng lời nói. Văn bản yêu cầu điều tra được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu
hồ sơ kiểm sát. Nội dung yêu cầu điều tra phải cụ thể, rõ ràng, sát với nội dung của
vụ án, định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm, những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85, Điều 441 Bộ luật Tố tụng
hình sự.


16

Kiểm sát viên chủ động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra thực
hiện đầy đủ nội dung yêu cầu điều tra.
Kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra: Trường hợp cần thiết,
Kiểm sát viên xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiểm sát phê duyệt. Nội dung kế hoạch dự
kiến các nhiệm vụ và hoạt động cụ thể, phân công thực hiện, cách thức, lực lượng,
thời gian thực hiện và các vấn đề khác có liên quan.
Kiểm sát viên chủ động thực hiện kế hoạch; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện để bổ sung, điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết; bảo đảm việc thực
hiện kế hoạch đúng hướng, sát thực tế, hiệu quả, đúng thời hạn.

Kiểm sát trong quá trình hỏi cung bị can: Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ việc hỏi cung bị can ngay từ lần hỏi cung đầu tiên, bảo đảm tính có căn cứ,
hợp pháp, đúng trình tự, thủ tục của hoạt động hỏi cung theo quy định tại Điều
183 BLTTHS. Kiểm sát viên có thể trực tiếp tham gia hỏi cung bị can cùng Điều
tra viên, Cán bộ điều tra hoặc kiểm sát biên bản hỏi cung. Trước khi kết thúc giai
đoạn điều tra, Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều tra tổng hợp,
đánh giá kết quả hỏi cung; tiến hành phúc cung khi thấy cần thiết.
Trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can trong các
trường hợp sau: Bị can kêu oan; Bị can khiếu nại hoạt động điều tra; Có căn cứ
xác định việc điều tra vi phạm pháp luật;
- Khi có đề nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài liệu, chứng cứ mâu
thuẫn hoặc chưa rõ; lời khai của bị can trước sau khơng thống nhất, lúc nhận tội,
lúc chối tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai của bị can hoặc
trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng và các trường hợp khác
khi xét thấy cần thiết.
Trước khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện để xin ý kiến. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự.


17

Kiểm sát quá trình lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự: Kiểm
sát viên chủ động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra cung cấp đầy
đủ biên bản ghi lời khai và các tài liệu liên quan đến việc lấy lời khai người làm
chứng, bị hại, đương sự để kiểm sát. Khi thấy có người làm chứng, bị hại, đương
sự chưa được lấy lời khai, thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều
tra kịp thời lấy lời khai.
Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra, để quyết định việc phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền điều

tra hoặc để quyết định việc truy tố, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai
người làm chứng, bị hại, đương sự trong các trường hợp sau đây:
- Có căn cứ xác định việc lấy lời khai của Điều tra viên, Cán bộ điều tra
khơng khách quan hoặc có vi phạm pháp luật;
- Trong trường hợp lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự có mâu
thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập được;
- Có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của người làm
chứng, bị hại, đương sự;
- Trường hợp cần thiết khác để làm rõ chứng cứ, tài liệu.
Biên bản ghi lời khai do Kiểm sát viên lập được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu
hồ sơ kiểm sát.
Kiểm sát trong hoạt động đối chất: Trong q trình thực hành quyền cơng
tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa các bị can, bị hại,
người làm chứng, đương sự mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng
chưa giải quyết được mâu thuẫn, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành
việc đối chất.
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên trong
khi đối chất theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu
cầu Điều tra viên khắc phục.


18

Kiểm sát trong hoạt động nhận dạng, nhận biết giọng nói: Kiểm sát viên
phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên khi tiến hành việc nhận
dạng, nhận biết giọng nói theo Điều 190 và Điều 191 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu
phát hiện vi phạm thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục.
Kiểm sát hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục
khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật theo quy định tại Chương XIII Bộ luật

Tố tụng hình sự.
Kiểm sát hoạt động định giá tài sản: Kiểm sát viên chủ động kiểm sát chặt
chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu định giá tài sản theo quy định
tại các điều 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thực hành quyền cơng tố, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án và giữ bí mật điều
tra: Trong quá trình khởi tố, điều tra và truy tố, tài liệu của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ
án theo đúng trình tự tố tụng của vụ án.
Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên, Cán
bộ điều tra, bảo đảm từng trang tài liệu trong hồ sơ vụ án phải được đóng dấu bút
lục của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, VKS kèm theo bản thống kê tài liệu.
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải giữ bí mật điều tra, yêu cầu Điều tra viên,
Cán bộ điều tra, người tham gia tố tụng giữ bí mật điều tra; nếu phát hiện vi phạm,
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét xử lý hoặc
kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền: Khi có căn cứ chuyển vụ
án để điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu
Cơ quan điều tra đang thụ lý giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Viện kiểm sát ra
quyết định chuyển vụ án. Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án khi có văn


×