Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.88 KB, 111 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐOÀN VĂN HÙNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT

NGHỆ AN, 8-2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐOÀN VĂN HÙNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 6.38.01.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Đinh Ngọc Thắng

NGHỆ AN, 8-2018


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình nào.
TÁC GIẢ
Đồn Văn Hùng


4


5
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


13

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân

13

1.2. Nội dung và quy trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

30

1.3. Các yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.

41

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
ĐỒNG NAI

47

2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội và tổ chức bộ máy của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai

47


2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai

50

2.3. Đánh giá chung về thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đồng Nai

66


6

CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

81

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đồng Nai hiện nay

81

3.2. Giải pháp nâng cao nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Đồng Nai
KẾT LUẬN
DANH MỤC THAM KHẢO

83
101
103


7
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

ADPL

:

BLTTHS :

Áp dụng pháp luật
Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự

CQĐT

:


Cơ quan điều tra

CQTP

:

Cơ quan tư pháp

ĐTV

:

Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên

THQCT

:

Thực hành quyền cơng tố

TTHS

:


Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


8
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TT

Nội dung

Bảng 2.2.1. Số liệu VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố và yêu


Trang
52

cầu khởi tố vụ án
Bảng 2.2.2.

Số liệu VKS phê chuẩn, yêu cầu khởi tố, yêu cầu

54

thay đổi quyết định khởi tố bị can
Bảng 2.2.3.

Tỷ lệ giải quyết án hình sự của CQĐT và của VKS

55

Bảng 2.2.4.

Số liệu tạm giam và các trường hợp VKS không phê

57

chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam
Bảng 2.2.5.

Số liệu CQĐT, VKS đình chỉ do khơng phạm tội

62


Bảng 2.2.6.

Số liệu VKS, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung

64


9

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đời sống kinh tế
- xã hội của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Song, tình hình vi phạm
pháp luật, tội phạm diễn biến có chiều hướng phức tạp, một số loại tội phạm có tính
chất và hậu quả nghiêm trọng hơn. Kết quả hoạt động của các cơ quan tư pháp
(CQTP) trong những năm gần đây đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh
chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân, bảo vệ pháp chế, phục vụ công cuộc đổi mới của Đảng. Tuy
nhiên, hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn chưa đáp ứng được tình hình mới.
Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách tư
pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong cơng tác đấu tranh
phịng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan được pháp luật trao thực hiện
chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng, nhiệm vụ
quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Thơng
qua việc thực hiện chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [24].

Hoạt động áp dụng pháp luật (ADPL) của VKSND trong q trình thực hành quyền
cơng tố (THQCCT), kiểm sát các hoạt động tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần có hiệu quả vào việc giáo dục ý
thức pháp luật. ADPL của VKSND trong THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự trong bối cảnh hiện nay địi hỏi phải được chú trọng và


10
nâng cao chất lượng mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Công tác THQCT ở
giai đoạn điều tra thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho cơ quan điều
tra (CQĐT) hoạt động đúng hướng; việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng
người, đúng tội; hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Kết quả điều
tra vụ án hình sự là điều kiện tiên quyết thiết thực, trực tiếp cho việc thực hiện quyền
công tố (QCT), công tác kiểm sát việc truy tố và xét xử của Tòa án được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội và tránh bỏ lọt tội phạm. Thực
tiễn cải cách tư pháp hiện nay đang đặt ra cho ngành tư pháp nói chung và VKSND
nói riêng những nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi ngành kiểm sát phải đổi mới mạnh
mẽ trong tổ chức và hoạt động.
Qua công tác tổng kết, đánh giá thực tiễn tại VKSND tỉnh Đồng Nai cho thấy,
bên cạnh những thành tựu đạt được, cơng tác THQCT vẫn cịn bộc lộ một số hạn chế,
yếu kém như việc khởi tố, bắt, giam, giữ vẫn còn xảy ra oan sai; một số trường hợp
phải đình chỉ điều tra do khơng phạm tội, một số vụ án đã không được khởi tố kịp
thời, trả hồ sơ điều tra bổ sung do lỗi Kiểm sát viên (KSV),... những hạn chế đó đã
ảnh hưởng đến cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai. Những yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có cả nguyên nhân
chủ quan, nguyên nhân khách quan. Nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu là
do nhận thức pháp luật và năng lực ADPL trong hoạt động thực tiễn của CQĐT,
VKSND.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên và từ nhận thức việc ADPL trong THQCT ở giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự là một trong những vấn đề quan trọng, cần có sự quan

tâm hơn nữa kể cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn để việc ADPL trong THQCT
của VKSND tỉnh Đồng Nai đạt kết quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Vì
những lý do trên, việc lựa chọn vấn đề "Áp dụng pháp luật trong thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân,


11
từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học là yêu cầu tất
yếu khách quan hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành
quyền công tố đối với vụ án hình sự trong những năm qua đã được một số nhà khoa
học và cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu được cơng bố trên các tạp
chí chuyên ngành, trong các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, sách tham khảo và trong
các đề tài nghiên cứu cấp bộ do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện. Trong đó,
đáng chú ý một số cơng trình như:
- Về sách, giáo trình gồm có: Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2009. Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS-TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội năm 2014; Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, PGS.TS Nguyễn Hịa Bình (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia – sự thật năm
2016; Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, PG. TS Nguyễn Văn
Động (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia - sự thật năm 2017...
- Về các luận văn, công trình nghiên cứu của các tác giả như: Những vấn đề
lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, do
VKSND tối cao thực hiện năm 1999; Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, của TS.Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2008;
Luận án tiến sĩ: Quyền công tố ở Việt Nam, của nghiên cứu sinh Lê Thị Tuyết Hoa
thực hiện năm 2002; Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay của Trịnh

Duy Tám, năm 2005; Luận văn thạc sỹ luật học, Thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam của
Đinh Công Thành (2011),


12
- Một số bài viết như: “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố” của
Lê Cảm (Báo cáo tại Hội nghị khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
trong tình hình mới, do Ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức (Tp. Hồ Chí Minh,
ngày 2/4/2001); "Nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp" của Hà Mạnh Trí (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003); "Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện của nhà
nước pháp quyền" của Nguyễn Đăng Dung (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
10/2008); Trần Công Phàn, "Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân trong tình hình mới và một số vấn đề về tăng
cường sự Lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm" (Tạp
chí Kiểm sát số 19)/2011). Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hồng Vinh (Tạp chí kiểm sát, số
01/2013); Những dấu mốc quan trọng hình thành, phát triển chế định Thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Nguyễn Thị Nga (Tạp chí
kiểm sát, số 06/2016);Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra theo các quy định mới của pháp luật của Lại
Hợp Việt (Tạp chí kiểm sát, số 17/2016); Nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố, hạn chế án hình sự bị hủy và trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Trí Khơn
(Tạp chỉ Kiểm sát, số 17/2017)…
Các cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã đề cập đến những khía
cạnh khác nhau của vấn đề về QCT và việc ADPL trong THQCT của VKSND, có
nhiều giá trị để tham khảo. Song chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, có hệ thống về mặt lý luận và thực trạng dưới góc độ ADPL trong THQCT của

VKSND ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Đồng Nai nói riêng. Kế thừa
các kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả mạnh dạn tiếp cận vấn đề ADPL dưới góc độ


13
lý luận về nhà nước và pháp luật để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự
tại địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tác giả mong muốn tìm ra giải pháp bảo đảm áp dụng pháp
luật trong THQCT nói chung và ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu để tìm ra những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hơn nữa
chất lượng ADPL khi THQCT ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Đồng Nai, góp
phần xây dựng VKSND tỉnh Đồng Nai vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đồng Nai
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ðể thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận về ADPL và ADPL khi THQCT ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND. Trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm, quy
trình và các yếu tố đảm bảo việc ADPL khi THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của VKSND;



14
+ Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động ADPL khi THQCT ở giai đoạn điều
tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Đồng Nai.
+ Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng ADPL
khi THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự , luận văn nêu quan điểm và đề xuất
các giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng ADPL khi THQCT ở giai đoạn điều
tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
của hoạt động ADPL khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND
tỉnh Đồng Nai. Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả ADPL trong THQCT của
VKSND ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn về không gian và thời gian: Trên cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật
trong THQCT ở giai đoạn điều tra, luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu thực tiễn áp
dụng pháp luật trong THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND hai cấp
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2013 đến năm 2017.
+ Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về ADPL trong THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng
duy nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật. Nhất là các quan điểm chỉ đạo của
Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị: "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".



15
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử trong triết học Mác-Lênin. Đồng thời, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu
khác như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải để làm sáng tỏ các khái niệm, các quy
định của pháp luật liên quan đến ADPL khi THQCT ở giai đoạn điều tra của VKSND;
phương pháp thống kê, chứng minh thơng qua khảo sát tại các phịng nghiệp vụ
(Phịng 1, Phòng 2, Phòng 3), Phòng Thống kê và Văn phòng Tổng hợp của VKSND
tỉnh Đồng Nai để có số liệu cụ thể.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chế định QCT, THQCT và
hoạt động ADPL nói chung, trong đó xác định những vấn đề lý luận của ADPL
trong hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân
của ưu điểm và hạn chế, đồng thời đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả công tác ADPL trong THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của VKSND tỉnh Đồng Nai.
Ở mức độ nhất định, quả kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm
tư liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ, kiểm sát viên trong cơ quan VKS, nhất là
những KSV trực tiếp làm công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp để nâng
cao chất lượng ADPL. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên, học viên luật cán bộ nghiên cứu giảng dạy và nghiên cứu
một số chuyên đề khác có liên quan đến hoạt động THQCT nói chung và trong
THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND nói riêng.



16
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo phụ lục, nội
dung luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
- Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai.


17
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là hệ thống các qui tắc xử sự thể
hiện ý chí, lợi ích của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính
bắt buộc chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết
phục và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội vào hoạt động xây
dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh [10, tr.337].
ADPL là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật, bao gồm tuân theo

pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và ADPL. ADPL là hoạt động
của cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền nhằm tổ chức cho các chủ thể
pháp luật khác thực hiện đày đủ và nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật. ADPL
khác với tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật ở chỗ: nó chỉ
được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền
và trong ADPL có cả tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp
luật. Tuy vậy, không phải trong mọi trường hợp đều ADPL, mà ADPL chỉ được
tiến hành trong bốn trường hợp sau đây:


18
Một là, khi đã có quy phạm pháp luật quy định trước về những điều kiện cần
và đủ để làm phát sinh quan hệ pháp luật cụ thể, nhưng quan hệ pháp luật đó vẫn
chưa hình thành vì chưa có sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi
vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ADPL để làm phát sinh quan hệ pháp
luật ấy.
Hai là, khi quan hệ pháp luật cụ thể đã phát sinh, nhưng nó vẫn chưa được
thực hiện vì giữa các chủ thể quan hệ pháp luật đó có sự tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ mà tự họ không thể giải quyết được, phải nhờ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết.
Ba là, khi nhà nước (cụ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền) thấy cần xác
nhận những sự kiện thực tế để chuyển hoá chúng thành những sự kiện mang tính
pháp lý.
Bốn là, khi có vi phạm pháp luật xảy ra và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật đó.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể định nghĩa: ADPL là một hình thức
hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc cá nhân có thẩm quyền theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định, nhằm cá
biệt hóa quy phạm pháp luật hiện hành đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể
trong trường hợp cụ thể [12, tr 416, 417, 418, 419].

1.1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất: Hoạt động ADPL chỉ được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền. Pháp luật qui định mỗi cơ quan nhà nước
hay nhà chức trách khác nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau, như Thẩm phán có
quyền xét xử ra bản án, KSV có quyền THQCT, đề ra yêu cầu điều tra hoặc tự
mình tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp…Trong trường hợp đặc biệt một
số tổ chức xã hội được nhà nước uỷ quyền cũng được ADPL. Như vậy pháp luật là


19
cơ sở xuất phát điểm để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ADPL thực hiện
chức năng của mình. Việc ADPL được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chí của nhà
nước được thể hiện trong pháp luật.
Thứ hai: Hoạt động ADPL được tiến hành theo thủ tục, trình tự do pháp luật
quy định. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ thể bị ADPL có thể
được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất lợi nghiêm trọng, nên
pháp luật ln xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ
của chủ thể trong quá trình ADPL. Bởi vậy mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các bên có liên quan trong quá trình ADPL phải tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định
có tính thủ tục đó.
Thứ ba: ADPL là hoạt động điều chỉnh mang tính chất cá biệt. Đối tượng của
hoạt động ADPL là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở
những mệnh lệnh chung trong qui phạm pháp luật. Bằng hoạt động ADPL những
qui phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể
của đời sống.
Thứ tư: ADPL mang tính quyền lực nhà nước. Thể hiện trước hết ở chủ thể
có quyền ADPL. Nếu như với các hình thức thực hiện pháp luật khác thì bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào cũng thực hiện được thì ADPL chỉ do những cơ quan, cá nhân, tổ
chức được pháp luật cho phép mới có quyền thực hiện và cũng chỉ được áp dụng
trong một phạm vi nhất định. Kết quả của việc ADPL là những mệnh lệnh, quyết

định buộc mọi tổ chức, cá nhân đều phải chấp hành, nếu không muốn bị cưỡng chế
bằng sức mạnh nhà nước.
1.1.2. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm quyền công tố


20
“Cơng tố” theo Đại từ điển tiếng Việt, “Cơng” có nghĩa là “thuộc về Nhà
nước, tập thể, trái với tư”, cịn “tố” có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của
người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”,
“cơng tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến
trước Tòa án” [15 tr. 453, 459, 663].
Ở Việt Nam, thuật ngữ "Quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến
pháp 1980, sau đó được nhắc lại ở Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981.
Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm truyền thống kiểm
sát việc tuân theo pháp luật đã xuất hiện khái niệm quyền công tố và thực hành
quyền công tố. Trong khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS), việc xác định khái
niệm QCT và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng.
Giải quyết tốt vấn đề đó giúp cho việc xác định chính xác vai trị, vị trí của VKS
trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong các CQTP nói riêng; xác định
rõ chức năng của VKS, đặc biệt là trong TTHS; từ đó có những quyết định đúng
đắn về tổ chức VKS các cấp.
Vấn đề khái niệm QCT đã có nhiều tài liệu nghiên cứu, bài viết trên các tạp
chí đề cập đến khái niệm này với những mức độ khác nhau. Song cho đến nay khi
chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, khái niệm QCT vẫn chưa
đạt được sự nhận thức thống nhất cao, đang có nhiều quan điểm khác nhau. Có thể
khái quát một số quan điểm cơ bản sau:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát tuân theo
pháp luật đều là THQCT. Theo quan điểm này công tố không phải là một chức năng

độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [34]. Cơ sở lập luận của quan điểm này, theo
tác giả là họ chủ yếu dựa vào Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Nếu hiểu QCT
như trên là q rộng và chưa chính xác, vì chức năng cơng tố và chức năng kiểm sát


21
việc tuân theo pháp luật là hai chức năng hoàn toàn độc lập của VKS. Trong thực tiễn
hoạt động của VKS thì hai chức năng này có những nội dung đan xen, liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại với nhau, nhưng khơng phải vì thế mà phủ nhận được tính độc
lập của hai chức năng này cả về nội dung và phạm vi áp dụng.
+Quan điểm thư hai cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa
(thực hành quyền công tố) [32, tr.86-88]. Quan điểm này đã nhấn mạnh vai trò duy
nhất của VKS trong thực hiện QCT theo qui định của pháp luật TTHS, nhưng lại coi
QCT chỉ có trong hoạt động truy tố và buộc tội tại phiên tòa. Quan điểm này đã
nhầm lẫn giữa QCT và THQCT và đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi QCT,
không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Trên thực tế, truy tố và buộc
tội của VKS tại phiên toà chỉ là một trong số những hoạt động THQCT. Quan điểm
này không lý giải được các hoạt động khác của VKS ở giai đoạn điều tra để đảm
bảo cho hoạt động truy tố và buộc tội tại phiên tòa thuộc về chức năng nào của
VKS, trong khi rõ ràng không phải là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
+ Quan điểm thứ ba cho rằng: quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra tịa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước,
xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [34, tr.84]. Những người theo quan điểm
này cho rằng QCT xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên
trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các
ngành luật QCT được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
Theo quan điểm này, khái niệm QCT được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố
nhà nước, công tố xã hội và tư tố. QCT là quyền của nhà nước giao cho VKS thực

hiện theo luật định. Nội dung QCT là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo
luật định được tiến hành với sự liên kết chặt chẽ với nhau mà VKS có trách nhiệm
thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp. QCT là một quyền năng nhằm thực hiện


22
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, xét về nội dung THQCT là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự và dân sự và các lĩnh vực tố tụng khác nhằm
đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra xử
lý theo pháp luật, tăng cường pháp chế thống nhất. Quan điểm này đã thể hiện sự đồng
nhất giữa khái niệm QCT nhà nước với khái niệm thẩm quyền của VKS trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các loại án khác.
+ Quan điểm thứ tư cho rằng: QCT là quyền của nhà nước giao cho các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế
tài hình sự đối với người phạm tội [41]. Theo quan điểm này, không chỉ VKS mà
các cơ quan tố tụng khác như CQĐT, Tòa án, Cơ quan Thi hành án đều được thực
hiện QCT và QCT được thực hiện trong mọi giai đoạn TTHS. Hiểu khái niệm QCT
như quan điểm trên là chưa chính xác, bởi đã đồng nhất khái niệm quyền công tố
với nguyên tắc tố tụng hình sự. Vì vậy dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các hoạt động
buộc tội, xét xử và bào chữa trong TTHS, hơn nữa không chỉ VKS là cơ quan duy
nhất THQCT mà cả CQĐT, Tòa án, Thi hành án đều thực hiện QCT và QCT được
tiến hành trong mọi giai đoạn tố tụng từ khởi tố đến thi hành án.
+ Quan điểm thứ năm cho rằng: “QCT là quyền của nhà nước, được nhà
nước giao cho một cơ quan (ở Việt nam là cơ quan VKS) thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có
trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và
người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội
trước phiên tòa.” [32, tr40]. Theo quan điểm này, QCT là quyền buộc tội nhân danh
nhà nước đối với người phạm tội. Do đó, QCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS mà khơng
có trong các lĩnh vực tố tụng khác.

Như vậy, có thể thấy, về khái niệm QCT cịn một số quan điểm nhận thức
khác nhau, mỗi quan điểm đều có những nhân tố hợp lý riêng, song nhìn từ nhiều góc


23
độ cũng như quan điểm chỉ đạo của Đảng, những qui định của pháp luật, thực tiễn
hoạt động của Tòa án, VKSND, thì vẫn cịn những yếu tố bất cập nhất định. Với nhận
thức của mình, tác giả đồng tình với quan điểm thứ năm nêu trên về khái niệm QCT,
bởi các lý do:
Thứ nhất, quan điểm này đã khẳng định được QCT là quyền của Nhà nước,
nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình
sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của xã hội và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự.
Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm truyền thống nghiên cứu của lịch sử nhà
nước và pháp luật về QCT.
Thứ hai, quan điểm cũng thừa nhận QCT gắn liền với quyền tài phán của tịa
án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra tịa và bảo vệ
sự buộc tội trước phiên tòa. Song, cũng cần nhận thức rằng, khơng có nghĩa cứ phải
đưa được người phạm tội ra tòa mới là thực hành QCT. Bởi lẽ, trên thực tế, QCT có
thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác động của QCT nếu hội đủ
căn cứ để triệt tiêu.
Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận QCT chỉ có thể do một cơ quan thực hiện
và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền này là VKS).
Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Từ những vấn đề phân tích trên có thể hiểu rằng: Quyền cơng tố ở Việt Nam là
quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng theo quy định
của pháp luật để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa, bảo đảm việc truy tố đúng người,
đúng tội, đúng phấp luật; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

người vô tội.


24

1.1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Theo qui định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành thì VKS thực hiện hai chức
năng đó là THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên thực tế, vấn đề này rất
nhiều người nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm giữa QCT và THQCT, giữa thẩm quyền
của VKS với các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm quyền đó, hay hành vi nào là
THQCT, hành vi nào là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Việc lý giải rõ ràng mạch lạc về QCT và THQCT giúp cho việc nhận thức đầy
đủ, chính xác vị trí vai trò của VKS trong hệ thống các CQTP, cũng như chức năng
nhiệm vụ của VKS, đặc biệt là trong TTHS, nó càng có ý nghĩa trong giai đoạn hiện
nay khi chúng ta đang tích cực triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải
cách các CQTP.
QCT như được đề cập ở trên đó là quyền nhân danh Nhà nước phát hiện tội
phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và thực hiện việc buộc
tội người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước Tồ án. Để thực hiện quyền đó,
Nhà nước thông qua pháp luật quy định các quyền năng pháp lý và giao nó cho cơ
quan có thẩm quyền được áp dụng để truy tố người có hành vi bị coi là phạm tội,
buộc tội người đó khi người đó bị đưa ra xét xử tại Toà án và bảo vệ việc buộc tội
đó. Cơ quan được Nhà nước giao quyền đó được gọi là cơ quan THQCT. Việc quy
định cơ quan THQCT ở mỗi nước có sự khác nhau. Ở nước ta, căn cứ vào các quy
định của pháp luật từ năm 1960 đến nay thì Nhà nước giao quyền đó cho VKSND.
Vì vậy, hiện nay VKSND là cơ quan duy nhất có chức năng THQCT ở Việt Nam.
Từ đó có thể định nghĩa: Thực hành quyền cơng tố ở giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
1.1.3. Khái niệm vụ án hình sự và điều tra các vụ án hình sự

1.1.3.1. Vụ án hình sự


25
Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt
là Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi) quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu
tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:Tố giác
của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông
tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú”.
Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định khái niệm thế nào là vụ án
hình sự. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của Bộ luật TTHS có thể hiểu: Vụ án hình
sự là vụ án phát sinh khi vụ việc phạm pháp bị phát hiện có dấu hiệu tội phạm đã
được quy định trong BLHS được cơ quan có thẩm quyền ( bao gồm CQĐT, Cơ
quan khác được được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,Viện kiểm
sát, Toà án) ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo
các trình tự, thủ tục đã được quy định trong BLTTHS.
1.1.3.2. Điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn của TTHS. Là hoạt động của CQĐT và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra để phát
hiện, làm rõ hành vi phạm tội, người phạm tội căn cứ vào các quy định của pháp
luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu



×