Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua dạy đọc hiểu văn bản tự sự trong chương trình ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.64 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THU HẢI

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH
QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
(Khảo sát các trường THPT ở huyện Nam Đàn, Nghệ An)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THU HẢI

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH
QUA DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
(Khảo sát các trường THPT ở huyện Nam Đàn, Nghệ An)
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH Ngữ văn
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Đặng Lưu


Nghệ An - 2019


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

TT

Từ ngữ được viết tắt

Viết tắt

1

Đối chứng

ĐC

2

Học sinh

HS

3

Nhà xuất bản

NXB

4


Năng lực

NL

5

Sách giáo khoa

SGK

6

Kĩ năng nói

KNN

7

Trung học phổ thông

THPT

8

Giáo dục

GD

9


Giáo dục phổ thông

GDPT

10

Văn bản

VB

11

Văn bản tự sự

VBTS

12

Giáo viên

GV


MỤC LỤC
Trang

MỤC LỤC ............................................................................................................. 0
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA

ĐỀ TÀI................................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu kĩ năng nói - một biểu hiện năng lực ngôn ngữ của
học sinh trung học phổ thơng ................................................................................. 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển bốn kĩ năng
cơ bản: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trung học phổ thông............................ 10
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài ............................................................................ 12
1.2.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 12
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 25
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 32
Chương 2. BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH QUA
DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TÁC PHẨM TỰ SỰ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ
VĂN 12 ............................................................................................................... 33
2.1. Một số nguyên tắc ........................................................................................ 33
2.1.1. Luyện nói phải ln gắn với các nội dung của bài học trong chương trình33
2.1.2. Kỹ năng nói phải được phát triển đồng thời với các kỹ năng ngôn ngữ
khác ...................................................................................................................... 34
2.1.3. Tránh tình trạng để ngơn ngữ dạng nói xâm nhập vào bài viết ................. 36
2.2. Một số biện pháp .......................................................................................... 37
2.2.1. Sử dụng phương pháp vấn đáp, hướng dẫn, nhận xét, khích lệ để gia tăng
khả năng nói của học sinh. ................................................................................... 37
2.2.2. Chú ý phát triển câu hỏi, ưu tiên loại câu hỏi gợi phát hiện ...................... 40


2.2.3. Yêu cầu học sinh nhận xét ý kiến phát biểu của bạn bè ............................ 42
2.2.4. Tạo tình huống có vấn đề để học sinh tự do bộc lộ chủ kiến khi nói ........ 43
2.2.5. Chia nhóm, yêu cầu đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm ......... 47
2.2.6. Áp dụng phương pháp trải nghiệm nhằm tạo tình huống cho học sinh nói52
2.2.7. Quan tâm đúng mức việc uốn nắn về ngữ âm, từ ngữ, cách diễn đạt của
học sinh................................................................................................................. 61

Tiểu kết chương 2................................................................................................ 62
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................................ 63
3.1. Mục đích, yêu cầu của thực nghiệm............................................................. 63
3.1.1. Mục đích thực nghiệm................................................................................ 63
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm.................................................................................. 63
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian và quy trình thực nghiệm .......................... 63
3.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ............................................................. 63
3.2.2. Thời gian thực nghiệm ............................................................................... 64
3.2.3. Quy trình thực nghiệm ............................................................................... 64
3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm ....................................................................... 64
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ..................................................................... 84
3.4.1. Tiêu chuẩn đánh giá ................................................................................... 84
3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm về phía giáo viên ....................................... 85
3.4.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm về phía học sinh ........................................ 85
3.4.4. Đánh giá chung........................................................................................... 86
3.5. Kết luận thực nghiệm .................................................................................... 87
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 87
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 90
PHỤ LỤC 1 ......................................................................................................... 99


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Một trong những vấn đề trọng tâm của đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông là tập trung cải tiến phương pháp dạy học, thực hiện giáo dục dựa vào
hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo
viên hướng đến phát triển năng lực cho học sinh. Khoản 2, Điều 28 của Luật
Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng môn

học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn”
1.2. Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm
giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học
các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong
những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là
năng lực nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
Hình thành và phát triển toàn diện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt là một
mục tiêu quan trọng trong dạy học Ngữ văn hiện nay. Điều đó đã được cụ thể
hóa trong tất cả các chương trình dạy học Văn - Tiếng Việt từ bậc tiểu học đến
trung học phổ thông do bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì
nói, viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần
được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Học sinh phải tự mình bộc lộ sự
hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời (ngôn bản).Muốn người nghe hiểu
cho được thì người nói phải nói phải nói cho mạch lạc, logic, phải đảm bảo các
quy tắc hội thoại, phải chú ý các cử chỉ, nét mặt, âm lượng... Vì thế, rèn luyện
kỹ năng nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Rèn luyện kỹ năng
nói tốt sẽ giúp người học có một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.

1


1.3. Trong thực tiễn giảng dạy ở trường, đa số học sinh chưa có kỹ năng
nói trước tập thể, rất ngại nói, khơng tự tin nói trước đơng người. Hơn nữa với
thời gian của một tiết học, không tạo điều kiện cho học sinh có nhiều cơ hội nói.
Vì vậy, trong một giờ học, chỉ những em học lực khá giỏi, mạnh dạn mới dám
nói, cịn những em học sinh học lực trung bình, yếu lại thụ động, thiếu tự
tin, lười nói. Đa số giáo viên trong giờ dạy chỉ chú trọng khai thác trọng tâm

kiến thức của bài học, bỏ quên bước rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Một thực tế khác, khi tham gia nói trong các tiết học, lời nói của học
sinh khơng tự nhiên, học sinh thường nói lủng củng, ngập ngừng, khơng rõ ràng,
có nhiều em có dự kiến trong đầu nhưng khơng diễn đạt được rõ thành câu có nghĩa.
Trong khi nói, có em còn sử dụng từ địa phương, điều này ảnh hưởng đến
hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này. Trong các giờ
học Ngữ văn là các em nói như đọc, khơng kết hợp được các yếu tố phi ngôn
ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng,… làm cho quá trình nói của các em thiếu tự
tin, thiếu tư thế, tác phong phù hợp.
1.4. Ngữ văn là mơn học đóng vai trị quan trọng trong việc phát triển
năng lực cho học sinhvớimục tiêu dạy học là hình thành những con người có ý
thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện,
mỹ, và đặc biệt là khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện
nay, đặc biệt là năng lực giao tiếp Để đạt được những mục tiêu trên, người giáo
viên cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các biện pháp nhằm rèn cho học sinh
các kỹ năng nghe, nói đọc, viết.
Bên cạnh các giờ Tiếng Việt - phân mơn có nhiều ưu thế trong rèn luyện
kĩ năng nói, thì các giờ đọc hiểu Ngữ văn cũng góp phần rèn luyện kĩ năng nói
cho học sinh. Đặc biệt là ở các giờ đọc hiểu văn bản tự sự. Ở chương trình Ngữ
văn 12, những người biên soạn chương trình đã lựa chọn khá nhiều văn bản tự
sự tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật. Qua các giờ dạy đọc hiểu các tác phẩm
tự sự, từ việc khám phá nội dung văn bản, giá trị nghệ thuật... Học sinh cịn có

2


thể được rèn luyện kĩ năng nói để từ đó phát triển năng lực cho học sinh theo
mục tiêu của chương trình.
Hiện nay, việc rèn luyện và kiểm tra đánh giá kĩ năng nghe và nói của
HS cấp THPT, đặc biệt là ở các trường THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn

chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra do chương trình, SGK và GV chưa coi trọng
kĩ năng này. Trên thực tế, nghe và nói là những kĩ năng mà HS phải sử dụng
nhiều, nếu không được rèn luyện, năng lực giao tiếp của các em sẽ bị hạn chế.
Việc kiểm tra đánh giá kĩ năng nghe và nói của HS nên được tiến hành thường
xuyên giúp người học tự tin hơn trong giao tiếp và đạt được hiệu quả cao hơn
trong giao tiếp trực tiếp.
Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Rèn luyện kĩ năng nói cho
học sinh qua dạy đọc hiểu các văn bản tự sự trong chương trình ngữ văn 12
để nghiên cứu, triển khai trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ. Chọn đề tài này,
người viết muốn góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực của HS, hướng đến mục tiêu đào tạo những công dân năng động,
sáng tạo, tự tin, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hướng tới mục đích nâng cao khả năng nói cho học sinh, góp phần
phát triển một số năng lực chung và năng lực chuyên môn cho các em qua học
tập môn Ngữ văn.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là vấn đề phát triển khả năng nói
cho học sinh qua dạy đọc hiểu các văn bản tự sự trong chương trình Ngữ văn 12
hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kĩ năng nói
cho học sinh THPT đáp ứng mục tiêu dạy học phát triển năng lực cho người học.

3


- Đề xuất các biện pháp rèn luyện để nâng cao khả năng nói cho học sinh
qua dạy đọc hiểu một số văn bản tự sự trongg chương trình Ngữ văn 12.

- Thiết kế giáo án, dạy thử nghiệm một số bài trong phạm vi đề tài đã xác
định nhằm kiểm chứng tính khoa học, tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
4. Phạm vi khảo sát
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát thực tiễn dạy học
Ngữ văn gắn với yêu cầu phát triển kỹ năng nói cho học sinh ở một số lớp 12
của các trường THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Việc thực
nghiệm sẽ được tiến hành ở trường THPT Nam Đàn 1 – nơi chúng tôi công tác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng phối hợp nhiều phương pháp thuộc hai nhóm nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu
thực tiễn:
- Dùng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ
thống hố lý thuyết để tổng thuật, đánh giá những cơng trình nghiên cứu đã có
liên quan đến đề tài.
- Dùng các phương pháp quan sát và điều tra để nắm bắt những dữ liệu
cần thiết về hoạt động dạy học để phát triển kĩ năng nói cho học sinh theo định
hướng phát triển năng lực.
- Dùng phương pháp thực nghiệm để thẩm định tính khoa học, tính khả thi
của hệ thống phương pháp, biện pháp được đề xuất trong luận văn về vấn đề ra
đề dạy học để phát triển vốn từ, đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực Ngữ văn của học
sinh THPT.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn có ba chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở khoa học của đề tài.

4


Chương 2: Biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua dạy đọc hiểu

các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn 12.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

5


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu kĩ năng nói - một biểu hiện năng lực ngôn
ngữ của học sinh trung học phổ thông
Những năm 80 thế kỷ trước, ở Liên Xô cũ và CHDC Đức, khi xác định
mục tiêu của dạy tiếng mẹ đẻ, các nhà lí luận dạy tiếng đã thống nhất rằng:
“Phát triển hoạt động ngôn ngữ là nhiệm vụ trung tâm của dạy tiếng ở trường
phổ thông. Ngôn ngữ chỉ có sự sống trong quá trình hoạt động của nó, trong
hành động, chỉ trong lời nói, ngơn ngữ mới có ý nghĩa thực hành, chỉ trong lời
nói, ngơn ngữ mới thể hiện những khả năng tiềm tàng” [22]
Dạy ngơn ngữ theo quan điểm giao tiếp có thể được hiểu là coi trọng việc
học giao tiếp thông qua những tương tác bằng ngôn ngữ, đưa ngôn ngữ vào tình
huống học tập, tạo cơ hội cho người học không những tập trung vào ngơn ngữ
mà cịn vào q trình học tập, đề cao kinh nghiệm bản thân của người học và coi
nó là một yếu tố quan trọng trong quá trình học tập, nỗ lực gắn việc học trên lớp
với sử dụng ngơn ngữ tích cực ngoài lớp học. Chính đó là một phương pháp tiếp
cận ngơn ngữ tự nhiên.

Hướng cải tiến mới và khuynh hướng có ý nghĩa nhất

trong những năm gần đây và cho thế kỷ tiếp theo được các nhà ngôn ngữ học
ứng dụng nhấn mạnh là dạy học ngôn ngữ phải gắn với giao tiếp vì giao tiếp là
chức năng trọng yếu của ngôn ngữ, vấn đề cấu trúc, cú pháp, kiến thức về từ

vựng được đưa xuống hàng thứ hai. Quan điểm này xem giao tiếp như một định
hướng, một nguyên tắc dạy học hay là một phương pháp dạy học nhưng có
chung một mục đích: Làm cho người học sử dụng thành thành thạo ngôn ngữ.
Dạy ngôn ngữ không chỉ trau dồi cho người học năng lực ngôn ngữ mà quan
trọng hơn là giúp họ có được năng lực giao tiếp.

6


Khái niệm năng lực giao tiếp (trước đây gọi là năng lực hoạt động ngôn ngữ)
được Dell Hathaway Hymes (một nhà ngôn ngữ học, nhà xã hội học nước Mỹ)
đưa ra và làm sáng tỏ. Ông cho rằng: “năng lực giao tiếp là năng lực biết khi nào
nên nói, khi nào khơng nói điều gì, nói với ai, nói ở đâu, nói theo cách nào…. và
cách hiểu này nhanh chóng được chấp nhận. Như vậy, năng lực ngôn ngữ chỉ là
một phần của năng lực giao tiếp hay nói cách khác, các kỹ năng ngôn ngữ chỉ là
những bộ phận của năng lực giao tiếp”.[63].
Xét về mặt lịch sử, tình hình nghiên cứu về ngơn ngữ nói có sự chuyển
biến tích cực từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, một sỗ nhà nghiên cứu ngôn
ngữ học đã đề xuất và đạt được sự nhất trí rằng lời nói mới là dạng hoạt động
chính của ngơn ngữ. Tuy nhiên trên thực tế ngơn ngữ nói được xếp ở vị trí thứ
yếu do bị quy vào bản chất khơng cố định, khơng có bản chất và khơng có cấu
trúc. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ, dù nói hay viết, ta không chỉ cần
xác định nội dung giao tiếp, tức nói viết cái gì, mà cịn quan tâm đến việc nói
như thế nào, viết như thế nào? Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đang nói
đến năng lực sử dụng ngôn ngữ.
Về vấn đề sử dụng ngôn ngữ của học sinh từ lâu đã được đặt ra trong
nghiên cứu và trong dạy học
Phát triển KNN cho HS cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Các chương trình học trên thế giới, đã rất chú trọng tới việc phát
triển KNN cho HS. Đã có khá nhiều tài liệu xác định rất rõ vai trị quan trọng

của KNN; từ đó xây dựng mục tiêu của việc học KNN là để HS có thể giao tiếp
tốt trong cuộc sống cá nhân, nơi học tập hay nơi làm việc tương lai, trong tương
tác xã hội
Đây là những kĩ năng cần thiết không chỉ để HS giao tiếp tốt mà còn giúp
họ tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân. Vì vậy,
trường học phải chú ý dạy HS cách tư duy phản biện, cách giao tiếp, dạy họ biết
nói như thế nào, nói điều gì, …”

7


Trong mục tiêu dạy học trên thế giới, người ta đánh giá rất cao tầm quan
trọng của kĩ năng nói và xem nó là một biểu hiện cụ thể năng lực ngơn ngữ “Rõ
ràng là có một sự tương quan giữa vốn từ, năng lực ngôn ngữ, cũng như sự thể
hiện thành tích học tập của học sinh. “Kĩ năng nói là một phần của năng lực
ngơn ngữ” [30] bao gồm năng lực nói (gồm: xác định rõ mục đích của bài nói,
chọn và giới hạn chủ đề theo mục đích và khán giả, hồn thành các mục đích
của bài nói); năng lực nghe (gồm: nhận ra các ý tưởng chính, xác định các chi
tiết hỗ trợ, tổng hợp đánh giá bằng suy luận logic). Bên cạnh những nội dung tri
thức cần thiết về năng lực nghe và nói, cịn là những kĩ năng giao tiếp cơ bản
như: kĩ năng giao tiếp nhóm, kĩ năng giao tiếp cá nhân, kĩ năng nói trước tập thể.
Có thể thấy, đây là những nội dung phát triển KNN vô cùng thiết thực đối với
HS giúp họ đạt được mục tiêu giao tiếp hiệu quả. KNN bằng một quy trình cụ
thể gồm ba bước: chuẩn bị (tìm hiểu: mục tiêu, người nghe, tình huống, phương
tiện...); thực hiện (thuyết trình, trao đổi, xử lí các câu hỏi) rút kinh nghiệm sau
khi nói (những điểm tốt, điểm chưa tốt, nguyên nhân, cách khắc phục ở lần
sau...). Do xác định đúng tầm quan trọng của việc phát triển KNN và cách xây
dựng mục tiêu rõ ràng, cụ thể nên các nội dung tri thức hướng tới phát triển kĩ
năng này cho HS rất tường minh, gần gũi và thiết thực. Có tác giả dựa vào mục
đích giao tiếp, để phân xuất thành: kĩ năng lắng nghe, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ

năng thuyết phục, kĩ năng thuyết trình Có tác giả dựa vào quy trình nói để xác
định các bước: chuẩn bị, thực hiện, rút kinh nghiệm. Có tác giả căn cứ vào mối
quan hệ biện chứng giữa kĩ năng nghe và kĩ năng nói để thiết lập, đi sâu vào
những yêu cầu cụ thể của từng kĩ năng
Ở Việt Nam, chương trình dạy học mang tính chất “hàn lâm, kinh viện”
còn được gọi là giáo dục “định hướng nội dung” đã kéo dài và tồn tại trong
nhiều thập kỉ qua. Đặc điểm cơ bản của giáo dục định hướng nội dung là chú
trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy
định trong chương trình dạy học.

8


Theo GS. Đinh Quang Báo [4], năng lực cần hình thành và phát triển ở
HS phổ thơng gồm có những năng lực chung và những năng lực chuyên biệt.
Các năng lực chung gồm nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân (năng
lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực tự quản lí);
Nhóm năng lực về quan hệ xã hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác) và
nhóm năng lực cơng cụ (năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thơng,
năng lực ngơn ngữ và năng lực tính tốn). Như vậy, năng lực ngơn ngữ thuộc
nhóm năng lực cơng cụ. Năng lực ngôn ngữ là năng lực sử dụng tiếng Việt hiệu
quả trong giao tiếp ở mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội, giao tiếp trong nhà
trường, trong gia đình, giao tiếp hành chính, khoa học, văn chương nghệ
thuật….Với quan điểm này, năng lực ngôn ngữ và năng lực giao tiếp có thể coi
là hai nhóm năng lực khác nhau. Song giữa hai năng lực này có mối quan hệ
chặt chẽ. Một mặt, ngôn ngữ là nhương tiện của hoạt động giao tiếp và là
phương tiện quan trọng nhất. Hiệu quả giao tiếp phụ thuộc vào năng lực ngôn
ngữ của đối tượng giao tiếp. Vì thế muốn hình thành và phát triển năng lực giao
tiếp phải hình thành và phát triển năng lực ngôn ngữ. Mặt khác, việc hình thành
và phát triển năng lực ngôn ngữ không thể thực hiện được nếu không đặt ngôn

ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp. Trong cuộc sống, nếu nắm chắc những
kiến thức ngữ pháp và có vốn từ vựng phong phú thì chúng ta sẽ diễn đạt được
tất cả vấn đề trong mọi lĩnh vực đời sống phù hợp với từng ngữ cảnh, mang lại
hiệu quả cao trong giao tiếp. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta đang nghiên
cứu, bàn luận về vấn đề kĩ năng nói cho học sinh.
Trong tình hình, mục tiêu dạy học mới, KNN đã được đề cập đến trên
nhiều diễn đàn trao đổi về đổi mới phương pháp dạy và học. Tuy nhiên hầu hết
đang dừng lại ở các sang kiến kinh nghiệm, các bài viết đăng kỉ yếu. Chưa có
các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề với chức năng đi sâu vào khái
niệm, đề xuất các giải pháp cho việc rèn luyện KNN mà chủ yếu đang dừng lại ở
việc đề cập đến kĩ năng nói trong 4 kĩ năng biểu hiện của năng lực ngôn ngữ:

9


nghe, nói, đọc, viết. Thậm chí, trên tổng thể chung, các kĩ năng đọc và viết được
chú ý hơn kĩ năng nghe nói.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển
bốn kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trung học phổ thơng
Vấn đề phát triển phẩm chất, năng lực của HS trong dạy học nói chung và
trong dạy học mơn Ngữ văn nói riêng đã được đề cập đến nhiều trong cơng cuộc
đổi mới giáo dục trong những năm gần đây.
Nhiều công trình, bài viết chuyên sâu nghiên cứu về phát triển năng lực
ngôn ngữ cho học sinh qua dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông.
Tác giả Đỗ Việt Hùng (1999) đã đề xuất việc “Rèn luyện năng lực ngôn
ngữ cho học sinh qua việc giảng dạy môn Tiếng Việt” Tài liệu bồi dưỡng giáo
viên THPT chu kì 1997-2000, H.1997 [33] tác giả Lê Kim Anh (2013) bàn về
việc “Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong dạy học mơn Ngữ văn”,Tạp chí
Khoa học Giáo dục, số 96, Tháng 09/2013 [2]; tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2014)
nghiên cứu “Cách thiết kế chuẩn đánh giá năng lực đọc hiểu trong mơn Ngữ văn

sau năm 2015”,Tạp chí Khoa học giáo dục, số 102, tháng 3/2014 [24]; tác giả
Trần Thanh Bình (2016) bàn về “Tích hợp trong sách giáo khoa Ngữ văn theo
định hướng phát triển năng lực học sinh”, Tạp chí Giáo dục, số 383 (năm 2016)
[3] tác giả Trần Thị Hiền Lương (2015), đề xuất việc “Thiết kế chuẩn học tập
môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực”,Tạp chí Khoa học Giáo dục
số 114, tháng 3/2015 [43]; tác giả Nguyễn Thị Hiên (2015) nghiên cứu việc
“Thực hiện tích hợp nội mơn, liên mơn và tích hợp kiến thức đời sống trong dạy
học tiếng Việt ở trường trung học phổ thông”,T/c Giáo dục, số 366, tháng
9/2015 [26], tác giả Đỗ Ngọc Thống (2003) nghiên cứu về “Chương trình Ngữ
văn Trung học phổ thơng và việc hình thành năng lực văn học cho học sinh”
,T/c Giáo dục, số 66/2003 [65] và “Phương pháp dạy học Ngữ văn theo yêu cầu
phát triển năng lực”, Tạp chí Khoa học Giáo dục số 3, tháng 3/2018 [69]

10


Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến việc dạy học môn Ngữ
văn, dạy học tiếng Việt hay phát triển năng lực ngôn ngữ trong dạy học, đều
bám sát mục tiêu của việc dạy học và giáo dục trong nhà trường hiện nay.
Chương trình GDPT môn Ngữ văn, ngày 19/1/2018 của Bộ GDĐT đã xác
định mục tiêu: Chương trình môn Ngữ văn lấy các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết,
nói và nghe) làm trục chính xun suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của
chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán
liên tục trong tất cả các cấp/lớp.
Kĩ năng Đọc được hiểu theo nghĩa rộng với nhiều yêu cầu và mức độ
khác nhau, trong đó đọc hiểu (bao gồm cả đọc thẩm mĩ, giao tiếp văn học, cảm
thụ và thưởng thức) văn bản văn học được chú trọng. Kĩ năng Viết yêu cầu học
sinh biết viết chữ, viết câu, viết đoạn và tạo ra được các kiểu loại văn bản, trước
hết là các kiểu loại văn bản thơng dụng, sau đó là một số kiểu loại văn bản phức
tạp hơn. Kĩ năng Nói và nghe luyện tập cho học sinh trình bày, nói và nghe tự

tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến nói hay dựa vào nội dung của đọc và viết. Các
kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về văn học và tiếng Việt được tích hợp vào
hoạt động dạy đọc, viết, nói và nghe. Tất cả các phẩm chất chủ yếu và năng lực
chung nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đều được quan tâm
trong dạy học và đánh giá thơng qua các hoạt động đọc, viết, nói và nghe.
Chương trình cũng nhấn mạnh: “Tất cả các yêu cầu cần đạt về phẩm chất,
năng lực chung và năng lực thẩm mĩ nêu trên đều được hình thành và phát triển
thông qua các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe”[9]
Cụ thể mục tiêu đặt ở cấp THPT là:
+ Kĩ năng đọc được nâng cao hơn so với trung học cơ sở sau khi học sinh
đã được trang bị có hệ thống và đầy đủ hơn những kiến thức căn bản về văn học và
tiếng Việt.
+ Kĩ năng viết được phát triển trên cơ sở tập trung hơn vào văn bản nghị
luận và văn bản thơng tin có đề tài tương đối phức tạp nhưng vẫn phù hợp với

11


những vấn đề mà học sinh trung học phổ thông thường gặp trong học tập và đời
sống Biết cách tạo lập và trình bày các văn bản điện tử với yêu cầu cao hơn cấp
trung học cơ sở về nội dung và hình thức thể hiện; có hiểu biết về vấn đề quyền
sở hữu trí tuệ và chống đạo văn.
Qua bài viết, học sinh thể hiện được những trải nghiệm, cảm xúc, ý tưởng
và thái độ của cá nhân đối với những vấn đề được đặt ra trong văn bản; từng
bước xây dựng cho mình một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá tính.
+ Về kĩ năng nói và nghe, chương trình yêu cầu học sinh nói và nghe linh
hoạt; biết tham gia tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược
nhau. Qua thực hành giao tiếp, học sinh nắm được phương pháp, quy trình tiến
hành một cuộc tranh luận; nắm bắt và đánh giá đư ợc quan điểm trái ngược với
mình để tranh luận một cách hiệu quả; có thái độ cầu thị và văn hố tranh luận

phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung cũng như
hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có nhu cầu, hứng thú thể hiện chủ kiến,
cá tính trong tranh luận.
So với cấp trung học cơ sở, yêu cầu cần đạt về các kĩ năng đọc, viết, nói
và nghe ở trung học phổ thông được phát triển rõ rệt (theo hướng vừa nâng cao,
vừa phân hoá). Năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mĩ của học sinh được phát
triển tập trung hơn trên cơ sở gia tăng mức độ phức tạp của hoạt động luyện tập,
thực hành đồng thời với việc cung cấp thêm những kiến thức phổ thông, thiết
yếu về đời sống, văn hoá, lịch sử và văn học.
Như vậy việc dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển bốn kĩ năng cơ bản:
nghe, nói, đọc, viết cho học sinh trung học phổ thông đã thật sự là một mục tiêu
chính, quan trọng được hướng tới của chương trình giáo dục mới.
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a) Khái niệm “nói” và “kĩ năng nói”

12


Nói là một hình thức giao tiếp tự nhiên của con người.
Trong thực tế chúng ta bắt gặp các hình thức giao tiếp giữa người này với
người khác đều thực hiện bằng ngơn ngữ nói. Theo các tác giả Rebecca B.
Rubin và Alizbeth Jones “nói là một quá trình truyền tải ý tưởng và thông tin
bằng lời của con người trong một loạt các tình huống [22]. Tuy nhiên nói khơng
chỉ dừng lại ở đấy. Nói ở đây được hiểu ở phạm trù cao hơn. Nói là một hoạt
động giao tiếp có mục đích, theo một chủ đề. Như vậy nói được hiểu là trình bày
một vấn đề nhằm thuyết phục người khác nghe theo ý tưởng, suy nghĩ, đề xuất
của mình nhằm đạt được mục đích giao tiếp nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Kĩ năng nói là hành động tạo ra các thông điệp với sự đa dạng về giọng

điệu, đúng các chuẩn mực về phát âm và sủ dụng phù hợp các tín hiệu khơng lời
để thực hiện các giao tiếp một cách có hiệu quả. Tác giả Đinh Thanh Huệ (Đinh
Thanh Huệ (2004), “Phát triển kĩ năng nói tâm điểm của việc dạy học ngoại
ngữ”, (Tạp chí Giáo dục, số 91) cho rằng, KNN là khả năng sử dụng âm thanh
ngôn ngữ của con người để truyền tải đạt hiệu quả một nội dung, một thông điệp
đến người nghe có sử dụng cùng một tín hiệu âm thanh - ngơn ngữ trong hoạt
động giao tiếp. Cịn tác giả NguyễnTrí (Nguyễn Trí (2001) “Dạy các kĩ năng
nghe - nói cho học sinh Tiểu học” (Tạp chí Giáo dục, số 10, tr. 24 - 26) thì cho
rằng nói là một hoạt động phát tin nhờ bộ máy phát âm. Người nói phải xác định
được nội dung lời nói, lựa chọn ngơn ngữ để diễn tả được nội dung, sau đó sẽ sử
dụng bộ máy phát âm để truyền đi chuỗi lời nói đó. KNN được đánh giá qua kết
quả đạt được của hoạt động giao tiếp bao gồm cả sự hiểu biết, trình độ văn hóa
của người nói bộc lộ qua lời nói và các yếu tố phi ngơn ngữ.
Từ quan niệm của các tác giả, ta nhận thấy có hai cách tiếp cận khái
niệm KNN. Cách thứ nhất xem KNN là hành động sử dụng ngôn ngữ và những
yếu tố ngoài ngôn ngữ của con người để đạt được hiệu quả trong quá trình giao
tiếp. Cách thứ hai xem KNN là khả năng truyền tín hiệu bằng lời nói hoặc khơng
phải lời nói để chuyển tải một nội dung đến người nghe. Như vậy KNN nếu hiểu

13


theo cách thứ hai sẽ dễ lẫn với khái niệm năng lực “khả năng hành động hiệu
quả dựa trên nhiều nguồn lực: kiến thức, kĩ năng, thái độ và sự hứng thú” [66]
trong khi đó theo cách hiểu chung từ trước tới nay kĩ năng chỉ được xem như là
một thành tố cơ bản trong cấu trúc của năng lực.
Tiến sĩ Đỗ Thu Hà cho rằng: “Kĩ năng nói là hình thức biểu hiện của năng
lực giao tiếp bằng lời, dạng hành động được thực hiện một cách tích cực, tự giác
dựa trên sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tri thức về ngơn ngữ, những hiểu biết về
văn hóa xã hội... và những điều kiện sinh học, tâm lý của một cá thể để đạt được

mục đích giao tiếp đặt ra” [14, tr. 451]
Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn [1, tr. 9)] đã đề cập tới 5
kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh qua các cấp học từ bậc tiểu học đến hết bậc
THPT như: sử dụng nghi thức lời nói, đặt và trả lời câu hỏi; thuật việc kể
chuyện; trao đổi, thảo luận; phát biểu thuyết trình. Có thể xem đây là các kĩ năng
bộ phận các mức độ khác nhau của KNN mà tùy theo đối tượng học sinh cụ thể
ở từng khối lớp mà lựa chọn để chú trọng rèn luyện ở từng kĩ năng bộ phận và
các cấp độ khác nhau
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm nghiên cứu về khái niệm kĩ năng
nói, chúng tơi cho rằng: Kỹ năng nói (KNN) là một trong bốn kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ trong giao tiếp là nghe, nói, đọc, viết. Đó là khả năng biểu đạt bằng lời
nói, là một loại năng lực được thể hiện qua ngôn ngữ âm thanh ở dạng nói để
truyền đạt thơng tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính xác, sinh động,
có sức thuyết phục. Kỹ năng nói được quyết định bởi 3 yếu tố: cách phát âm,
khả năng diễn đạt và việc vận dụng kết hợp các yếu tố phi ngôn ngữ Cách phát
âm có các đặc trưng về cao độ (giọng cao, thấp), trường độ (dài, ngắn) và cường
độ (mạnh, yếu). Khả năng diễn đạt liên quan tới khả năng lựa chọn từ ngữ, cách
kiến tạo câu, khả năng liên kết các câu trong chuỗi lời nói... Yếu tố phi ngơn ngữ
bao gồm điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt...
b) Yêu cầu về kỹ năng nói đối với học sinh trung học phổ thông hiện nay

14


Hiện nay, đa số học sinh Việt Nam còn hạn chế về KNN với những biểu
hiện cụ thể như: chưa biết chọn vấn đề để nói, thiếu tự tin trong khi nói, cách
dùng từ, tạo câu chưa chuẩn, cách nói còn đơn điệu, thiếu sự nhuần nhuyễn,
trình bày còn lộn xộn, lập luận thiếu sức thuyết phục...
Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do bản thân học sinh chưa có ý
thức rèn luyện, phát triển KNN; gia đình, nhà trường cũng chưa chú trọng tới

vấn đề này; bên cạnh đó là sự chi phối của đặc điểm tâm lí, tính cách, đời sống
văn hóa của người Việt Nam...
Cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc viết đều có ý nghĩa hết sức quan trọng với
mỗi con người, song KNN đang ngày càng khẳng định vị trí của nó. Bởi trong
thực tế cuộc sống, KNN đóng vai trị như một loại công cụ cần thiết với tất cả
mọi người. Sở hữu KNN tốt, thực hiện giao tiếp hiệu quả sẽ giúp con người có
cơ hội thể hiện ý tưởng của bản thân trong các tình huống giao tiếp bằng lời.
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (dự thảo ngày 19/1/2019) đã
đặt ra những yêu cầu cụ thể về các kĩ năng cần được hình thành và phát triển
theo các cấp học. Theo đó yêu cầu về kĩ năng nói ở từng bậc học có sự phân loại theo
thang bậc:
Ở cấp tiểu học: tập trung vào yêu cầu phát biểu rõ ràng các ý kiến ngắn
trong thảo luận, đối thoại; thuyết minh về sự vật, hoạt động gần gũi; kể chuyện,
thuật việc mạch lạc, có bộc lộ cảm xúc và nhận xét của cá nhân; nghe hiểu ý
người nói, ghi chép và tóm tắt được ý kiến đã nghe để bước đầu có phản hồi tích
cực bằng lời hoặc bằng việc làm, tạo tiền đề để tự ghi bài học ở cấp học tiếp
theo. Ở trung học cơ sở: yêu cầu nói cụ thể là: trình bày dễ hiểu, mạch lạc các ý
tưởng và cảm xúc; có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người; sử dụng ngơn
ngữ, cử chỉ điệu bộ thích hợp khi nói. Học sinh phải có khả năng kể lại một câu
chuyện đã đọc (đã nghe); biết cách trình bày, chia sẻ những trải nghiệm, cách
nhìn, cảm xúc, ý tưởng và thái độ của mình đối với những vấn đề được nói đến;
thảo luận ý kiến về một vấn đề, trước hết là những vấn đề được gợi lên từ các

15


văn bản đã đọc (đã nghe); thuyết minh về một đối tượng hay quy trình. Học sinh
biết cách nói thích hợp với mục đích, đối tượng và ngữ cảnh giao tiếp; biết ứng
dụng công nghệ thông tin và hình ảnh, kí hiệu, biểu đồ,... biết cách phản hồi
những gì đã nghe một cách hiệu quả.

Cịn trung học phổ thơng, rõ ràng yêu cầu về kĩ năng nói được đặt ở mức
cao hơn: học sinh biết nói một cách linh hoạt; biết tham gia tranh luận về những
vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau. Qua thực hành giao tiếp, học sinh
nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận; nắm bắt và
đánh giá được quan điểm trái ngược với mình để tranh luận một cách hiệu quả;
có thái độ cầu thị và văn hố tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình
và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có
nhu cầu, hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận.
So với cấp trung học cơ sở, yêu cầu cần đạt về các kĩ năng đọc, viết, nói
và nghe ở trung học phổ thơng được phát triển rõ rệt (theo hướng vừa nâng cao,
vừa phân hoá). Năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mĩ của học sinh được phát
triển tập trung hơn trên cơ sở gia tăng mức độ phức tạp của hoạt động luyện tập,
thực hành đồng thời với việc cung cấp thêm những kiến thức phổ thông, thiết
yếu về đời sống, văn hố, lịch sử và văn học.
Nói năng tốt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với HS trung học phổ
thông không chỉ trong thời gian học tập ở trường mà còn trong suốt thời gian
sống và làm việc sau này. Những tiêu chí cần đạt đối với kĩ năng nói hướng hai
phương diện: nội dung nói - căn cứ vào việc thực hiện mục đích nói như kể
chuyện, giới thiệu, trình bày, lý giải, thuyết phục... và cách nói - căn cứ vào việc
thực hiện các yêu cầu sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ, âm lượng, nhịp điệu,
giọng nói, cách phát âm...
Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc khó, nhưng dù khó thế
nào cũng phải thực hiện. Có như vậy mới giúp học sinh phát triển toàn diện khả
năng ngôn ngữ.

16


c) Khái niệm “văn bản tự sự” và “đọc hiểu văn bản tự sự”
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: ‘ Tự sự là một phương thức tái hiện đời

sống, bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để
phân loại tác phẩm văn học" Theo đó thì tác phẩm tự sự tái hiện đời sống trong
toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức
tranh đời sống với sự kiện, biến cố, không gian, thời gian... Trong tác phẩm tự
sự, thái độ của nhà văn thường biểu hiện rất kín đáo. Tác phẩm tự sự là một
chỉnh thể nghệ thuật bao gồm các yếu tố: cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ
tự sự, ngôi kể - điểm nhìn trần thuật, giọng kể… Đây chính là những yếu tố khu
biệt phương thức tự sự với trữ tình, kịch. Vì vậy chú ý các yếu tố này là ưu tiên
hàng đầu trong quá trình tiếp nhận tác phẩm tự sự.
Trong chương trình Ngữ văn bậc THPT hiện nay, đọc - hiểu được xem là
một khâu đột phá trong là nội dung và phương pháp dạy văn. Khái niệm đọc hiểu có nội hàm khoa học phong phú, gắn với lí luận dạy học văn, lí thuyết tiếp
nhận tác phẩm, lí thuyết giao tiếp, thi pháp học… Nó được hiểu như là một
phương thức đọc văn nhằm mục đích cảm thụ và hiểu biết chính xác, cặn kẽ văn
bản, khám phá và chiếm lĩnh những giá trị văn bản văn
Theo giáo sư Trần Đình Sử, đọc - hiểu có bốn cấp độ là: đọc thơng văn
bản; đọc kĩ văn bản; đọc sâu văn bản; đọc sáng tạo. Trên thực tế, nhiều học sinh
THPT hiện nay chưa làm được điều này. Vì vậy ta có thể hiểu đơn giản dạy đọc
hiểu VB trong môn Ngữ văn là tổ chức các hoạt động hướng dẫn HS sử dụng
các kỹ năng thao tác để đọc chính xác và đọc có tính đánh giá về các yếu tố hình
thức, nội dung và ý nghĩa của VB. Từ đó ứng dụng kiến thức và kỹ năng đã đọc
vào thực tiễn đời sống.
Đọc hiểu VBTS là một biểu hiện của NL đọc hiểu VB nói chung. Dạy đọc
hiểu VBTS phải bám vào nhữngđặc trưng thể loại được cụ thể hóa thành những
kiến thức về loại VBTS như đặc điểm thi pháp của các yếu tố trong cấu trúc tác
phẩm tự sự như: nhân vật tự sự; cốt truyện, tình huống, chi tiết; kết cấu; hình

17


tượng người kể chuyện; điểm nhìn trần thuật; lời kể; đối thoại, độc thoại, độc

thoại nội tâm. Những hiểu biết trên là cơ sở để học sinh có thể đọc - hiểu tác
phẩm tự sự dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đọc - hiểu trên các dấu hiệu hình
thức biểu đạt của VBTS như: bố cục, cốt truyện, các nhân vật mang chủ đề được
khắc hoạ bằng các loại chi tiết miêu tả làm nổi rõ đặc điểm số phận và tính cách
nhân vật. Hoạt động đọc - hiểu VBTS cần tập trung vào yếu tố nhân vật và cách
thức tạo ra nhân vật đó như biểu hiện sáng tạo độc đáo của nhà văn. Từ đó hiểu
chủ đề giao tiếp của văn bản (nguời kể - tác giả) muốn bạn đọc cùng nhận thức
điều quan trọng nào về hiện thực xã hội, số phận con người từ câu chuyện được kể.
Các tác phẩm văn học luôn thể hiện trong đó dấu vết cá tính sáng tạo của
nhà văn trên cả cách thức thể hiện (hình thức) và mục đích giao tiếp (chủ đề).
Văn học là nghệ thuật ngơn từ nhằm thể hiện sự nhận thức và khái quát cuộc
sống bằng hình tượng. Do vậy, hoạt động dạy học văn phải xuất phát từ đặc
trưng và nguyên tắc cấu tạo của hình tượng kết tinh trong tác phẩm nghệ thuật
ngơn từ.
Tiếp nhận tác phẩm nói chung và tác phẩm tự sự nói riêng là một hoạt
động có tính quy luật. Trước hết, người đọc phải nắm bắt cốt truyện; cảm nhận
các sự kiện, tình tiết, chi tiết, tính cách, quan hệ trong sự toàn vẹn của hình
tượng nghệ thuật. Thứ đến là thâm nhập vào thế giới hình tượng, phát hiện,
khám phá thế giới nghệ thuật như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của
tác giả. Tiếp theo là liên hệ hình tượng với văn cảnh đời sống và kinh nghiệm cá
nhân để thể nghiệm, đánh giá ý nghĩa tác phẩm; đặt tác phẩm vào truyền thống
văn học để xác định vị trí, ảnh hưởng của nó. Sau cùng là sự tác động, ảnh
hưởng của nó đối với tư tưởng, tình cảm, hiểu biết và nhân cách người đọc.
Dạy đọc - hiểu theo thi pháp thể loại là một yêu cầu của công cuộc
đổi mới phương pháp dạy học văn. Tuy nhiên, trong quá trình đọc hiểu VBTS,
ngoài việc nắm vững đặc tưng thi pháp thể loại là cái chung, khi vận dụng cần

18



chú ý đến những nét riêng làm nên giá trị của mỗi tác phẩm vốn là một cấu trúc
không bao giờ lặp lại của mỗi nghệ sĩ.
Dạy đọc hiểu tích cực VBTS nghĩa là giáo viên đồng hành cùng học sinh
sẽ “tham gia vào một mối quan hệ nhận thức và cảm xúc với bài đọc”. HS đó có
suy nghĩ về bài đọc, cố gắng hiểu và diễn giải nội dung, đánh giá về ngôn ngữ
và phong cách viết văn, cảm nhận về nhân vật, liên tưởng một sự việc từ bài đọc
với cuộc sống của bản thân. GV là người khuyến khích, hướng dẫn, xây dựng và
duy trì mối quan hệ giữa nhận thức và cảm xúc của người học qua đó phát triển
các năng lực khác nhau, bao gồm: đọc, nói, nghe, viết...
1.2.1.2. Một số tiền đề
a) Những địi hỏi về rèn luyện kỹ năng đọc, viết, nói nghe cho học sinh
trong dạy học Ngữ văn hiện nay Chương trình Giáo dục phổ thơng
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể do Bộ GD&ĐT ban hành năm
2017 khẳng định “môn Ngữ văn được xem là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp
12. Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ
bản, thiết yếu về TV và văn học dựa trên ngữ liệu là các kiểu loại văn bản và
phương thức thể hiện đa dạng, nhằm hình thành, phát triển các phẩm chất và
năng lực của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở từng cấp học” [9] Trên cơ
sở các biểu hiện năng lực đã nói ở trên, các năng lực mà bộ môn Ngữ văn hướng
đến, bao gồm: năng lực giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo; năng lực hợp tác;
năng lực tự quản bản thân; năng lực ngôn ngữ; năng lực thẩm mỹ.
Năng lực ngôn ngữ của HS THPT được hiểu gồm ba năng lực chủ yếu sau
đây: năng lực làm chủ ngôn ngữ, năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp; năng
lực sử dụng ngơn ngữ để tạo lập văn bản.
Nói như vậy nghĩa là ta đang bàn đến các việc hình thành và phát triển các
kĩ năng cơ bản của năng lực ngơn ngữ; nghe, nói, đọc, viết. Việc rèn luyện 4 kĩ
năng này ở THPT là rất cần thiết. Có thể xem đó là nhiệm vụ hàng đầu của mơn Ngữ
văn.

19



Chương trình Giáo dục phổ thơng, Chương trình tổng thể đã xác định các
biểu hiện năng lực của HS. Theo đó, năng lực ngơn ngữ ở giai đoạn giáo dục cơ
bản cần đảm bảo được các yêu cầu cụ thể .Ở bậc THPT, Kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết được nâng cao hơn so với trung học cơ sở sau khi học sinh đã được trang bị
có hệ thống và đầy đủ hơn những kiến thức căn bản về văn học và tiếng Việt.
Biết cách đọc và xử lí thơng tin với các văn bản điện tử đa dạng và phức tạp
hơn. Qua đọc hiểu, học sinh biết liên hệ, mở rộng, so sánh văn bản này với văn
bản khác, văn bản với bối cảnh và với những trải nghiệm cá nhân; từ đó có cách
nhìn, cách nghĩ, cách bình luận, đánh giá theo một cảm quan riêng; thấy vai trò
và tác dụng của việc đọc văn bản, nhất là văn bản văn học, đối với bản thân. Biết
cách tạo lập và trình bày các văn bản với yêu cầu cao hơn về nội dung và hình
thức thể hiện, qua bài viết, học sinh thể hiện được những trải nghiệm, cảm xúc,
ý tưởng và thái độ của cá nhân đối với những vấn đề được đặt ra trong văn bản;
từng bước xây dựng cho mình một cách nhìn, cách nghĩ, cách sống mang đậm cá
tính.
“Về kĩ năng nói và nghe, chương trình yêu cầu học sinh nói và nghe linh
hoạt; biết tham gia tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược
nhau. Qua thực hành giao tiếp, học sinh nắm được phương pháp, quy trình tiến
hành một cuộc tranh luận; nắm bắt và đánh giá được quan điểm trái ngược với
mình để tranh luận một cách hiệu quả; có thái độ cầu thị và văn hố tranh luận
phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung cũng như
hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có nhu cầu, hứng thú thể hiện chủ kiến, cá
tính trong tranh luận”.[9, tr 17]
So với cấp trung học cơ sở, yêu cầu cần đạt về các kĩ năng đọc, viết, nói
và nghe ở trung học phổ thông được phát triển rõ rệt (theo hướng vừa nâng cao,
vừa phân hoá). Năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mĩ của học sinh được phát
triển tập trung hơn trên cơ sở gia tăng mức độ phức tạp của hoạt động luyện tập,
thực hành đồng thời với việc cung cấp thêm những kiến thức phổ thông, thiết


20


×