Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học sự vận DỤNG học THUYẾT GIAI cấp và đấu TRANH GIAI cấp của CHỦ NGHĨA mác lê NIN vào THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.4 KB, 39 trang )

1
SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI
CẤP CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH
MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội
dung cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhờ thống nhất được tính cách
mạng và khoa học, lý luận mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã vượt
qua các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đây để trở thành kim chỉ nam
cho phong trào cách mạng của giai cấp vơ sản. Lý luận đó đã có ảnh hưởng
sâu rộng trong phong trào cách mạng từ thế kỷ XIX đến nay, tạo ra những
biến động to lớn trong đời sống chính trị – xã hội trên toàn thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường như sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu,
sự đổi mới của các nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển
đổi của các nước xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường song hành với
sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, làm cho nhiều
người lầm tưởng rằng, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp khơng cịn phù
hợp nữa và tìm cách lảng tránh nó. Thực tế cuộc sống đã chứng minh rằng,
nếu hiểu rõ thực chất của lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp sẽ tránh được
những sai lầm tả khuynh hoặc hữu khuynh, sẽ nhận thức đúng đắn được vai
trò thực sự của các giai cấp trong xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Ở Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các
thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp trở thành một vấn đề nhạy cảm, gây rất nhiều tranh luận. Về mặt lý
luận, chúng ta đã có nhiều chuyển biến trong nhận thức, tư duy lý luận. Tuy
nhiên, trong sự chuyển đổi đó vẫn cịn có những vấn đề cần phải tiếp tục làm
sâu sắc và rõ ràng hơn. Thực chất quan điểm mác xít về giai cấp và đấu tranh
giai cấp cũng cần được nhận thức, liên hệ, vận dụng một cách linh hoạt hơn,
đặc biệt là thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay đã khẳng định kết quả của
công cuộc đổi mới, đã chứng minh rằng: Lý luận giai cấp và đấu tranh giai



2
cấp đã ngày càng được nhận thức và vận dụng đúng đắn và sáng tạo ở Việt
Nam. Những thành tựu quan trọng ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhất
là về kinh tế, đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội, tình hình an ninh chính trị được tăng cường, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội được hình thành rõ nét… điều đó đã chứng tỏ quan điểm
giai cấp của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam còn dài, diễn biến xã hội cịn hết sức phức tạp. Vì
vậy, nghiên cứu một cách sâu sắc lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp gắn
với tổng kết kinh nghiệm cách mạng, học tập kinh nghiệm của phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế, sẽ góp phần phát triển sáng tạo và vận dụng
ngày càng thành công lý luận Mác – Lênin vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vậy thì, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin được hiểu như thế nào? Sự vận dụng lý luận đó vào việc
xem xét, giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện
nay ra sao? Trong phạm vi bài viết này, xin được trình bày những vấn đề đó
trên một số nét cơ bản sau:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh
giai cấp.
1.1. Vấn đề nguồn gốc giai cấp.
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại C.Mác, Ph.Ăng-ghen và
V.I.Lênin đã đưa lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp lên một tầm cao mới.
Trong thư gửi Iơxíp Vâyđơmaye ngày 05 - 03 - 1852, C.Mác đã viết: “Về
phần tơi, thì tơi khơng có cơng lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các giai
cấp trong xã hội hiện đại, cũng khơng có cơng lao là đã phát hiện ra cuộc
đấu tranh giữa các giới và sự đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà
sử học tư sản trước tơi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử cuộc đấu
tranh giai cấp đó, cịn các nhà kinh tế tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu

kinh tế của các giai cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1) Sự


3
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất. 2) Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vơ sản.
3) Bản thân nền chun chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi
giai cấp và tiến tới xã hội khơng có giai cấp”1.
Lý luận mác xít đã khắc phục được những quan điểm duy tâm về giai
cấp trước kia, đưa ra sự luận giải khoa học về những vấn đề cơ bản như nguồn
gốc giai cấp, tiêu chí để phân biệt giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Xuất phát từ những con người cá nhân hiện thực và đứng trên lập
trường duy vật về lịch sử, C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã tìm ra quy luật phát sinh
và phát triển của xã hội có giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp. Nếu các
nhà tư tưởng trước Mác cho rằng: nguồn gốc của xã hội có giai cấp, của chế
độ tư hữu là do tư tưởng tư hữu của con người, thì ngược lại C.Mác chỉ rõ,
chính những tiền đề vật chất do xã hội tạo ra đã làm nảy sinh ra tư tưởng tư
hữu. Bởi vì, như các nhà kinh điển mác xít đã khẳng định: Do sự phát triển
của sản xuất đã đưa đến sự phân công lao động trong xã hội và sự phân công
lao động xã hội lại thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
xuất lao động, đó là nguồn gốc cơ bản để sinh ra chế độ tư hữu và sự phân
chia giai cấp trong xã hội. Thực tiễn lịch sử phát triển và tiến hoá của nhân
loại đã chỉ ra rằng, nguyên nhân vật chất, nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân
cơ bản, sâu xa sản sinh ra giai cấp và xã hội có giai cấp. Sự tồn tại, phát triển
và diệt vong của giai cấp và xã hội có giai cấp là do nguyên nhân kinh tế – vật
chất quyết định – suy cho đến cùng. Như vậy, tư tưởng biện chứng duy vật về
giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin hoàn toàn đối lập
với quan điểm duy tâm, tôn giáo đã tồn tại rất lâu trong lịch sử. Tính cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sự
ra đời, tồn tại và diệt vong của nó đã góp phần vào cuộc đấu tranh, khắc phục

tư tưởng ảo tưởng, chủ quan về vấn đề hồ hợp giai cấp, xố nhồ đấu tranh
giai cấp trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế, hoặc muốn đi
1

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 28, tr 661 – 662.


4
tìm lời giải, một động lực ở ý thức tư tưởng để thúc đẩy sự phát triển giai cấp
và đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay.
Trong vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa Mác – Lênin đã
có sự đánh giá rất khách quan, khoa học đối với sự ra đời của xã hội có đối
kháng giai cấp, các ông đã khẳng định sự ra đời của xã hội có giai cấp thay
thế xã hội cộng sản nguyên thuỷ là một bước tiến hoá, phát triển của lịch sử
nhân loại, Ph.Ăng-ghen viết: “Từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xã hội xuất
hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm
muốn quyền lực đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển của lịch sử”. Trong xã
hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trị nhất định trong lịch sử, kể cả
giai cấp thống trị bóc lột. Sự tồn tại của các giai cấp đối kháng đều do sự quy
định của điều kiện kinh tế, quan hệ kinh tế. Theo đó, sự ra đời, tồn tại, phát
triển của giai cấp tư sản cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử và cũng
đã từng đóng vai trị hết sức cách mạng trong lịch sử, bởi chính giai cấp tư sản
đã làm cách mạng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời lạc hậu để mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển, hình thành những thị trường và quốc
gia rộng lớn, mở ra sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Từ các quan điểm mác xít về sự hình thành giai cấp theo lập trường duy
vật về lịch sử, đã cho chúng ta thấy rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, sự xuất hiện xã hội có giai cấp là một tất yếu khách quan, trước hết
là tất yếu về kinh tế, chính “cái có thể chiếm hữu” đã sinh ra tư tưởng chiếm hữu.
Hai là, xã hội có giai cấp là một giai đoạn tất yếu của lịch sử phát triển

của nhân loại, nó chính là nhân tố để thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trị nhất
định, trước hết là vai trị trong phát triển kinh tế, đây cũng chính là lý do tồn
tại của mỗi giai cấp và quy định địa vị chính trị – xã hội của nó.
Như vậy, sự nẩy sinh, tồn tại, phát triển của các giai cấp là một tất yếu
lịch sử, nó được nẩy sinh từ sự phát triển của lịch sử xã hội và vì sự phát triển
của xã hội. Tất nhiên vai trò của mỗi giai cấp đều có giới hạn lịch sử của nó,


5
khi giai cấp đã lỗi thời, cản trở sự phát triển của xã hội, thì tất yếu nó sẽ bị lịch
sử gạt bỏ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Đó là cách nhìn
nhận vấn đề giai cấp một cách khách quan, khoa học khơng có sự thù hận giai
cấp.
1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội.
Để phân biệt giai cấp này với giai cấp khác trong xã hội phải có một hệ
thống tiêu chí khách quan, khoa học. Dựa trên quan điểm duy vật về lịch sử
chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa những tiêu chí cơ bản về giai cấp, đây là cơ sở
khoa học để chúng ta xem xét và phân biệt các giai cấp trong xã hội.
Từ sự kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế – chính trị học tư sản trước
đó, C.Mác đã cho rằng, trong xã hội tư sản tồn tại “những người chỉ sở hữu
có sức lao động, những kẻ sở hữu tư bản và những kẻ sở hữu ruộng đất, mà
nguồn thu nhập tương ứng là tiền công, lợi nhuận và địa tô, tức là công nhân
làm thuê, nhà tư bản và địa chủ, đó là ba giai cấp lớn của xã hội hiện đại dựa
trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”2. Theo đó, tiêu chí của giai cấp
trước hết phải gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử,
gắn liền với phương thức sản xuất. Khơng có tiêu chí chung cho mọi giai cấp
trong mọi thời đại lịch sử, các tiêu chí đó ln vận động biến đổi khơng
ngừng theo thực tiễn của sản xuất và đời sống xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, thì tiêu chí cơ bản quan trọng hàng đầu để phân biệt giai cấp này với
giai cấp khác, đó là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vai trò tổ chức, quản lý sản

xuất và gắn liền với nó là sự thu nhập từ các quyền sở hữu đó.
Chính sự sở hữu tư liệu sản xuất trong những lĩnh vực khác nhau sẽ
hình thành nên những giai tầng khác nhau trong xã hội: người sở hữu tư liệu
sản xuất trong cơng nghiệp hình thành nên giai cấp tư sản, những kẻ sở hữu
ruộng đất là giai cấp địa chủ, còn những người chỉ sở hữu sức lao động của
mình và bán sức lao động cho nhà tư bản công nghiệp là giai cấp công nhân.
Đồng thời, những ai là chủ tư liệu sản xuất sẽ đóng vai trị tổ chức, quản lý,
2

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 25, tr 643.


6
điều hành q trình sản xuất, cịn những người khơng có tư liệu sản xuất thì
phải chịu sự tổ chức, quản lý, điều hành của kẻ có tư liệu sản xuất. Theo đó,
sự hưởng thụ các sản phẩm trong xã hội cũng có sự khác nhau, nguồn thu
nhập của người làm thuê là tiền công, là một phần rất nhỏ trong tổng số giá trị
lao động mà chính họ tạo ra, còn nguồn thu nhập của chủ tư bản là lợi nhuận.
Đó là sự phân phối bất bình đẳng, là sự bóc lột của giai cấp tư bản, địa chủ
đối với giai cấp công nhân, người làm thuê.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về tiêu chí giai cấp đã được
V.I.Lênin kế thừa, phát triển, xây dựng và hoàn thiện thành tiêu chí giai cấp nói
chung và tiêu chí cụ thể cho từng giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”
V.I.Lênin viết: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đồn người, mà tập đồn người này thì có thể chiếm đoạt lao động

của tập đoàn khác, do chỗ các tập đồn có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định”3. Như vậy, theo V.I.Lênin, để đánh giá đúng đắn, khách
quan về một giai cấp cần phải dựa trên những tiêu chí khoa học.
Thứ nhất, giai cấp trước hết phải là tập đoàn người to lớn, đông đảo
trong xã hội, gắn liền với một hệ thống sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy
với một vài cá nhân đơn lẻ không thể là giai cấp, mặc dù họ có thể nắm giữ
những vị trí, vai trị quan trọng có ảnh hưởng to lớn trong đời sống tinh thần
xã hội. Cũng không phải mọi tập đồn đơng đảo, to lớn trong xã hội sẽ là giai
cấp, giai cấp không phải là sự cộng lại đơn thuần, là tổng số của các cá nhân,
mà đó phải là sự gắn bó, hợp lại với nhau trên cơ sở có chung một địa vị trong
hệ thống sản xuất nhất định của xã hội. Mặt khác, không phải mọi hệ thống
3

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 39, tr 17 – 18.


7
sản xuất đều sinh ra giai cấp, mà chỉ hệ thống sản xuất nào tạo ra tiền đề để
những tập đồn này có quan hệ và địa vị khác nhau trong quá trình sản xuất
mới tạo ra giai cấp khác nhau, chỉ có những xã hội dựa trên những quan hệ
sản xuất nhất định nào đó mới tạo ra giai cấp.
Thứ hai, sự khác nhau giữa các giai cấp được thể hiện trên những
phương diện cơ bản sau:
- Quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất (thường thì được pháp luật
quy định và thừa nhận). Vai trị đó được thể hiện ở các quyền cơ bản: quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu… Nền kinh tế càng phát triển thì các quyền này
càng được mở rộng, biến đổi và hình thành các quyền mới, đáp ứng sự phát
triển của thực tiễn sản xuất.
- Vai trị tổ chức và phân cơng lao động trong quản lý, tổ chức sản xuất.
Tập đoàn người nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì nắm quyền điều

hành, tổ chức, quản lý sản xuất. Ở đây cần phân biệt rõ ràng giữa việc tổ
chức, quản lý sản xuất với quyền quyết định tổ chức, quản lý sản xuất, bởi
trước yêu cầu phát triển sản xuất hiện nay mà việc tổ chức quản lý ngày càng
địi hỏi cao, phức tạp, có nhiều người cùng tham gia quản lý trong đó có cả
người khơng nắm tư liệu sản xuất, song vai trị quyết định q trình sản xuất,
quản lý sản xuất phải là người nắm phần lớn tư liệu sản xuất.
- Phương thức, quy mô thu nhập. Tập đoàn nào nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất thì nắm quyền về tổ chức phân phối sản phẩm. Sự phân phối sản
phẩm xã hội phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tiến hành theo những phương
thức khác nhau. Trong xã hội hiện đại, sự phân phối sản phẩm xã hội được
phân phối cho các cá nhân sau khi đã khấu trừ các phần cơ bản: phần để mở
rộng sản xuất; lập quỹ dự trữ; bảo hiểm để phịng ngừa tai nạn rủi ro; phần
khấu trừ chi phí quản lý chung, không trực tiếp sản xuất; phần để đáp ứng
những yêu cầu về giáo dục, y tế, văn hố cho tồn xã hội; phần lập quỹ ni
những người khơng có khả năng lao động.


8
Các đặc trưng phân biệt giai cấp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là
nguyên nhân và là kết quả của nhau, là tiền đề, điều kiện của nhau trong q
trình vận động và phát triển. Trong đó, đặc trưng chủ yếu quan trọng nhất để
phân biệt các giai cấp là đặc trưng về mối quan hệ giữa các tập đoàn người đối
với tư liệu sản xuất, giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì có quyền
quyết định q trình tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội.
Như vậy, định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin là cơ sở phương pháp luận
để phân biệt các giai cấp khác nhau trong những giai đoạn lịch sử xác định.
Theo đó, giai cấp là một phạm trù xã hội, gắn liền với sản xuất vật chất, đặc
biệt là với quan hệ sản xuất, do đó các tiêu chí do V.I.Lênin đưa ra chủ yếu là
những tiêu chí về kinh tế và vật chất. Nhưng chúng ta cũng cần thấy rằng, sự
khác biệt về vật chất giữa các giai cấp sẽ dẫn tới sự khác biệt về chính trị, tinh

thần. Thừa nhận sự khác biệt giữa các giai cấp về kinh tế thì khơng thể khơng
thừa nhận sự khác biệt về chính trị, tinh thần, bởi trong xã hội có giai cấp, giai
cấp nào thống trị về lực lượng vật chất thì sẽ thống trị về mặt tinh thần, chính
trị trong xã hội. Nói cách khác, tư tưởng thống trị đó chính là biểu hiện tinh
thần của những quan hệ vật chất dưới hình thức tư tưởng. Với cách xem xét
trên sẽ làm cho lý luận giai cấp có tính khoa học và có tính thực tiễn cao.
Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin còn thể hiện thực chất của quan hệ
giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là sự chiếm đoạt sức lao động
của giai cấp thống trị, nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất đối với những người
có ít hoặc khơng có tư liệu sản xuất.
Ở Việt Nam hiện nay, có ý kiến cho rằng, cần phải thay đổi quan niệm
về bóc lột và phải coi lợi nhuận là một sự phân phối tất yếu trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Theo họ, nếu
khơng có sự thay đổi quan niệm về bóc lột sẽ gây ra tâm lý nặng nề trong xã
hội, không tạo ra được sự cổ vũ, khích lệ các thành phần kinh tế ngồi quốc
doanh phát triển tiềm năng của mình.


9
Chúng ta cần thấy rằng: Nếu thừa nhận lịch sử xã hội có giai cấp là lịch
sử các cuộc đấu tranh giai cấp và là một trong những động lực thúc đẩy xã hội
có giai cấp phát triển, thì phải thừa nhận một trong những nguyên nhân cơ bản
của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nếu phủ nhận
thực chất quan hệ giai cấp là quan hệ bóc lột và bị bóc lột thì sẽ phủ nhận vấn
đề cần phải xố bỏ giai cấp, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, phủ nhận lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác.
Thực tiễn lịch sử và thực tiễn trong thế giới hiện đại đã chứng minh rằng, hiện
nay con người vẫn chưa thể xố bỏ được áp bức, bóc lột, quan hệ các giai cấp
trong xã hội đó chính là bóc lột và bị bóc lột. Song, vấn đề là ở chỗ nhận thức
về sự tồn tại của sự bóc lột ấy như thế nào, để từ đó tìm hướng giải quyết nó

trong từng điều kiện lịch sử cụ thể.
Ở nước ta hiện nay, đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
kinh tế – xã hội đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
trong xã hội tất yếu vẫn cịn tồn tại tình trạng bóc lột và bị bóc lột, nhưng đó
khơng phải là bản chất xã hội, bởi, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang nỗ
lực phấn đấu để xố bỏ bóc lột, xây dựng xã hội theo mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Nếu chỉ nhìn vào bốn
chữ “chủ nghĩa xã hội” mà né tránh vấn đề bóc lột, cho rằng Việt Nam khơng
cịn bóc lột nữa là siêu hình, mơ hồ, xa rời thực tiễn và lý luận cách mạng.
Chúng ta phải thẳng thắn đối diện với nó thì mới tìm ra được con đường, biện
pháp để xố bỏ nó. Hơn nữa, sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh ở Việt Nam đang có vị trí quan trọng trong phát huy nội lực đất nước,
tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố
đất nước. Vì vậy, nếu né tránh, phủ nhận vấn đề bóc lột là biểu hiện của sự vi
phạm quy luật khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.3. Quan điểm mác xít về đấu tranh giai cấp.
V.I.Lênin đã dạy rằng: “Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để
tìm ra những quy luật trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngồi ấy, đó là:


10
quy luật đấu tranh giai cấp”. Thực tế, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai
cấp được C.Mác và Ph.Ăng-ghen kế thừa từ những tư tưởng của các triết gia
trước đó và trên cơ sở thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân cuối thế kỷ
XIX để xây dựng nên lý luận đó, sau này, những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen phát triển lên một trình độ hồn thiện và khoa học hơn. Đây là
một học thuyết vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học, phản ánh
xu thế vận động, phát triển tất yếu khách quan của lịch sử, lý luận ấy đã soi
sáng con đường cách mạng tiến tới giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại và
con người.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định, trong xã hội có giai cấp, đấu
tranh giai cấp là tất yếu khách quan, lịch sử loài người cũng đã chứng minh
rằng: lịch sử tất cả các xã hội có giai cấp tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử
đấu tranh giai cấp giữa những “Người tự do và người nơ lệ, q tộc và bình
dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những
kẻ áp bức và người bị áp bức luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc
đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh
bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự
diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”4.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn giai cấp, song theo
V.I.Lênin, nguyên nhân trước hết là do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. V.I.Lênin
cho rằng: đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống
lại một bộ phận khác, là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” 5. Như vậy,
thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp có
lợi ích cơ bản đối lập nhau khơng thể điều hồ được.
4
5

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 596 – 597.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 7, tr 237 – 238.


11
Theo quan điểm mác xít, lợi ích giai cấp là những giá trị khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp, đảm bảo cho giai cấp đó tồn tại và
phát triển. Lợi ích giai cấp khơng phải do ý thức giai cấp sinh ra và quy định, mà
nó do địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp đó tạo nên, do đó, muốn chỉ ra lợi ích

giai cấp và sự đối kháng lợi ích giai cấp phải phân tích tình hình, điều kiện phát
triển cụ thể của từng giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp khi có sự đối kháng gay
gắt sẽ dẫn tới đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, khi mâu thuẫn cơ bản được
giải quyết sẽ tạo ra động lực thúc đẩy tồn bộ xã hội có giai cấp phát triển. Chính
vì vậy, đấu tranh giai cấp trở thành một trong những động lực cơ bản, quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong đời sống xã hội, nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu
thuẫn trong quá trình sản xuất vật chất, mà trước hết và trực tiếp là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do tính cách mạng, ln vận
động biến đổi của lực lượng sản xuất, do đó, quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất luôn vận động từ chỗ phù hợp tới không phù hợp và mâu
thuẫn. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất thì phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất
mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Song, để bảo vệ lợi ích của giai
cấp mình, giai cấp thống trị ln tìm mọi cách bảo vệ quan hệ sản xuất hiện
có, cản trở, kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất mới. Do đó, muốn mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển phải thông qua đấu tranh giai cấp mà
đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội. Trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp tiên tiến với giai cấp thống trị đã phản động, lỗi thời luôn diễn ra gay go
quyết liệt, song giai cấp mới tiên tiến sẽ tất yếu giành thắng lợi, bởi cuộc đấu
tranh của họ ngày càng được quần chúng ủng hộ, vì cuộc đấu tranh của giai
cấp mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp
là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, để cho phương thức sản xuất mới trở thành phương thức sản
xuất thống trị trong xã hội, cùng với đó, một chế độ chính trị mới, văn hố


12
mới ra đời. Nói cách khác, thơng qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là
cách mạng xã hội sẽ dẫn tới sự ra đời của một hình thái kinh tế – xã hội mới,

cao hơn. Toàn bộ q trình phát triển của lịch sử xã hội lồi người đã chứng
minh cho tính khoa học đúng đắn của chủ nghĩa Mác về vai trò của đấu tranh
giai cấp trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội, nhưng đó khơng phải là động lực duy nhất, mà đó chỉ là động
lực cơ bản, ngồi ra trong xã hội cịn có rất nhiều động lực khác. Bởi vì, trong
đời sống xã hội, con người có vơ vàn các hoạt động khác nhau với những nhu
cầu, mục đích, động cơ khác nhau, trong đó những nhu cầu sống, nhu cầu về
vật chất, tinh thần, nhu cầu chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ… cũng là những động
lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động và tạo ra sự phát triển của
xã hội. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp do trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất cịn hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ mọi nhu cầu vật chất của con
người, chính vì vậy, đấu tranh để địi lợi ích kinh tế, đảm bảo điều kiện sống cho
con người trở thành những cuộc đấu tranh có quy mô lớn, quyết liệt nhất để dẫn
tới những sự chuyển biến lớn lao trong xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp theo
quan điểm mác xít, vấn đề cơ bản của nó khơng phải là vấn đề chính trị thuần
t, đạo đức thuần tuý, mà thực chất và cơ bản là vấn đề kinh tế.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh
giai cấp không chỉ cho ta thấy nguồn gốc của cách mạng, của sự phát triển xã
hội, mà nó cịn là cơ sở lý luận quan trọng cho cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản trong thời đại hiện nay.
1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vơ sản mang tính triệt để.
Ngun nhân sâu xa của mọi cuộc đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo đó, ngun nhân sâu xa
của việc giai cấp vơ sản chống giai cấp tư sản là mâu thuẫn giữa tính chất xã


13
hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư

bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã sớm thực hiện cuộc cách
mạng trong lĩnh vực công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất mang tính
chất xã hội hố và ngay từ đầu nó đã mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng
cao, càng gay gắt. Đó chính là ngun nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng
kinh tế – xã hội trong chủ nghĩa tư bản, chính vì vậy, giai cấp tư sản ln tìm
mọi cách để điều chỉnh quan hệ sản xuất dưới nhiều hình thức, biện pháp khác
nhau, nhưng sự điều chỉnh ấy lại dẫn tới hệ quả đó là, sự tập trung tư bản càng
lớn, do đó, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Những tiền đề mà
chủ nghĩa tư bản tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển đã dẫn tới sự đấu
tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản với mục tiêu là xoá bỏ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ cơng hữu về tư liệu sản
xuất. Mục tiêu đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của lịch sử và nó được xuất
phát từ nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng con người tiến tới
một xã hội khơng có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong
lịch sử, bởi vì, sau cuộc đấu tranh ấy, chế độ công hữu về cơ bản là phải
chiếm ưu thế, giữ vai trò thống trị trong xã hội. Do đó, cuộc đấu tranh của giai
cấp vơ sản chống lại giai cấp tư sản là triệt để nhất, nó đã xố bỏ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, nguyên nhân của mọi mâu thuẫn trong xã hội.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản dựa trên chiến lược liên
minh công nông rộng lớn.
Mọi cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới liên minh giai cấp, đó là
một vấn đề có tính quy luật để tập hợp và phát huy sức mạnh, để giành thắng
lợi trong cuộc đấu tranh đó.
Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp vô sản lãnh đạo và thực hiện nó
khác hẳn với các cuộc cách mạng trước kia trong quan niệm và thực hiện vấn
đề liên minh giai cấp với giai cấp nơng dân. Nếu như trước đó, sự liên minh



14
giữa các giai cấp tiến hành cách mạng với giai cấp nơng dân chỉ mang tính
chất tạm thời, thì nay trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản liên minh
giữa công nhân với nông dân là sự liên minh chiến lược và rộng lớn. Sự liên
minh ấy được xuất phát trước hết từ bản chất, mục tiêu của cuộc cách mạng
mà giai cấp công nhân thực hiện.
Theo quan điểm mác xít, tất cả những phong trào cách mạng trước đó
trong lịch sử đều là do thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho thiểu số, cịn
phong trào cách mạng vô sản là phong trào của đa số, mưu cầu lợi ích cho đa
số. Sự liên minh của giai cấp vô sản với nông dân và các tầng lớp lao động bị
áp bức xuất phát từ sự thống nhất về lợi ích cơ bản và lâu dài giữa giai cấp vô
sản với các giai cấp, tầng lớp bị áp bức trong xã hội. Trong tác phẩm “Đấu
tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác đã chỉ ra rằng, chừng nào mà tình trạng của
các tầng lớp trung đẳng trong xã hội tư sản, tức là tầng lớp tiểu tư sản và nơng
dân cịn nặng nề và sự đối lập của họ với giai cấp tư sản càng trở nên gay gắt,
họ sẽ càng phải liên minh với giai cấp vô sản và “Họ tất nhiên phải thừa
nhận rằng, nguyên nhân của sự nghèo khổ của họ là do sự thất bại của giai
cấp vơ sản”6. Trong đó, giai cấp nơng dân là đối tượng cơ bản đầu tiên mà
giai cấp vơ sản cần liên kết, bởi vì, ở đâu giai cấp nơng dân cũng bị bóc lột
tàn nhẫn, bị xem như là một đồ vật, thậm chí là một “súc vật thồ” hoặc còn tệ
hại hơn thế nữa. Trong xã hội tư bản, giai cấp nông dân và giai cấp vơ sản “kẻ
bóc lột vẫn là một: đó là tư bản” 7. Việc cùng có chung một kẻ thù là giai cấp
tư sản khiến cho liên minh công – nông càng bền chặt và được khẳng định
như là một nhân tố cơ bản quyết định sự thành bại của phong trào công nhân.
Từ thực tế của cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp (1848 – 1850) và Công xã Pa-ri
1871, C.Mác đã chỉ rõ, nếu giai cấp vô sản không hát được “bài đồng ca” với
giai cấp nơng dân thì “bài đơn ca” của họ sẽ trở thành một “bài ai điếu”.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin đã phát
triển lý luận về liên minh giai cấp trong điều kiện mới của giai cấp vô sản.
6

7

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 7, tr 48.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 5, tr 128.


15
Trước hết, V.I.Lênin khẳng định liên minh công – nông là “nguyên tắc cao
nhất” của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, liên minh ấy phải được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Đồng thời, V.I.Lênin còn chỉ rõ, liên minh
công – nông không chỉ được thực hiện để giành lấy chính quyền, thiết lập
chun chính vơ sản, mà nó cịn cần được tiếp tục duy trì, phát triển trong q
trình giữ vững chính quyền “…Nếu khơng liên minh được với nơng dân thì
khơng thể có chính quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ đến việc duy trì
chính quyền…”8. Do đó, liên minh cơng – nơng chính là nguyên tắc, điều kiện
tối cao để giai cấp vơ sản giữ vững vai trị lãnh đạo đối với tồn xã hội và giữ
vững chính quyền cách mạng của mình.
Liên minh cơng – nơng, theo V.I.Lênin, đó khơng chỉ là liên minh về
chính trị, mà cịn cần phải chuyển sang liên minh về kinh tế, trong đó, giai cấp
vơ sản cần phải đem lại ruộng đất cho nông dân, V.I.Lênin khẳng định, đây
chính là một đặc trưng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, và ông viết “…
Nếu không tống cổ bọn đại địa chủ đi và không chia ruộng đất cho nơng dân
thì cách mạng chỉ là cách mạng tư sản thôi chứ không phải là cách mạng xã
hội chủ nghĩa”9. Vì vậy, trong và sau cách mạng, V.I.Lênin ln u cầu phải
lấy lợi ích thiết thân của cá nhân nông dân làm cơ sở trong công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, rằng liên minh công –
nông chỉ thực sự vững chắc khi nào mối quan hệ giữa cơng nghiệp và nơng
nghiệp trở nên cân đối hài hồ và cơng nghiệp có thể đáp ứng được những
nhu cầu thiết yếu của đời sống nông dân và sự phát triển kinh tế của nông
dân.

Như vậy, liên minh công – nơng dựa trên lợi ích căn bản và lâu dài của
họ, nó được thể hiện trong thời kỳ giành chính quyền và giữ chính quyền, từ
liên minh chính trị chuyển sang liên minh kinh tế trong suốt cả thời kỳ quá độ.
Đó là một đặc điểm của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
8
9

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 57.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 8.


16
- Sự thống nhất giữa giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản .
Khác với những giai đoạn lịch sử trước kia, ngay từ khi mới ra đời giai
cấp tư sản đã có vai trị to lớn trong sự hình thành nên nhiều dân tộc trên thế
giới, đặc biệt là ở châu Âu. Cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá bỏ tình trạng phân tán của tư liệu sản
xuất, tài sản và dân cư, chính từ sự tập trung về kinh tế đã dẫn tới sự tập trung
về chính trị. Nhờ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
khiến “Những địa phương độc lập liên hệ với nhau gần như chỉ bởi những
quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác
nhau thì đã tập hợp thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống
nhất, một pháp luật thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính giai
cấp và một thuế quan thống nhất”10. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc xuyên suốt trong tồn bộ cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản và ảnh hưởng
trực tiếp tới cuộc đấu tranh này. Dân tộc được đề cập trong mối quan hệ với
giai cấp đó là một cộng đồng người bền vững dựa trên những cơ sở cộng đồng
về ngơn ngữ, văn hố, lãnh thổ, kinh tế… Do đó, dân tộc có thể ra đời cùng

hoặc trước khi sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Trong mỗi dân tộc có một giai cấp đứng đầu thống trị dân tộc, giai cấp
đó sẽ dân tộc hoá các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nó, và nó cũng
giai cấp hố hình thức phát triển của dân tộc. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước hết là quan hệ
giữa giai cấp vô sản và dân tộc, mà giai cấp vô sản là một bộ phận cấu thành
nên dân tộc ấy. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản là giai cấp thống trị dân
tộc, điều đó đã làm cho cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vơ sản trong từng
nước đều nhằm vào việc lật đổ chính quyền tư sản, chuyển nó vào tay giai cấp
cơng nơng. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Mục đích trước mắt của
những người cộng sản là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vơ sản khác
10

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 603.


17
tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vơ sản giành lấy chính quyền”11.
Chính việc đấu tranh giành chính quyền trong từng dân tộc là địi hỏi
khách quan của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản, đó là điều kiện để giai cấp
vơ sản tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc, xố
bỏ dân tộc tư sản để hình thành dân tộc xã hội chủ nghĩa, dân tộc vô sản. Vì
vậy, “Cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản, dù về mặt nội dung không phải là
cuộc đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc”12.
Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc còn được thể hiện trong mối quan
hệ giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. Khi giai cấp bóc lột cầm
quyền, giữ vai trò lãnh đạo dân tộc, do theo đuổi những mục đích giai cấp cục
bộ của mình, bao giờ cũng tìm cách mở rộng lãnh thổ, mở rộng thị trường, thi
hành chính sách đối nội, mở rộng áp bức, bóc lột với các dân tộc khác trên thế

giới nhằm thoả mãn khát vọng về lợi nhuận kinh tế và địa vị chính trị. Từ đó
có thể khẳng định rằng, nguồn gốc của áp bức dân tộc là từ áp bức giai cấp,
do đó muốn xố bỏ áp bức dân tộc phải xoá bỏ áp bức giai cấp, C.Mác đã
viết: “Hãy xố bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”13. Như vậy, cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản là tiền đề của cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại, nhưng ngay từ
đầu nó phải diễn ra trên địa bàn dân tộc.
Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách
mạng vô sản được V.I.Lênin tiếp tục phát triển trong thời đại mới, khi mà chủ
nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, và phong trào giải phóng
dân tộc đã phát triển mạnh mẽ. V.I.Lênin khẳng định: kẻ thù chung của giai
cấp vô sản ở các nước tư bản và thuộc địa lúc này là đó chính là giai cấp tư
bản, nhà nước đế quốc, do đó, giai cấp vô sản phải liên kết với các nước thuộc
địa, cho dù ở các nước thuộc địa đó giai cấp nào lãnh, và V.I.Lênin đã chuyển
11
12
13

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 625.


18
khẩu hiệu “Vơ sản các nước đồn kết lại” của C.Mác thành khẩu hiệu “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”. Đó là một bước
phát triển mới về lý luận đấu tranh giai cấp của V.I.Lênin trong điều kiện mới,
điều đó đã làm cho phong trào cách mạng vơ sản có thêm được lực lượng
hùng hậu để có thể giành thắng lợi.
Đối với các nước thuộc địa có phong trào vơ sản phát triển mạnh mẽ,

theo V.I.Lênin, phải có sự liên kết phong trào vơ sản ở những nước đó với
phong trào vơ sản ở chính quốc. Đồng thời, ơng cho rằng, khi các “dân tộc xã
hội chủ nghĩa lớn” được hình thành, quần chúng lao động tự giải phóng khỏi
ách áp bức của giai cấp tư sản sẽ hướng toàn lực của họ vào việc liên minh và
thống nhất với các dân tộc xã hội chủ nghĩa để tạo nên sức mạnh tổng hợp
chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản khác với mọi cuộc đấu tranh giai cấp
trước đó, ở chỗ, các lực lượng ln được mở rộng và phát triển khơng ngừng. Đó
là q trình chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác, từ đấu tranh của một giai cấp
thành đấu tranh của liên minh giai cấp, đấu tranh của cả dân tộc, từ cuộc đấu tranh
trong phạm vi quốc gia chuyển thành cuộc đấu tranh trên phạm vi quốc tế.
Như vậy, mặc dù đã được xuất hiện từ rất sớm, nhưng chỉ đến C.Mác
và Ph.Ăng-ghen thì lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp mới thực sự
mang tính cách mạng và khoa học. Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các nhà kinh điển mác xít đã luận chứng làm rõ những vấn đề
về nguồn gốc giai cấp, tiêu chí phân biệt giai cấp, cũng như nguyên nhân,
điều kiện, mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản. Từ lý
luận đó, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ đặc thù của cuộc đấu tranh của giai
cấp vơ sản, nhiệm vụ lịch sử mà nó phải giải quyết, cũng từ lý luận về giai
cấp và đấu tranh giai cấp C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng nên chủ nghĩa
cộng sản khoa học. Lý luận này đã xoá tan mọi ảo tưởng về xoá bỏ giai cấp,
xoá bỏ áp bức dựa trên cơ sở thuần tuý về giáo dục đạo đức mà không xuất
phát từ kinh tế, lực lượng sản xuất.


19
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã được V.I.Lênin kế thừa
và phát triển trong điều kiện lịch sử mới, khi mà giai cấp vơ sản đã giành
được chính quyền. Những tư tưởng của V.I.Lênin đã giúp chúng ta thấy được
mục đích, nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện

mới, đồng thời, nó cũng chỉ rõ rằng, giai cấp vô sản cần phải vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo các quan điểm mác xít để nhận thức và giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể của cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là giá trị lớn lao của
học thuyết mác xít về đấu tranh giai cấp.
2. Sự vận dụng lý luận mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp ở
Việt Nam
2.1. Hoàn cảnh đặc thù của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong lịch sử.
Lịch sử xã hội lồi người nhìn chung đã tuần tự trải qua các giai đoạn
phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ tới xã hội – xã hội chủ nghĩa, thì ở Việt
Nam, trên thực tế nó mới chỉ trải qua những giai đoạn phát triển: cộng sản
nguyên thuỷ, phương thức sản xuất châu Á và xã hội phong kiến. Như vậy, ở
Việt Nam đã không tồn tại một xã hội có hình thức phân hố giai cấp sâu sắc
nhất đó là xã hội chiếm hữu nơ lệ, điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới quan hệ
giai cấp trong các xã hội ở Việt Nam, đó là sự hoà giải, hoà hợp giai cấp mạnh
hơn sự phân biệt, kỳ thị giai cấp.
Nghiên cứu lịch sử xã hội có giai cấp ở Việt Nam chúng ta thấy rằng: xã
hội phong kiến là một xã hội có hình hài phát triển đầy đủ nhất, ở đó sự phân
hố giai cấp và đấu tranh giai cấp diễn ra một cách rõ nét hơn cả so với những
xã hội trước đó. Nhưng, nhìn một cách tổng qt có thể thấy trong xã hội
phong kiến Việt Nam, cấu trúc giai cấp - xã hội cũng có những nét đặc thù.
Nét đặc thù nổi bật trong cấu trúc giai cấp – xã hội ở Việt Nam đó là
tính chồng chéo, đan xen của nhiều giai tầng, của các hình thái xã hội khác
nhau trong một xã hội cụ thể. Nguyên nhân của đặc điểm trên là do sự biến
đổi cơ cấu xã hội của Việt Nam không dựa trên sự phủ định hoàn toàn xã hội
cũ, mà trái lại, sự ra đời của một xã hội mới ở Việt Nam được hình thành trên


20
cơ sở bảo tồn và biến đổi xã hội cũ cho phù hợp với yêu cầu mới. Chế độ
phong kiến Việt Nam được hình thành trên cơ sở bảo tồn và phong kiến hố

cơng xã nơng thơn – một kết cấu xã hội rất vững chắc và mềm dẻo. Đối với
bản thân công xã nông thôn cũng tự biến đổi và thích nghi với hồn cảnh mới
và tìm mọi cách để duy trì và phát huy ảnh hưởng, tác động của nó về kinh tế,
chính trị – xã hội trong chế độ phong kiến.
Chế độ phong kiến Việt Nam được hình thành, phát triển trên cơ sở quan
hệ của cơng xã nông thôn, của phương thức sản xuất châu Á, do đó, trong xã
hội phong kiến Việt Nam hình thức sở hữu phong kiến về ruộng đất dựa trên cơ
sở duy trì chế độ ruộng đất cơng của cơng xã nơng thơn. Chế độ sở hữu ruộng
đất cơng đó đã góp phần liên kết cộng đồng, níu giữ truyền thống của công xã,
tạo ra sự cố kết bền vững, ổn định lâu dài của quan hệ làng xã. Thực tế trên đã
làm cho sự phân hoá đẳng cấp, giai cấp trong xã hội luôn xảy ra nhưng không
rõ ràng, triệt để và có sự đan xen của nhiều giai tầng trong xã hội.
Một nét đặc thù trong sự phát triển của các giai cấp ở Việt Nam đó là:
giữa các giai cấp, đẳng cấp ln có sự chuyển hố cho nhau trong những điều
kiện nhất định. Hơm nay họ có thể ở giai tầng này nhưng ngày mai họ có thể
ở giai tầng khác do những điều kiện kinh tế, chính trị – xã hội quy định.
Sự chuyển hố giai cấp trước hết là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế.
Việc sở hữu tư liệu sản xuất, vị thế kinh tế, đặc biệt sự thay đổi về địa vị kinh
tế của con người đã không chỉ làm thay đổi cuộc sống, phong cách tư duy,
ứng xử trong cuộc sống của họ mà các quan hệ của họ cũng thay đổi. Mặt
khác, cùng với thế lực kinh tế thay đổi thì thế lực chính trị xã hội của họ cũng
có sự thay đổi, người có thế lực kinh tế thì tìm mọi cách để củng cố phát triển
địa vị xã hội của họ, qua đó để tiếp tục phát triển kinh tế. Ngược lại, những
người mất thế lực kinh tế thì cũng mất ln cả địa vị chính trị – xã hội, trở
thành người của giai tầng dưới của xã hội.
Sự thay đổi, chuyển hoá từ giai cấp, đẳng cấp này sang giai cấp, đẳng
cấp khác còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách, pháp luật của nhà nước và các


21

quan hệ xã hội trong đời sống hiện thực. Trong xã hội phong kiến ở Việt Nam
việc tuyển chọn quan chức trong bộ máy nhà nước thông qua chế độ thi tuyển
với nguyên tắc “quyền đi liền với lợi”. Do đó, một số người nghèo, nho sinh
thơng qua việc “dùi mài kinh sử” và thi cử đỗ đạt họ sẽ được bổ nhiệm làm
quan, và khi có chức vụ, quyền hạn thì những vị quan đó bên cạnh bổng lộc
do vua ban, họ có thể kiếm được lợi lộc do địa vị xã hội đem lại, do đó, họ có
thể thay đổi địa vị giai cấp nhanh chóng, từ người nghèo, đẳng cấp thấp họ lên
giai cấp, đẳng cấp cao hơn trong xã hội.
Như vậy, quan hệ giai cấp, sự quy định địa vị giai cấp của con người
trong xã hội phong kiến Việt Nam là hết sức lỏng lẻo, dễ dàng biến đổi, thay
đổi theo điều kiện kinh tế, chính trị – xã hội của con người.
Từ sự lỏng lẻo trong quan hệ giai cấp, đẳng cấp ở địa vị kinh tế, chính
trị đã quyết định tới sự lỏng lẻo về tư tưởng, quan điểm lập trường của con
người trong xã hội. Cùng với sự chuyển hoá về địa vị kinh tế – chính trị xã
hội, con người cũng phải có sự thay đổi về lập trường quan điểm, tư tưởng, lối
sống… sự lỏng lẻo về tư tưởng, quan điểm đã tạo nên sự đấu tranh, giằng co
giữa cái cũ và cái mới, giữa tiến bộ và lạc hậu trong nhân sinh quan, thế giới
quan của con người. Trong đó, sự khẳng định cho cái mới, cái tiến bộ thường
không vững chắc, dễ bị thay đổi, nhất là khi gặp khó khăn, hoặc là khi đã đạt
được mục tiêu trước mắt. Đây chính là cơ sở để lý giải sự nhanh chóng thịnh
vượng và suy tàn của các triều đại phong kiến ở Việt Nam.
Tính chất lỏng lẻo, khơng rành mạch trong quan hệ giai cấp còn được
thể hiện ở chỗ, một số người cùng đẳng cấp nhưng không cùng giai cấp,
ngược lại, nhiều người trong cùng một giai cấp nhưng lại khơng cùng đẳng
cấp. Tính chất lỏng lẻo, không rành mạch trong quan hệ giai cấp, đẳng cấp
được thể hiện đậm nét trong cuộc đấu tranh giữa cái chung với cái riêng, cá
nhân và cộng đồng, các yếu tố đó ln níu kéo, giằng xé nhau, và nhờ có quan
hệ, kết cấu làng xã đã tạo ra được một lớp “màng mỏng” trong quan hệ giữa
các giai cấp, đẳng cấp, làm mềm đi sự phân biệt các giai tầng trong xã hội.



22
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân là trì trệ, bảo thủ quá trình
phát triển của kinh tế – xã hội Việt Nam. Mặt khác, chính những tình hình
trên đã tạo ra một thực tế trong quan hệ giai cấp, đẳng cấp ở Việt Nam là vừa
có sự bất đồng vừa có sự tương đồng, do đó, trong xã hội tính đối kháng giai
cấp khơng quyết liệt, gay gắt như ở nhiều quốc gia khác. Bởi lẽ, các giai cấp ở
Việt Nam, do địa vị khác nhau trong nền kinh tế xã hội, nó có quyền lợi, nhu
cầu, lợi ích riêng, khác biệt, mâu thuẫn nhau, nhưng sự khác biệt, mâu thuẫn
đó lại bị điều tiết bởi nhu cầu đồn kết để chống thiên tai, địch hoạ. Chính sự
đan bện, chồng chéo các hoạt động lợi ích các mối quan hệ lúc thống nhất, lúc
mâu thuẫn, có lúc xô đẩy, bù trừ cho nhau, tiêu diệt lẫn nhau, đã làm cho các
mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội khó đạt đến đỉnh điểm, các cuộc đấu
tranh giai cấp giữa các giai cấp chưa phải là cuộc đấu tranh một mất một cịn,
khơng phải là cuộc đấu tranh chính trị nhằm thay đổi giai cấp thống trị xã hội
mà chỉ nhằm đạt được một số nội dung cụ thể, để điều chỉnh quan hệ phong
kiến trong xã hội, hạn chế sự bóc lột của giai cấp phong kiến đối với nơng
dân. Chính điều đó đã tạo ra một nhân tố tự nhiên đảm bảo cho sự ổn định
chính trị – xã hội, đồng thời cũng tạo ra sức ì, khuynh hướng bảo thủ, trì trệ
trong quá trình biến đổi mới, tiến bộ xã hội.
Khi chủ nghĩa tư bản vào Việt Nam dưới hình thức thực dân, thì ở Việt
Nam đã hình thành các giai cấp mới với những nét đặc thù của nó. Cùng với
chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, ở Việt Nam đã dần dần hình thành
giai cấp cơng nhân. Được hình thành và phát triển trong phong trào công nhân
thế giới đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cách
mạng Tháng Mười Nga, cách mạng Trung Quốc, giai cấp cơng nhân Việt Nam
đã nhanh chóng trưởng thành về chính trị, chuyển từ đấu tranh tự phát sang
đấu tranh tự giác, sự trưởng thành ấy được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Nam vào đầu những năm 1930.
Cùng với chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, giai cấp tư sản Việt

Nam đại biểu cho xã hội mới (xã hội tư bản) ở Việt Nam lại hết sức yếu ớt, cả


23
về mặt số lượng và chất lượng. Mặt khác, giai cấp tư sản Việt Nam lại bị phân
hoá thành hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân tộc, với những lợi ích
kinh tế và khuynh hướng chính trị khác nhau. Tư sản mại bản có lợi ích và
khuynh hướng chính trị gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa thực dân, cịn tư sản
dân tộc thì có tinh thần dân tộc nhưng lại bị chèn ép về kinh tế, nên khơng
phát triển được, do đó, họ bất lực về chính trị, khơng đủ khả năng lãnh đạo, đi
đầu trong phong trào cách mạng Việt Nam, sự thất bại của các phong trào
cách mạng có khuynh hướng tư sản, tiểu tư sản đã minh chứng cho điều đó.
Sự thất bại của những phong trào yêu nước mang khuynh hướng tư sản
đã không chỉ thể hiện sự bất lực của giai cấp tư sản Việt Nam, mà nó cịn thể
hiện sự phát triển khơng bình thường của chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam ngay
từ khi mới ra đời. Điều đó đã chứng tỏ sự phát triển chưa đầy đủ trên mọi
phương diện, tiêu chí của các giai cấp ở Việt Nam. Thực tế này đã làm cho
cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có hai đặc điểm nổi bật: Một là, các cuộc
đấu tranh giai cấp luôn gắn liền với cuộc đấu tranh dân tộc; Hai là, trong mối
quan hệ giai cấp và dân tộc thì vấn đề dân tộc thường giữ vai trò nổi trội hơn.
Những đặc điểm đó đã ảnh hưởng to lớn tới việc vận dụng lý luận Mác –
Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam.
Một trong những nội dung cơ bản đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin
được Hồ Chí Minh truyền bá một cách sáng tạo vào Việt Nam là lý luận về giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Trên cơ sở hiểu sâu sắc đúng đắn về lịch sử dân tộc,
về điều kiện đặc thù của Việt Nam và đã thấy được sự khác biệt của cuộc đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam so với những quốc gia, dân tộc khác, Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh rằng: cần phải vận dụng lý luận mác xít về giai cấp và đấu tranh
giai cấp một cách sáng tạo, chống rập khuôn, giáo điều, máy móc, đừng “thấy

người ta nói đấu tranh giai cấp, mình cũng nói đấu tranh giai cấp”.
Đặc biệt, trong lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh
đã nhận thức và giải quyết một cách khoa học sáng tạo mối quan hệ giữa giai


24
cấp và dân tộc. Nếu như C.Mác và Ph.Ăng-ghen xem xét mối quan hệ trên
trong mối quan hệ giữa giai cấp công nhân quốc tế với các dân tộc trên thế
giới, cịn V.I.Lênin xem xét mối quan hệ đó giữa giai cấp công nhân ở các
nước tư bản chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, thì Hồ
Chí Minh đã phân tích mối quan hệ giữa các giai cấp trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam với lợi ích của tồn thể dân tộc Việt Nam, ở đó, cái tồn thể là lợi
ích dân tộc cịn lợi ích giai cấp là cái bộ phận và giải quyết được cái tồn thể
thì sẽ giải quyết được cái bộ phận. Dân tộc được giải phóng thì giai cấp cũng
sẽ được giải phóng, lợi ích dân tộc được đảm bảo thì lợi ích giai cấp sẽ được
thực hiện. Khi đất nước cịn bị xâm lược thì Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, thì chẳng những quốc gia
dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi bộ phận, giai cấp đến vạn năm
cũng khơng địi lại được”14.
Xuất phát từ nhận thức trên, Hồ Chí Minh cho rằng: nhiệm vụ giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, song để giải phóng dân tộc phải làm
cách mạng vơ sản và đi theo con đường cách mạng vơ sản. Đó là một tất yếu
khách quan do bản thân chế độ thực dân ở Việt Nam đã tạo ra. Bởi vì, ở một
nước thuộc địa phong kiến, giai cấp công nông Việt Nam phải chịu ba tầng áp
bức, bóc lột là: Đế quốc, phong kiến và tư sản, do đó, giai cấp cơng nơng Việt
Nam có tinh thần cách mạng rất cao. Đồng thời, trong xã hội Việt Nam nổi lên
hai mâu thuẫn cơ bản mà cách mạng phải giải quyết đó là: mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân đế quốc và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến, vậy nên cách mạng Việt Nam phải kết hợp
chặt chẽ giữa đấu tranh giai cấp với đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác,

con đường để giải phóng dân tộc Việt Nam duy nhất đúng đắn là con đường
cách mạng vơ sản, điều đó hồn tồn là tất yếu khách quan, nó phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử và phù hợp với nguyện vọng của tồn thể dân tộc
Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
14

Văn kiện Đảng 1930 – 1945. Quyển 3, Nxb ST, HN, 1977, tr105.


25
khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”15. Từ những
phân tích trên, trong “Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng Sản Việt Nam” đã
khẳng định: nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”16.
Tư tưởng về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp với đấu tranh giải
phóng dân tộc, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam, là đường lối chiến lược chỉ
đạo cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh đó đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Xuất phát từ tư tưởng nhất quán đó, Hồ Chí Minh đã xác định lực
lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam là giai cấp công – nông, trong đó giai
cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo vì, “Trong thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng bằng cách liên minh với giai
cấp nông dân”17. Trong q trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo lý luận giai
cấp và đấu tranh giai cấp, nhất là trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa
giai cấp và dân tộc trong những điều kiện hồn cảnh lịch sử cụ thể.
Đến đây, chúng ta có thể khẳng định rằng, ngay từ đầu, Đảng ta đã có
quan điểm giai cấp đúng đắn, đã gắn liền và giải quyết hài hồ lợi ích của giai

cấp cơng nhân và nhân dân lao động với lợi ích tồn dân tộc, khi dân tộc cịn
đang chìm đắm trong vịng nơ lệ, Đảng đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
trên hết, nhưng vẫn giữ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và dựa trên cơ sở
liên minh công nông. Đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận giai cấp và đấu tranh
giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Quan điểm đúng đắn về giai cấp và đấu tranh giai cấp của Đảng ta đã là cơ sở
lý luận để Đảng ta vận dụng và giải quyết nhiệm vụ đấu tranh cách mạng,
15
16
17

Hồ Chí Minh. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 9, tr 314.
Hồ Chí Minh. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 3, tr 1.
Hồ Chí Minh. Tồn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 1, tr 28.


×