Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

THU HOẠCH NẮM VỮNG VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.97 KB, 24 trang )

NẮM VỮNG VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CÁC NGUYÊN LÝ
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO sù nghiÖp ®æi míi ë viÖt
nam - BÀI HỌC RÚT RA TỪ SỰ KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ CỦA
CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU
1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
* Thành tựu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn hơn 70 năm hình thành và phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và Đông âu đã đạt được những thành quả to lớn. Những thành
tựu ấy xét về mặt lô gíc, nó là kết quả của sự vận động tất yếu của nhân loại;
xét về mặt quy mô, tính chất của sự ảnh hưởng, nó vạch ra một xu thế phát
triển mới, sâu sắc và rộng lớn trên thế giới; xét về mặt lịch sử đã đánh dấu
một giai đoạn mới về chất trong sự phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa xã hội từ chỗ chỉ là khát vọng, ước mơ tốt đẹp của loài
người, một lý luận khoa học, đã trở thành hiện thực trong xã hội và phát
triển thành một hệ thống thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đạt
được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng như là thành trì vững chắc
của hoà bình và an ninh thế giới.
Mặc dù, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản trung bình,
điểm xuất phát thấp và trong vòng vây thù địch của hệ thống đế quốc thế
giới, nhưng Liên Xô và các nước Đông Âu đã nhanh chóng, tập trung, ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đào tạo con người trở thành lực lượng
lao động mới có trình độ văn hoá, tay nghề cao, phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp trong sáng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tạo sự khác biệt về chất so với người lao động trong chế độ cũ Nga
Hoàng; không ngừng cách mạng hoá công cụ lao động, đưa máy móc hiện
đại vào quá trình sản xuất, phát triển nền kinh tế theo hướng cơ khí hoá, tự
động hoá …cùng với phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tạo ra sự phù hợp thúc đẩy
sản xuất phát triển, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân, xây dựng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Tổ chức, điều hành nền kinh tế một cách hợp


lý có kế hoạch chặt chẽ từ trung ương đến địa phương; thực hiện nguyên
tắc phân phối công bằng, bình đẳng và dân chủ theo lao động. Nhờ đó,
năng xuất lao động không ngừng được nâng lên, đời sống của nhân dân lao
động từng bước được cải thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm từ 7% - 9%, từ những nước có nền kinh tế lạc hậu, Liên Xô và các
nước Đông âu đã nhanh chóng trở thành những nước phát triển. Đặc biệt, là
Liên Xô, chỉ sau 20 năm, tức là đến năm 1937 tổng sản lượng công nghiệp
đã vươn lên đứng đầu châu âu và đứng thứ hai trên thế giới.
Sức mạnh ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa còn được chứng minh đậm
nét trên lĩnh vực chính trị – xã hội, vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản không
ngừng được củng cố và nâng cao, lòng tin của nhân dân đới với đảng, với chế độ
được tăng cường, tạo ra mối quan hệ máu thịt keo sơn giữa đảng và nhân dân lao
động, dân tin đảng và nguyện đi theo đảng. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
được thiết lập vững chắc từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo cho quyền làm chủ
của nhân dân lao động được mở rộng, quyền con người được phát huy trên mọi
lĩnh vực, làm thay đổi về chất địa vị của người lao động. Chủ nghĩa xã hội trả lại
quyền thiêng liêng đúng nghĩa cho họ, đưa họ lên địa vị làm chủ của xã hội. Xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, bình đẳng giữa nam và nữ; giải
quyết đúng đắn lợi ích quốc gia dân tộc, nên cao quyền bình đẳng, tự quyết của
các dân tộc, đấu tranh không khoan nhượng với mọi âm mưu, thủ đoạn gây thù
hận dân tộc, chia rẽ dân tộc… của các thế lực đế quốc phản động. Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, xây dựng mối quan
hệ bình đẳng hợp tác, hữu nghị giữa các quốc gia dân tộc trong cộng đồng xã hội
chủ nghĩa với các quốc gia dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới, chống mọi
biểu hiện lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng, nô dịch quần chúng nhân dân.
2
Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, chủ nghĩa xã hội hiện thực luôn hướng
tới mục tiêu xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
giáo dục nâng cao trình độ dân trí là việc làm thiết thực nhằm xoá bỏ nạn mù
chữ cho người lao động, khắc phục hậu quả của chế độ xã hội cũ để lại, làm

cho con người phát triển toàn diện, có đời sống tinh thần lành mạnh, có nền
văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc, hoà quện với tinh hoa văn hoá nhân loại
nhằm phục vụ chính bản thân quần chúng nhân dân lao động. Đây cũng là sự
khác biệt căn bản giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với chế độ xã hội cũ - xã hội
tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa quần chúng nhân dân lao
động không có gì khác ngoài sức lao động để bán cho nhà tư bản, họ không
có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. trái lại dưới chủ nghĩa xã hội con
người luôn được giáo dục phát triển toàn diện, có lối sống trong sạch lành
mạnh “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Dựa trên cơ sở cùng chung
lợi ích – hài hòa về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội để hình thành các mối
quan hệ lành mạnh bền vững, khác xa với xã hội cũ là quan hệ giữa con người
với con người là quan hệ sòng phẳng, không tình nghĩa, quan hệ lấy đồng tiền
làm tiêu chí, không phải vì tình người….nhờ những giá trị đích thực này mà
quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bảo vệ vững
chắc được thành quả cách mạng, cuộc sống bình yêu của nhân dân lao động,
đặc biệt là tạo ra được thế cân bằng về so sánh lực lượng đối trọng với chủ
nghĩa đế quốc, giữ vững hoà bình và an ninh thế giới, ngăn chặn được sự răn
đe xâm lược không cho chủ nghĩa đế quốc làm mưa, làm gió, bá chủ toàn cầu,
hình thành một thế giới hai cực. Đánh bại chủ nghĩa phát xít cứu loài người ra
khỏi thảm hoạ diệt vong, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng thế giới nổ
ra và giành thắng lợi ở nhiều nước, làm cho hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc bị sụp đổ, thu hẹp đáng kể phạm vi ảnh hưởng và sinh tồn của chủ
nghĩa tư bản, buộc nó phải tự điều chỉnh, thích nghi để kéo dài thêm sự tồn
tại; giúp đỡ sự nghiệp chính nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động của nhiều quốc gia, dân tộc trên cả hành tinh; không những thế, còn có
tác dụng tích cực và mạnh mẽ tới xã hội của thế giới tư bản.
3
* Liên Xô lâm vào tình trạng “trì trệ” và công cuộc cải tổ
Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng chưa từng có bùng
nổ rồi nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ… tiếp diễn

theo sau đó, mở đầu cuộc khủng hoảng chung của toàn thế giới, đặt ra cho
toàn thể nhân loại những vấn đề bức thiết phải giải quyết như: sự bùng nổ dân
số và hiểm hoạ vơi cạn dần những tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho sự
sống của con người; yêu cầu đổi mới, thích nghi về kinh tế, chính trị, xã hội
trước sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học - kỹ thuật và sự giao
lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá
cao… Chính trong bối cảnh lịch sử đó, những người lãnh đạo Đảng, nhà nước
Liên Xô chủ quan cho rằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự
tác động của cuộc khủng hoảng chung toàn thế giới, do đó chậm thích ứng,
chậm sửa đổi. Trong những điều kiện mới, mô hình và cơ chế cũ của chủ
nghĩa xã hội về kinh tế, chính trị, xã hội được hình thành trong những hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt trước kia, vốn đã tồn tại những thiếu sót và sai lầm, nay
càng trở nên không còn phù hợp và cản trở sự phát triển về mọi mặt của xã
hội Xô viết. Mặt khác, những hiện tượng thiếu dân chủ, thiếu công bằng xã
hội, vi phạm nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa và những tệ nạn quan
liêu, độc đoán dần dần hình thành cơ chế quan liêu độc đoán với những tầng
lớp đặc quyền, đặc lợi đã gây nên sự bất mãn của nhân dân, làm cho đất nước
dần dần lâm vào tình trạng “trì trệ”, “tiền khủng hoảng”.
Trong bối cảnh đó, năm 1985, M.Goocbachôp lên nắm quyền lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Liên Xô, tiến hành công cuộc cải tổ nhằm sửa chữa những
thiếu sót và sai lầm trước đây, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và
xây dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân văn đúng như bản chất của nó.
Trong gần 6 năm, cuộc cải tổ chủ yếu được tiến hành về mặt chính trị, xã hội
như: thực hiện đa nguyên về chính trị (tức nhiều đảng - tức Đảng Cộng sản,
giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước Liên Xô), thực hiện dân chủ và công khai… Về
4
kinh tế, chính phủ Liên Xô cũng đưa ra nhiều phương án nhằm chuyển biến
nền kinh tế Liên Xô sang cơ chế thị trường nhưng trong thực tế, chưa thực
hiện được gì, trong khi đó các quan hệ kinh tế cũ bị phá vỡ mà các quan hệ
kinh tế mới thì chưa hình thành. Công cuộc cải tổ đã vấp phải rất nhiều khó

khăn trở ngại: sự suy sụp về kinh tế kéo theo những khó khăn về chính trị và
những tệ nạn xã hội; sự xung đột giữa các dân tộc và sắc tộc dẫn đến hiện
tượng li khai của một số nước cộng hoà ra khỏi Liên bang Xô viết (ba nước
Ban Tích, Grudia, Mônđôva…), sự chia rẽ và tách thành nhiều phe phái trong
nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, sự ngóc đầu dậy của các thế lực chống lại chủ
nghĩa xã hội với những hoạt động chống phá của nó v.v… Đất nước Liên Xô
đứng trước những khó khăn và thử thách nghiêm trọng chưa từng có.
Ngày 19 - 8 - 1991, một số người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Xô viết đã
tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Goocbachốp. Cuộc đảo chính bị
thất bại ngày 21 - 8 và đã gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với
đất nước Xô viết: Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động trong toàn
liên bang; chính phủ Xô viết bị giải thể; 11 nước cộng hoà tuyên bố độc lập,
tách khỏi liên bang; một làn sóng chống Đảng Cộng sản, chống chủ nghĩa xã
hội dâng lên khắp mọi nơi.
Ngày 21 - 12 - 1991, những người lãnh đạo 11 nước cộng hoà trong
Liên bang Xô viết đã kí hiệp định thành lập Cộng đồng các quốc gia độc
lập (tiếng Nga viết tắt là SNG), bao gồm: Nga, Ucraina, Bêlarut,
Cadăcxtan, Udơbêkixtan, Tatgikixtan, Cưrơgưxtan, Tuôcmênixtan,
Adecbaigian, Ác mênia, Mônđôva. Sự ra đời của SNG buộc Tổng thống
Liên Xô M. Goocbachốp phải từ chức ngày 25 - 12 - 1991, và cùng ngày
này, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống.
Như thế, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết, ra đời năm 1922, đã bị tan vỡ.
5
* Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu từ
cuối năm 1988 đến 1991
Năm 1985, Liên Xô đã bước vào cải tổ, tuy rằng quá muộn, nhưng các
nước Đông Âu vẫn chưa hề chuyển động: Anbani vẫn bảo thủ giữ nguyên
những cơ chế cũ của 30 năm trước đây và “khép kín cửa” đối với bên ngoài;
các nhà lãnh đạo Rumani, Cộng hoà dân chủ Đức, Bungari thì cho rằng nước

mình chẳng có gì sai sót để cải tổ hoặc cải cách; ở Ba Lan, ngay từ đầu những
năm 80, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đã trở nên căng thẳng, phức tạp; ở
Hunggari, Tiệp Khắc, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ráo riết tập hợp lực
lượng, chờ đợi cơ hội. Ở một số nước Đông Âu, hiện tượng tách rời quần
chúng và tha hoá của một số nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm biến dạng
chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này và làm nhân dân rất bất bình.
Ở Rumani, vợ chồng Xêauxexcu đã biến nhà nước xã hội chủ nghĩa
thành một chế độ độc tài “gia đình trị” với cuộc sống vương giả, sa đoạ. Ở
cộng hoà dân chủ Đức, Bungari, một số uỷ viên Bộ chính trị Đảng đã lạm
dụng quyền lực, hưởng thụ những đặc quyền đặt lợi để đến nỗi bị khai trừ
khỏi Đảng và truy tố trước pháp luật.
Cuộc khủng hoảng nổ ra sớm nhất ở Ba Lan, từ cuối năm 1988, sau đó
lan sang Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức, Rumani, Bungari,
Nam Tư, Anbani. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội, với sự tiếp sức của các
nước phương Tây, ra sức hoạt động, kích động công nhân bãi công, quần chúng
biểu tình, đấu tranh đòi Đảng và Nhà nước các nước Đông Âu phải cải cách kinh
tế, chính trị, thực hiện chế độ đa nguyên về chính trị, xoá bỏ độc quyền lãnh đạo
của một Đảng Cộng sạn, tiến hành tổng tuyển cử tự do… Những hoạt động trên
đây làm tê liệt mọi sinh hoạt của đất nước, đẩy chế độ xã hội chủ nghĩa lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng. Đảng và Nhà nước các nước Đông
Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xoá bỏ độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành tổng tuyển cử tự do.
6
Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu đã dẫn tới
những biến đổi lớn: Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc… quay trở lại đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa; Cộng hoà dân chủ Đức sáp nhập vào Cộng hoà liên
bang Đức để trở thành một quốc gia thống nhất với tên Cộng hoà liên bang
Đức; hầu hết các đảng của giai cấp công nhân ở các nước Đông Âu đều đổi
tên đảng và chia rẽ thành nhiều phe phái, nhiều tổ chức với tên gọi khác nhau;
tên nước, quốc kì, quốc huy và ngày quốc khánh đều phải thay đổi lại.

Đây là một bước thụt lùi và một thất bại nặng nề của chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội trên thực tế
không còn tồn tại nữa. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vào cuối những năm 80 - đầu những năm 90
của thế kỷ XX không phải là tất yếu. Đây là sự kiện bi kịch lịch sử mà những
người cộng sản và nhân dân lao động toàn thế giới còn phải tiếp tục suy ngẫm
nhiều để từ đó rút ra những bài học cần thiết, sâu sắc về lý luận và thực tiễn.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp
đổ, nhiều nhà chính trị phản động và cơ hội đã coi Cách mạng Tháng Mười là
"một sai lầm của lịch sử", là "một cuộc cách mạng đẻ non". Hoàn toàn không
phải như vậy ! Bất kỳ sự kiện lịch sử nào cũng đều có nguyên nhân của nó.
Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra trong điều kiện khác với điều kiện mà Mác
dự đoán, nhưng lại nổ ra ở nơi mà giai cấp công nhân và chính đảng của nó đã
chuẩn bị đầy đủ và là nơi tình thế cách mạng đã chín muồi. Chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô đã phát triển với những thành tựu căn bản và rực rỡ mà đỉnh cao
của nó đã đạt được vào những năm 70 của thế kỷ XX. Vào thời kỳ đó, chủ
nghĩa xã hội đã biết đặt ra và giải quyết những vấn đề cốt lõi nhất của mình ở
một quy mô rộng lớn. Nhưng để củng cố những thành tựu đó, chủ nghĩa xã
hội cần phải phát triển theo chiều sâu, điều mà về mặt nhận thức lúc đó đã quá
rõ ràng. Chính sự chậm trễ trong việc phát hiện và khắc phục những thiếu sót,
khuyết tật của mô hình cũ về chủ nghĩa xã hội đã làm cho chủ nghĩa xã hội bắt
7
đầu lâm vào khủng hoảng cũng từ đỉnh cao những năm 70 ấy, khi xã hội Xô-viết
đã mất động lực đổi mới về cả lý luận lẫn thực tiễn trên nhiều vấn đề cơ bản.
Kế hoạch hóa kinh tế là phát minh của chủ nghĩa xã hội và ngày nay nó trở
thành giá trị của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội đã đưa ra và thực thi một mô hình phát
triển kinh tế có kế hoạch khi thế giới còn bị thống trị bởi sự hỗn loạn của kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa tự do cạnh tranh, của khủng hoảng định kỳ và đại khủng
hoảng, của tình trạng tất cả phó thác cho "bàn tay vô hình" của thị trường. Nền kinh
tế kế hoạch hóa đã chứng minh ưu thế của nó ở tính tổ chức, sự cân đối, khả năng

huy động cao nhân tài vật lực cho những nhu cầu lớn của nhà nước và xã hội.
Nhưng mặt khác, cơ chế kế hoạch hóa tập trung không có khả năng giải quyết tất cả
mọi vấn đề, đặc biệt là các vấn đề kinh tế liên quan đến đời sống văn hóa tinh thần
đa dạng và tinh tế của toàn xã hội. Vì vậy việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp đã cản trở tính năng động, sáng tạo của người lao động. Họ trở
nên thờ ơ với sở hữu công cộng, thờ ơ với các phong trào thi đua hình thức mà
quyền lợi mang lại nặng tính chất bình quân chủ nghĩa. Người lao động trở nên kém
sáng kiến, thụ động. Nền chính trị Xô-viết mang lại cho nhân dân các quyền rộng
lớn. Nhưng các quyền này không được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn. Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa dành cho đại đa số nhân dân lao động đã bị biến dạng, quyền
lực chính trị bị tách xa nhân dân, nhân dân trở nên bàng quan với chính trị.
Cho đến ngày Liên Xô sụp đổ, Đảng Cộng sản Liên Xô có gần 18 triệu
đảng viên. Cùng với Đảng Cộng sản Liên Xô còn có các tổ chức cộng sản
khác như Đoàn thanh niên Côm-xô-môn, Công đoàn Liên Xô, cùng với lực
lượng vũ trang, an ninh là những tổ chức chiến đấu của Đảng. Đảng Cộng sản
Liên Xô là đảng mác-xít - lê-nin-nít kiểu mới - đảng tiền phong chiến đấu.
Đảng viên của Đảng thực sự là những tấm gương hy sinh phấn đấu quên mình
trong đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước.
Nhưng khi chủ nghĩa xã hội đã phát triển lên một giai đoạn mới - giai đoạn
phát triển theo chiều sâu, khi tình hình đang thay đổi về chất, thì bộ máy của
8
Đảng trở nên cồng kềnh, quan liêu, kém nhạy bén, trong Đảng xuất hiện tầng
lớp đặc quyền đặc lợi đối lập với số đông đảng viên bình thường. Đến lượt
mình, những công lao của các thời kỳ trước làm cho nhiều đảng viên trở nên
"kiêu ngạo cộng sản" với quần chúng. Đúng như V.I. Lê-nin từng viết : Tất cả
những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao
tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt
không dám nói lên những nhược điểm của mình"
(1)
. Các mối quan hệ đẳng

cấp trong Đảng làm cho trong Đảng cũng mất dần tinh thần dân chủ của các
thời kỳ cách mạng. Từ đó Đảng mất khả năng tự đổi mới, mất chỗ dựa to lớn
của mình là quần chúng công - nông. Đảng Cộng sản - bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp công nhân - đã bị mất sức chiến đấu, bị tê liệt ý chí ; còn
đảng viên bị mất hết bản lĩnh chính trị, thậm chí một số người trở nên cơ hội.
Kết quả là, một đảng mặc dù lớn như vậy đã bị tan rã bởi một lời tuyên bố và
bị đặt ra "ngoài vòng pháp luật" trong một trò chơi chính trị.
Điểm yếu của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu là ở chỗ nó
không được chuẩn bị đầy đủ và có hệ thống về mặt lý luận ; bệnh giáo
điều về lý luận đã làm cho tư duy chính trị bị xơ cứng. Nó còn bị tâm lý
phản kháng bất bình, với những động cơ cả tiêu cực lẫn tích cực vốn bị
dồn nén qua hàng chục năm, chi phối. Những tâm lý này lại được sự kích
thích bởi kẻ thù của Liên Xô cả bên trong lẫn bên ngoài với phương châm
"càng xấu càng tốt", cộng thêm sự phản bội của những người đứng đầu
trong ban lãnh đạo của Đảng đã làm cho việc sửa chữa những khuyết tật
của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết biến thành việc phá bỏ toàn bộ mô
hình đó. Mà phá bỏ mô hình đó cũng đồng nghĩa với phá bỏ chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Liên Xô. Phá bỏ Nhà nước Xô-viết đối với kẻ thù của nó
vừa là phá bỏ chủ nghĩa xã hội vừa là tiêu diệt một đối thủ chính trị chiến
lược, một đối trọng quyền lực trên trường chính trị và quân sự quốc tế, tạo
ra thế đơn cực dưới sự thống trị của Mỹ.
9
Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa làm cho
chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Nó buộc những người xã hội
chủ nghĩa và các đảng của họ phải tìm kiếm hình thức mới, nội dung mới cho
chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chủ nghĩa xã hội phát triển trong lòng nhân loại, hấp
thụ tinh hoa nhân loại và nở hoa kết trái cho nhân loại. Sự thất bại hay sự biến
dạng của chủ nghĩa xã hội nơi này hoặc nơi khác không phải do bản chất của
chủ nghĩa Mác-Lênin Cách mạng Tháng Mười không chịu trách nhiệm về
những sai lầm chủ quan của các nhà lãnh đạo sau đó. Chủ nghĩa xã hội thế

giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đang theo xu hướng tiến lên phía trước
tuy phải trải qua con đường quanh co phức tạp, thậm chí có bước thụt lùi tạm
thời. Bất chấp những chẩn đoán và dự báo khác nhau về thời cuộc và tương
lai, chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục cuộc hành trình táo bạo, đầy thử thách. Lý
tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn là bất diệt, vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ
đang hướng tới.
2. Những sai lầm trong nhận thức và vận dụng các nguyên lý chủ nghĩa
Mác-Lênin trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Có thể nói rằng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã xảy ra
nghịch lý: một mặt các Đảng cộng sản nói rất hay về chủ nghĩa duy vật, về
phép biện chứng của Mác, nhưng mặt khác trong tư tưởng và trong hành động
lại biếu hiện rất rõ chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình.
Mác viết: "Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của
họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ"
(2)
. Ấy thế
nhưng có lúc các Đảng cộng sản đã cho rằng có thể xây dựng sớm con người
mới không phải chờ đến sau khi đã có sự phát triển cao của nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, rằng trong chặng đường đầu tiên này vẫn có thể bước đầu
tạo ra một xã hội đẹp đẽ về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã
hội trong đó nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật
chất vẫn chưa cao.
10
Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên" và ông nhấn mạnh rằng không thể dùng sắc
lệnh để xoá bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó. Trong thực tế, những
người mácxít có "trung thành tuyệt đối" với những lời căn dặn đó không?
Không, ngược lại họ đã phạm rất nhiều sai lầm từ việc đánh giá tình hình đến
việc xác định mục tiêu và bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ đã
cường điệu tính tự giác và vai trò của nhân tố chủ quan, của kiến trúc thượng

tầng và của ý thức xã hội đến mức xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa duy
vật. Trong quá trình cải tổ, cải cách và đổi mới, hầu hết các đảng cộng sản
đều đã phải thừa nhận mắc sai lầm chủ quan, duy ý chí.
Mác nói rằng con người làm ra lịch sử của mình, nhưng không thể hành
động tùy tiện, bất chấp quy luật. Ở các nước xã hội chủ nghĩa người ta thường
nói rất nhiều đến đủ các loại quy luật, phát hiện ra rất nhiều quy luật hoặc
những vấn đề có tính quy luật, những sai lầm nghiêm trọng và phổ biến lại là
không tôn trọng và hành động không theo quy luật khách quan. Cái gọi là
những tính quy luật phổ biển của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ngày nay ít được nhắc đến. Cái gọi là những quy luật kinh tế
của chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là sản phẩm của ý muốn chủ quan.
Mác nói tư tưởng mà không gắn với lợi ích thì tư tưởng đó tự bôi nhọ
mình. Thế nhưng ở các nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng thường được quan
tâm nhiều hơn so với lợi ích nhất là lợi ích cá nhân. Ai nói đến lợi ích cá nhân
có thể bị coi là mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân xấu xa. Chính vì thế mà trước đây
chúng ta bàn nhiều vê động lực của sự phát triển xã hội, nhưng xã hội tiến rất
chậm vì bỏ quên mất động lực mạnh nhất là lợi ích và cũng do đó không phát
huy được tính tích cực cá nhân. Thật là sai lầm nếu tưởng rằng chủ nghĩa xã
hội có thể được xây dựng chỉ cần dựa trên nhiệt tình của quần chúng, mà
không cần quan tâm đến lợi ích của họ.
11
Mác đã có công phát hiện ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, nhưng một số nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào tình trạng sùng
bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, coi nhẹ vai trò của quần
chúng nhân dân. Một điều gần như nghịch lý là có nhà lãnh đạo hay nói
những điều cao siêu về đạo đức, ba hoa về lối sống xã hội chủ nghĩa cao đẹp
nhưng trong thực tế lại vi phạm thô bạo những tiêu chuẩn tối thiểu của đạo
đức và do đó bị mất uy tín đối với quần chúng nhân dân.
Mác viết: "Vấn đề tìm hiểu xem tư tưởng con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay không, không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề

thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý "
(3)
.
Nhưng có điều lạ lùng là có những người đem tuyệt đối hóa một lý thuyết nào
đó, rồi lấy nó làm thước đo để đánh giá đúng sai của các lý thuyết khác.
Chính do sự tuyệt đối hóa như vậy nên mới có hiện tượng "tiếp tục bám lấy
cái lý luận ngày hôm qua", ít chú trọng đến cuộc sống sinh động. Cũng chính
do không lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, thêm vào đó là do sự sùng
bái cá nhân lãnh tụ nên mới nảy sinh hiện tượng "phàm là".
Ănghen viết: "Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến"
(4)
.
Người ta thường nói về phép biện chứng nhưng lại không thừa nhận mối liên hệ
biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, đặt hàng rào ngăn cách
giữa hai hình thái kinh tế-xã hội đó, phủ định sạch trơn những thành tựu của chủ
nghĩa tư bản và phê pháp những người có ý định học tập chủ nghĩa tư bản.
Theo chủ nghĩa Mác thì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ
biến, không có sự vật, hiện tượng nào không có mâu thuẫn, không có lúc nào
không có mâu thuẫn nhưng nhiều năm chúng ta lại chỉ phân tích những mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản, còn hầu như không đề cập đến những mâu thuẫn
của chủ nghĩa xã hội, hoặc nếu có cập đến thì lại cường điệu mặt thống nhất.
Ngày nay, chúng ta nói đến đổi mới thì trước hết là phải tôn trọng các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà trong nhiều năm chúng ta đã
12
nhận thức không đúng, không thật sự tôn trọng và do đó không suy nghĩ và
hành động theo các nguyên lý đó. Đồng thời, chúng ta kiên quyết chống lại
việc biến học thuyết của Mác thành giáo điều, thành một thứ tôn giáo. Để tránh
tuyệt đối hóa và giáo điều hoà chúng ta luôn luôn phải đặt những luận điểm của
Mác trong những điều kiện lịch sử - cụ thể khi ông nêu ra các luận điểm đó.
Cũng phải nói rằng trong hệ thống lý luận của Mác có nhiều vần đề còn để ngỏ,

vì lúc đó chưa có đủ điều kiện để Mác có thể nghiên cứu đầy đủ và đi đến
những kết luận cuối cùng. Có những vấn đề Mác mới chỉ nêu ra những suy
nghĩ ban đầu, những gợi ý, những dự đoán đòi hỏi các thế hệ sau phải tiếp tục
nghiên cứu, giải quyết. Chủ nghĩa Mác phải được bổ sung và có khi phải tự
phủ định điểm này hay điểm khác, và chỉ có như thế nó mới có sức sống. Ngay
từ khi Mác và Ănghen còn sống, các ông đã luôn luôn tự phê phán, vạch rõ
những sai lầm đưa ra trước đó và nhấn mạnh sự cần thiết phải thay thế bằng
những luận điểm mới cho phù hợp với sự biến đổi của tình hình.
Có lúc Mác và Ănghen đã dự đoán rằng cách mạng vô sản ở Châu Âu
nhất định sẽ nổ ra nhanh chóng. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Vì
thế Ănghen đã thừa nhận: "Lịch sử đã chứng minh rằng chúng tôi và tất cả
những ai nghĩ giống như chúng tôi đều sai lầm. Lịch sử đã chỉ rõ rằng trạng
thái phát triển kinh tế trên lục địa lúc bấy giờ còn rất lâu mới chín muồi để
xoá bỏ phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa"
(5)
. Lê nin cũng nhận xét:
"Đúng, Mác và Ănghen đã lầm nhiều và thường lầm khi phán đoán cách
mạng sắp nổ ra trong khi hai ông hy vọng cách mạng sẽ thắng lợi (chẳng hạn
năm 1848 ở Đức)"
(6)
.
Sự cần thiết phải bổ sung các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ vì trong hệ thống lý luận của Mác - Lênin có nhiều vấn đề còn để
ngỏ, mà còn vì thế giới ngày nay đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc đặt
ra những thách thức mới đối với triết học Mác. Cuộc khủng hoảng toàn diện ở
hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
13
ở Liên xô và Đông Âu đặt ra yêu cầu phải nhận thức lại cơ sở lý luận của chủ
nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đặt ra nhiều vấn
đề mới đòi hỏi triết học phải lý giải. Cuộc cách mạng đó đã dẫn đến sự phát

triển to lớn của lực lượng sản xuất, làm thay đổi phương hướng phát triển kinh
tế và cơ cấu tiêu dùng đồng thời thúc đẩy mọi nền kinh tế cơ cấu lại. Việc giải
quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại như vấn đề chiến tranh và hòa bình,
vấn đề sinh thái và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vấn đề dân số và bệnh tật,
cũng đòi hỏi sự tham gia của triết học. Những hiện tượng mới trong lĩnh vực
kinh tế và xã hội như: xu thế hợp tác giữa các nước ngày càng tăng, sự hình
thành các công ty xuyên quốc gia, sự xung đột về tôn giáo và dân tộc cùng với
nhiều vấn đề quan trọng khác nữa đang đòi hỏi phải được lý giải về mặt triết
học. Sự phát triển mạnh mẽ của các môn khoa học cụ thể cùng những thành tựu
mới mẻ và to lớn của chúng cũng đòi hỏi triết học phải tiếp thu, làm phong phú
thêm cho bản thân mình, mật khác cũng phải xác định ranh giới và mối quan hệ
giữa các môn khoa học ấy với triết học. Sự nghiệp đổi mới ờ nước ta đang đặt
ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần có sự lý giải về mặt triết học.
Đứng trước những thách thức nói trên, nhiệm vụ của các đảng cộng sản
không phải là đi tìm câu trả lời có sẵn trong các tác phẩm kinh điển, mà chính
là vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của học thuyết Mác-Lênin để
trả lời những vấn đề mới mà thời đại hiện nay đặt ra, nêu những giá trị cần
bảo vệ và phát triển sáng tạo, những khiếm khuyết cần được sửa đổi hoặc bổ
sung, những điều sai lầm cần loại bỏ.
Trật tự thế giới mới đang hình thành thay thế cho trật tự cũ. Nguyên
nhân quan trọng nhất dẫn đến những biến đổi an ninh - chính trị hiện nay là
sự mất đi của trật tự cũ hai cực Xô Mỹ và đồi đầu Đông-Tây với ý thức hệ là
giới tuyến. Tính chất hòa hoãn, hòa dịu và hợp tác ngày càng chiếm ưu thế
trong quan hệ quốc tế. Trật tự cũ mất đi đẻ ra yêu cầu phải lập lại trật tự mới.
Do đó, đang diễn ra cuộc cạnh tranh giành vị trí trên bàn cờ quyền lực quốc tế
14
mới. Nguy cơ hủy diệt của vũ khí hạt nhân, kinh nghiệm đau xót của hai cuộc
thế chiến và những trả giá trong những tháng năm đối đầu đã khiến chúng ta
ngày càng tiến đến nhận thức hòa bình chính là an ninh trong một thế giới đầy
rẫy cạnh tranh. Có lẽ trong lịch sử loài người, chưa có khoảng thời gian nào

mà lại tập trung nhiều biến đổi to lớn, đa dạng, phức tạp và có ảnh hưởng sáu
sắc tới đời sống nhân loại như mấy năm gần đây. Chúng ta đang sống ờ một
thời điểm dồn dập các sự kiện, cái cũ chưa kịp mất đi trong khi cái mới chưa
kịp định hình. Có thể nói nhiều biến đổi đã diễn ra mà khi sinh thời Mác
không thể nào hình dung nổi. Chúng ta là những người được chứng kiến và
sống trong những sự kiện đó, vì thế chính các Đảng Cộng sản phải nghiên cứu
và rút ra những kết luận cho mình.
3. Công cuộc đổi mới, sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước b¾t ®Çu tõ
n¨m 1986. §ổi mới ở nước ta có những nét đặc thù riêng. Đổi mới ở nước ta
diễn ra từ hai chiều: "từ dưới lên", tức là ở các hợp tác xã, doanh nghiệp và
"từ trên xuống", tức là các quyết định của Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ hai
chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra không có sự xung đột
giữa "phía trên" và "phía dưới", cũng như không có các "cú sốc" được tạo ra
bởi các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng rắn và duy ý chí
của bộ máy lãnh đạo "phía trên" như ở một số nước khác. Đó là đặc điểm nổi
bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam. Nói một cách khái quát, đặc điểm nổi
bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam là, vừa có sự sáng tạo của nhân dân ở cơ
sở, vừa có sự lãnh đạo từ trên xuống. Do vậy, đổi mới ở nước ta đã dẫn đến
những thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam, nhu cầu đổi mới
các chính sách trước hết xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là
hệ quả của những biến động chính trị. Đổi mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản
15
Việt Nam đề xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Ngay từ đầu, Đảng ta đã
xác định, đổi mới không phải là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà chính là để có
chủ nghĩa xã hội nhiều hơn, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội nước ta trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

Đổi mới ở nước ta không phải là chuyển từ mô hình cũ sang một mô
hình đã có sẵn lấy từ một nước nào đó, mà là quá trình xóa bỏ các yếu tố của
mô hình cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ
thể của nước ta.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam không phân chia thành các giai đoạn - giai
đoạn chuẩn bị lý luận về đổi mới và giai đoạn áp dụng lý luận đó vào thực tế,
mà là quá trình vừa khái quát lý luận từ thực tiễn đổi mới, vừa áp dụng lý luận
ấy vào cuộc sống.
Tư duy lý luận đổi mới của nước ta được hình thành không chỉ từ việc
đúc kết kinh nghiệm của bản thân nước ta, mà còn được đúc kết từ những
kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước xã hội chủ nghĩa
khác.Đổi mới ở Việt Nam là một quá trình kết hợp biện chứng giữa đổi mới
tư duy lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Trong quá trình đó, cái mới và
cái cũ xen kẽ nhau; cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần và có nơi, có lúc còn
chiếm ưu thế so với cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần được
khẳng định và đưa tới thành công. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở
nước ta là luôn luôn lấy sự ổn định chính trị – xã hội làm tiền đề, làm điều
kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới phát triển và chính sự phát triển lại tạo
ra sự ổn định mới. ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình đổi
mới: Ổn định để phát triển và có phát triển mới có ổn định vững chắc hơn.
Văn kiện Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: "Đối với nước ta, đổi mới
đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống
còn Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy"
(7)
. Đại hội XI cña
16
Đảng tiếp tục khảng định: Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ
với chất lợng và hiệu quả cao hơn; dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế trí thức;

Chỳng ta ang sng trong thi i quỏ t ch ngha t bn lờn ch ngha
xó hi trờn phm vi ton th gii, c m u t Cỏch mng Thỏng Mi
Nga v i. Sut hn 80 nm, ch ngha xó hi di ỏnh sỏng soi ng ca
hc thuyt Mỏc, ó t c nhng thnh tu to ln v nhiu mt, gúp phn
lm thay i i sng cỏc dõn tc trờn hnh tinh.
Tuy nhiờn, lch s thng rt phc tp, khụng theo con ng thng tp,
m tri qua nhng khỳc quanh. H thng xó hi ch ngha sau mt giai on
phỏt trin mnh m, do nhiu nguyờn nhõn khỏch quan v ch quan ó tm i
vo thoỏi tro. Nhng ngi i ch vi ch ngha xó hi, i ch vi ch
ngha Mỏc coi õy l "thi c vng", ra sc bỏc b ch ngha Mỏc, bỏc b ch
ngha xó hi. H rờu rao "ch ngha Mỏc ó li thi", "ch ngha xó hi v
ch ngha cng sn khụng phi l ớch m loi ngi hng ti", "nn vn
minh tin hc khụng dung np ch ngha xó hi", "ch ngha Mỏc l sn phm
ca nn vn minh c khớ, nú ch thớch hp th k XIX, ch khụng phự hp
vi thi i ngy nay", "s sp ca ch xó hi ch ngha mt mng
ln trờn th gii, chng t ch ngha Mỏc - Lờ-nin l mt sai lm" Nhng
lun iu i ch thiu cn c khoa hc y ca h ó khin nhiu ngi dao
ng, mt phng hng, gim lũng tin vo con ng xó hi ch ngha. ú
chớnh l thỏch thc ln nht i vi ch ngha Mỏc hin nay. Vỡ th, vic bo
v v phỏt trin ch ngha Mỏc l nhim v quan trng, bc thit ca chỳng ta
hin nay.
Sc sng ca hc thuyt Mỏc th hin nhiu lnh vc, nhng bao trựm
ch nú gii ỏp nhng vn m t tng tiờn tin ca loi ngi t ra, soi
sỏng cỏc nhim v lch s ó chớn mui ca nhõn loi, ú l nhim v gii
17
phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, khỏi mọi sự tha hóa của con
người. Sức sống của học thuyết Mác cũng được thể hiện trong thực tiễn đời
sống xã hội hiện đại, mặc dù đời sống xã hội trải qua những thăng trầm,
quanh co, khúc khuỷu, song vẫn không ra ngoài những quy luật phổ biến đã
được trình bày một cách khoa học, sáng rõ trong học thuyết Mác, mặc cho

người ta thừa nhận hay không thừa nhận điều đó. Cho nên, nếu không có học
thuyết Mác, sẽ không hiểu được chủ nghĩa tư bản hiện đại, không hiểu được
xu hướng biến đổi và phát triển của thời đại ngày nay. Vì vậy, chừng nào chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, chừng nào nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới chưa hoàn thành thì
chủ nghĩa Mác - lý luận về sự giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động các dân tộc vẫn còn giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn.
Tuy nhiên, khoa học và thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển nên học
thuyết Mác cũng không ngừng được bổ sung, phát triển. Chủ nghĩa Mác là
một hệ thống "mở", một khoa học phát triển về sự phát triển thế giới và xã hội
loài người. Cho nên, không ngừng phát triển chủ nghĩa Mác vừa là yêu cầu
của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu nội tại của bản thân học thuyết Mác. Bởi
vậy một cách khách quan có phát triển và thông qua phát triển, chủ nghĩa Mác
mới tự bảo vệ và phát huy sức mạnh đối với thời đại. Trong bối cảnh quốc tế
diễn biến phức tạp hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định sự trung thành của mình với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đồng
thời đề ra nhiệm vụ phải bảo vệ và phát triển nó một cách sáng tạo.
Để làm được điều đó, chúng ta phải làm sáng tỏ những vấn đề về các đặc
điểm chủ yếu, các xu hướng của thời đại và những vấn đề đặt ra đối với chủ
18
nghĩa Mác - Lê-nin, những giá trị và yêu cầu phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-
nin trong thời đại ngày nay.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã thực sự là ngọn đuốc soi
đường cho tiến trình cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn thử thách để đi

từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông - Nam
Á, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng bọn
tay sai của chúng; giành lại độc lập chủ quyền của dân tộc; những thành tựu
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã khẳng định tính
đúng đắn, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với con đường cách mạng Việt Nam, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết của
nhân dân Cu-ba, nhân dân Mỹ - La-tinh và nhân dân tiến bộ thế giới với nhân
dân Việt Nam.
Trước tình trạng khủng hoảng chung của chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã xác định, đối với Việt Nam đổi mới là
yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng và là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Nhưng muốn đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải nắm vững bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, đổi mới dựa trên lý luận chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không đổi màu, vẫn kiên trì
mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới vẫn giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy nội lực kết hợp với sức
mạnh của thời đại. Đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt,
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
19
Đổi mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,
tổ chức thực hiện. Ngay từ đầu, Đảng xác định đổi mới không phải là từ bỏ
chủ nghĩa xã hội mà chính là để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn, từng bước xây
dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội Việt Nam trên cơ
sở đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn,
hầu như các nước đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Những kinh

nghiệm cải tổ, cải cách của các nước đều là sự gợi mở cho Việt Nam trong
việc tìm tòi con đường đổi mới. Vì vậy, những tư duy lý luận đổi mới của
Việt Nam được hình thành không chỉ từ việc đúc kết kinh nghiệm của bản
thân mình mà còn được đúc kết từ những kinh nghiệm thành công và không
thành công của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đổi mới ở Việt Nam là quá trình kết hợp biện chứng giữa đổi mới tư duy lý
luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn; là sự thống nhất hai chiều "dưới lên" và
"trên xuống"; là sự gặp gỡ giữa ý Đảng với lòng dân. Điểm nổi bật của công
cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề,
làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới phát triển và chính sự phát
triển đã tạo ra sự ổn định mới ở cấp độ cao hơn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa diễn
ra tại Hà Nội đã tổng kết những thành tựu 25 năm đổi mới. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc
được củng cố, tăng cường, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng sáng tỏ hơn
20
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đó chứng tỏ đường lối đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, thể hiện sự trung thành và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ rõ những yếu kém của
Việt Nam cần khắc phục. Đó là sự phát triển kinh tế chưa vững chắc. Năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa
được giải quyết. Tình trạng quan liêu tham nhũng, lãng phí tiêu cực còn khá
nặng nề. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần được tăng cường nhằm nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới.
Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đại hội X đã rút ra một số bài học kinh
nghiệm lớn.
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, có hình thức và
cách làm phù hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, và luôn nhạy bén
với cái mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Tiếp tục quán triệt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng
con đường cách mạng Việt Nam, trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội
XI của Đảng khẳng định toàn Đảng, toàn dân tranh thủ thời cơ, vượt qua
thách thức, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ phát triển nhanh, bền
21
vững thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, c«ng b»ng văn
minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Tăng cường quốc phòng và an
ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy sức mạnh

đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các
đoàn thể nhân dân. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Mặc dù đã hơn 150 năm, nhất là sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu tan rã, lịch sử thế giới đang ở trong một "khúc quanh" phức
tạp của sự phát triển, song chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn tỏ rõ sức sống của
mình trong đời sống hiện thực. Những giá trị tinh thần, tính khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngày càng được thực tiễn khẳng định về sự
đúng đắn, sức sáng tạo của nó. Đối với cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác -
Lê-nin luôn luôn là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động. Đó là nhân tố quyết định, bảo đảm mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Điều quan trọng là việc tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lê-nin phải với tinh thần sáng tạo, biết kế thừa, phát huy những luận điểm
trước đây và hiện nay vẫn đúng; biết sửa chữa những nhận thức sai về các
luận điểm đúng; biết vượt qua những luận điểm gì trước đây đúng nhưng nay
không còn phù hợp; những luận điểm gì mới cần được bổ sung vào lý luận do
thực tiễn mới đặt ra Tất cả đều phải biết vượt qua lối tư duy máy móc, sáo
mòn, rập khuôn một cách cứng nhắc. Đồng thời phải hết sức tránh mọi biểu
hiện xa rời, thoát ly chủ nghĩa Mác một cách cực đoan, máy móc dưới danh
nghĩa "đổi mới tư duy".
22
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết khoa học và cách mạng, nó
trang bị cho chúng ta thế giới quan, phương pháp luận tiến bộ, vì thế, đây là
vấn đề luôn luôn mới và việc nhận thức nó không ngừng phải nâng lên ở
những tầng bản chất sâu và cao hơn. Thực tiễn sự nghiệp cách mạng ở Việt
Nam đã chứng minh chủ nghĩa Mác - Lê-nin không thể thiếu được và bao giờ
nó cũng là ánh sáng soi đường, là nhân tố quyết định bảo đảm cho thắng lợi
cuối cùng. Có thể nói, nếu không có chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thì không có con đường giải phóng dân tộc, không có con đường cách

mạng đúng đắn của Việt Nam. Điều đó đặt ra cho những người cộng sản chân
chính Việt Nam nhiệm vụ không ngừng học tập, nghiên cứu để nắm vững,
vận dụng, bảo vệ và phát triển tích cực chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thời đại ngày nay.

23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mat - xcơ - va, 1978, t45,
tr141.
2. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993, t.13, tr.15.
3. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.3, tr.9-10.
4. C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004, t.20, tr.455.
5. C.Mác và Ph.Ănghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984,
tr.603.
6. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mat - xcơ – va, 1979, t.15,
tr.293-294.
24

×