Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

NGHIÊN cứu đại hội XIII của ĐẢNG chủ trương tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.72 KB, 11 trang )

Kính thưa tồn thể các đồng chí
Ngày 25-10-2013, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành
Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận
của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kế thừa và
phát triển nội dung chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới Nghị
quyết đại hội XIII của Đảng đã đề ra những chủ trương tăng cường
quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới, trong buổi báo cáo ngày hơm nay tơi truyền
đạt tới các đồng chí nội dung cơ bản nhất:
I. Sự cần thiết ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW
Thưa tồn thể các đồng chí
Dựng nước đi đơi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu
của dân tộc - bài học truyền thống quý báu của tổ tiên ta trong lịch sử.
Từ buổi đầu dựng nước, các Vua Hùng đã phải tiến hành một số cuộc
chiến tranh để giữ nước. Cách đây hơn 2000 năm, Thục Phán An Dương
Vương, đời Vua Hùng thứ 18 đã cho xây thành Cổ Loa, với trọng trách
là kinh thành, quân thành, thị thành đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Thành Cổ Loa giờ đây là di tích quốc gia đặc biệt; là di sản vật thể
vô giá, là biểu tượng giáo dục mọi thế hệ người Việt Nam luôn phải giác
ngộ một quy luật của lịch sử dân tộc: Dựng nước phải gắn chặt với giữ
nước!
Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã làm nên kỳ tích trong lịch
sử giữ nước của mình: Đánh thắng hai tên “hung nơ” của thế kỷ chính là
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất non sông
về một mối, đưa cả nước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, từ Đại hội IV đến
Đại hội XI, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc: Quy luật dựng nước đi đôi
với giữ nước trong lịch sử dân tộc đã chuyển thành quy luật xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng quy luật


này, Đảng ta đã xác định rõ phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI,


2

Đảng ta xác định phương hướng, nhiệm vụ chiến lược: Tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh
nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là
kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết
chuyên đề về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta. Trong đó, xác định
rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải
pháp thực hiện bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới của tình hình thế
giới, khu vực, hội nhập quốc tế.
II. Nội dung cơ bản của Nghị quyết
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là một nội
dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và
các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần
phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành
bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh khu vực gần đây cho
thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định của một quốc gia đều xuất
phát từ vấn đề nội bộ. Nếu tình hình nội bộ ổn định, đất nước phát triển,
đời sống nhân dân được đảm bảo và cải thiện thì lịng tin vào chế độ

được giữ vững và do đó các thế lực bên ngồi khơng có cớ và thời cơ để
can thiệp.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc
bao giờ cũng gắn liền với một chế độ chính trị nhất định; trong đó, dân
tộc có quyền lựa chọn cho mình một chế độ chính trị nhất định, chế độ
chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được bảo vệ. Ngược lại, nếu
chế độ chính trị khơng phù hợp, thì chính dân tộc đó sẽ quyết định việc
thay thế nó bằng một chế độ chính trị khác phù hợp hơn. Đối với dân tộc
ta, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn
giương cao ngọn cờ: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đã


3

giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chỉ có kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nước ta mới có độc
lập dân tộc thực sự và sự thực trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, chủ
nghĩa xã hội đã thể hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mơ hình này
chưa có tiền lệ trong thực tiễn và cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian
tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng
và trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân, nhất là đối
với kiều bào ta ở nước ngồi. Tuy nhiên, cịn có ý kiến khác nhau về mối
quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một số người cho rằng
không cần thiết phải gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Vậy nhận
thức đó đúng hay sai?
Cần thấy rằng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình
lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và ở đó chủ nghĩa xã hội
chưa thể hoàn chỉnh ngay được, ngay cả các đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội mà Đảng ta khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa phải đã thể hiện được đầy đủ.
Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải đầu tư nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
Đồng thời, khắc phục các hạn chế của nó, xây dựng chủ nghĩa xã hội
thực sự ưu việt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh sự cần
thiết phải gắn bó chặt chẽ giữa bảo vệ Tổ quốc với các yếu tố tự nhiên,
lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy có thể
khẳng định bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn dân, tồn
qn cũng phải ln kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta. Chừng
nào chúng ta xa rời mục tiêu đó, tức là tách rời độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội thì chừng đó sẽ chệch hướng và thất bại. Do đó, cần phải
quán triệt thật sâu sắc thật vững vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Ba là, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là
vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp bảo về Tổ quốc. Trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn
mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của


4

tồn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp
của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản
nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ
nước, Hồ Ngun Trừng đã nói: “Thần khơng sợ giặc mạnh, chỉ sợ lịng

dân khơng theo” và chính vì khơng được lịng dân nên mặc dù có thành
cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất
nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng
sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn
tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp
của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc địi
hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong
nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho
nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường
xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp
thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự
đồn kết, thống nhất trong Đảng, lịng tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tăng cường khối đại đoàn kết tồn dân tộc, bảo đảm ổn định chính
trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
Bốn là, giữ nước phải giữ từ thời bình. Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) đã khẳng định: “giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước”. Như vậy,
theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến tranh hoặc hoạt động liên
quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước tối ưu là
làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm
trên, chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa.
bảo vệ Tổ quốc từ xa không chỉ xét về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ
động chuẩn bị bảo vệ Tổ quốc ngay khi đất nước đang hịa bình và phát
triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh.
Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và khẳng định phải xây dựng


5


lực lượng vũ trang nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”, trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để
bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương
châm bảo vệ Tổ quốc là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục,
phịng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý
nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng
với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hịa bình,
trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh
là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ
trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở,
mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột,
chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; khơng để xảy ra bạo
loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh
thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền
thống của dân tộc ta. Phát huy truyền thống này, trong công cuộc đổi
mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về bạn, thù trước đây đến
việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có cách
nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa
đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn
với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có
mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác. Nhận thức biện chứng trong xác
định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp
tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực
hiện “trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần “quán triệt đường lối độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối

ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp
tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược
giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược,
các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu,
tránh bị cô lập, lệ thuộc”.


6

Sáu là, xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị,
lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân
dân, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta đều biết, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, trong đó có
sức mạnh quân sự, nhưng cần nhận thức đúng vai trò của sức mạnh quân
sự trong các giai đoạn của cách mạng để không quá đề cao hoặc coi nhẹ
sức mạnh này. Xét cho cùng, trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước
cũng phải thông qua sức mạnh quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên
chiến trường; cịn trong thời bình thì sức mạnh quân sự chính là khả
năng răn đe hiệu quả trong các tình huống quốc phịng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh việc
tăng cường sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của đất nước, vừa đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Để
xây dựng sức mạnh quân sự phải coi trọng nhiều yếu tố; trong đó, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực tiếp là Quân đội nhân dân
vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng, nâng cao chất
lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính
trị, bảo đảm cho lực lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng
chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây
dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến
đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại, nhất là một số vũ khí chiến lược;

nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm
soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh
thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú
trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực
lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; đồng thời, hoàn
thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an
nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
Kế thừa và phát triển chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những phương hướng,
nhiệm vụ cần phải thực hiện như sau: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng
hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình,
ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững


7

chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là mục
tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh nước ta hiện nay, sức mạnh bảo
vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là tồn dân, trong
đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Sức mạnh tổng hợp
trong bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: Chính trị,
quân sự, kinh tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, đối ngoại; Sức mạnh
của tồn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước
ngoài; Là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên
ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Cùng với việc khẳng
định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ Tổ quốc cũng cần tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Đây là một trong những

kinh nghiệm lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất
nước ta, nhất là trong điều kiện bối cảnh quốc tế hiện nay.
III. Chủ trương tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới được
xác định trong Nghị quyết đại hội XIII của Đảng.
Nghị quyết Đại hội XIII và sự phát triển về đường lối bảo vệ Tổ
quốc tuân thủ quy luật và kế thừa bài học truyền thống dựng nước đi đôi
với giữ nước, Ðảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đã thể hiện sâu sắc
sự phát triển của đường lối, quan điểm bảo vệ Tổ quốc được hun
đúc, kế thừa và phát triển qua 35 năm đổi mới và đáp ứng những
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
Kế thừa truyền thống giữ nước quý báu của dân tộc, trên cơ sở
quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng
thời, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua, Nghị
quyết đại hội XIII đã xác định: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ


8

Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an
ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an
ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện
sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ
gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch”. Đây là bước phát triển mới trong tư
duy của Đảng về phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa trong thời kỳ mới.
Kế sách giữ nước từ sớm, từ xa: Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ sớm,
từ xa của Đảng đã có sự phát triển mới. Đây vừa là quan điểm, vừa là
phương châm chỉ đạo của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng
về quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Nội hàm của bảo
vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là bảo vệ bên ngoài biên giới,
lãnh thổ, mà bao gồm cả bên trong; không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có
kẻ thù xâm lược, mà cịn là tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, chủ
động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phịng, an
ninh, đối ngoại..., ngay từ thời bình.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa còn bao hàm cả yếu tố
thời gian và không gian. Từ “sớm” có nghĩa nói về thời gian. Các yếu tố,
nội dung bảo vệ Tổ quốc đều được chủ động tiến hành từ sớm, từ trước,
duy trì thường xuyên, liên tục, về mọi mặt trong thời bình. Quá trình xây
dựng, củng cố, phát triển cũng là quá trình triển khai các biện pháp
phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm có nghĩa
là phải có chiến lược bảo vệ, tự bảo vệ bên trong; phòng chống, ngăn
ngừa, triệt tiêu các nhân tố phá hoại, mất ổn định bên trong lẫn bên
ngồi. Cịn “bảo vệ Tổ quốc từ xa” (không gian), được hiểu là cần chủ
động, cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các
nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Hiện nay, cần chủ động đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền, biển,
đảo, lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được xác định là


9

sự lựa chọn thơng minh nhất, phù hợp nhất, có lợi nhất. Đó là vấn đề cực
kỳ hệ trọng liên quan sự tồn tại và phát triển của đất nước.

Giữ nước từ khi nước chưa nguy: Nhìn lại chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, cha ông ta luôn lấy lợi ích quốc gia-dân
tộc làm trọng, đề ra kế sách “sâu rễ, bền gốc”, “giữ nước từ khi nước
chưa nguy”, coi đó là quy luật sinh tồn của dân tộc. Thượng tướng Thái
sư Trần Quang Khải (1241-1294), một danh tướng thời nhà Trần đã đúc
kết chân lý: “Thái bình tu trí lực/Vạn cổ cựu giang san” (Thái bình nên
gắng sức, non nước vững nghìn thu). Trên một vách đá trên núi ở Hịa
Bình đến nay cịn lưu dấu ấn bài thơ của vua Lê Thái Tổ viết dặn hậu
thế: “Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc ưng tu kế cửu an” (Biên
phịng cần có phương lược tốt, đất nước nên có kế lâu dài). Ông còn căn
dặn: “Nên sửa sang võ bị, để phòng việc khơng ngờ”. Các bậc tiền nhân
cịn thực hiện nhiều chính sách ngay trong thời bình để làm cho “dân
giàu, nước mạnh, “quốc phú, binh cường”, kết hợp chặt chẽ giữa việc
“binh” và việc “nông”, đẩy mạnh “khoan thư sức dân”. Khi đất nước
thanh bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản
xuất, phát triển kinh tế; khi có “biến” thì trập trung vào việc “binh”,
nhằm vừa giảm chi phí ni qn, vừa có lực lượng đánh giặc, bảo vệ
giang sơn bờ cõi. Cùng với việc ni dưỡng lịng dân, lấy dân làm gốc,
các triều đại phong kiến nước ta còn đẩy mạnh chiêu mộ, tuyển dụng
nhân tài, ban bố luật lệ, xây dựng chính quyền nhà nước vững mạnh, gắn
bó với dân, bảo đảm quyền hành chính trị tập trung, trên dưới đồng lịng
“phụ binh chi tử”. Kiên trì phương châm “nội yên, ngoại tĩnh”; chăm lo
xây dựng quân đội “quân cốt tinh không cốt đơng”; thực hiện chính sách
“ngụ binh ư nơng”, “cả nước là lính, tồn dân đánh giặc”. Bên cạnh đó,
ngay từ các triều đại phong kiến, nước ta đã thực thi chính sách “bang
giao hịa hiếu", mềm dẻo, khơn khéo “trong xưng đế, ngoài xưng
vương”, tránh “họa binh đao" cho đất nước, giữ yên biên thùy. Khi đất
nước bị xâm lăng, các triều đình phong kiến mỗi người dân phải cầm vũ
khí để tự vệ, nhưng vẫn thực hiện tư tưởng “không đuổi cùng diệt tận
những kẻ bại trận", “mưu phạt cơng tâm", đánh vào lịng người để mn

đời dập tắt chiến tranh. Đặc biệt, dân tộc ta đã sớm khẳng định độc lập,


10

chủ quyền lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở pháp lý đấu tranh, ngăn chặn âm
mưu xâm lược của ngoại bang: “Sông núi nước Nam Vua Nam ở/ Rành
rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm/ Chúng bay sẽ
bị đánh tơi bời”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa
nguy” của dân tộc ta tiếp tục được kế thừa và phát huy: "Các Vua Hùng
đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Người
căn dặn: "Bất kỳ hịa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ
động, thấy trước, chuẩn bị trước".
Kế thừa, Tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử
dân tộc, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, Đảng ta nhận thức rõ hơn về vai trò quan trọng của an ninh,
đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phịng; về nội hàm xây dựng nền
quốc phịng tồn dân; nhấn mạnh việc kiên trì đường lối quốc phịng
tồn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời
kỳ phát triển và hội nhập.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược
mới về quốc phịng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới; thể hiện
tính chủ động trong nắm, phân tích tình hình thế giới, khu vực, đất nước
và dự lường những phát triển trong thời gian tới của Đảng ta. Với mục
tiêu Xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, thực hiện “nước nhà
cường thịnh, giang sơn thêm vững bền”, “quốc phú, binh cường” là “kế
sách” bảo vệ Tổ quốc tích cực nhất, chủ động nhất và có hiệu quả nhất;

phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay.
Thưa tồn thể các đồng chí
Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đến Nghị quyết Đại hội XII, XIII


11

của Đảng đã khẳng định một hệ thống quan điểm mới của Đảng ta về
bảo vệ Tổ quốc với 7 nội dung khơng tách rời nhau:
1. Củng cố quốc phịng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ
“trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
2. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an
ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự,
kỷ cương.
5. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm,
từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là
những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
6. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hố, đa dạng hố; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn
diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định,
khơng ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

7. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Quan niệm trên là một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng
về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, khơng chỉ là sự tổng kết thực tiễn
quá khứ mà còn là dự báo chính xác những vấn đề của tương lai trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là quân nhân được đứng trong hàng
ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, mỗi chúng ta cần quán triệt
sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, Nghị quyết Đại hội XII, XIII
của Đảng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân xây dựng Quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại./.


12



×