Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số giải pháp nhằm phát huy hứng thú,tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong dạy phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 + 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 18 trang )

Mẫu số 05
Mã số

- Tên sáng kiến:
“Một số giải pháp nhằm phát huy hứng thú,tích cực, tự giác, sáng tạo
của học sinh trong dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 + 5”
- Lĩnh vực áp dụng: Môn Tiếng Việt lớp 4 - 5 cấp tiểu học
- Họ tên tác giả : Nguyễn Thị Mai Linh
- Đơn vị cơng tác : Trường Tiểu học Gia Khánh A

Bình Xun, tháng 02 năm 2021


Họ tên, chữ ký người chấm điểm, điểm

Mã số

Người số 1:……………………………………………………
Người số 2:……………………………………………………
- Mô tả sáng kiến:
* Cở sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, quá trình giáo dục đem lại cho con người sự hiểu
biết, vốn sống, vốn kiến thức phong phú làm hành trang giúp chúng ta bước vào
cuộc sống. Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú học, giờ dạy đạt hiệu quả cao,
học sinh chủ động sáng tạo trong việc khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. Nếu
học sinh thực sự u thích mơn học, chăm chú nghe giảng, nghĩa là có hứng thú
với mơn học thì nhất định kết quả mơn học đó sẽ cao, sẽ tốt. Hứng thú học tập là
động lực thúc đẩy q trình dạy học đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giờ
dạy. Qua việc tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập của học sinh, tôi thấy rằng:
hứng thú học tập có tác dụng tích cực đối với kết quả học tập của các em. Trong
các môn học bậc tiểu học, phần đa học sinh chưa hứng thú với môn Tiếng Việt


nhất là phân môn Luyện từ và câu. Có thể đây là phân mơn khó, kiến thức đa
dạng phong phú được coi là lý do khách quan mà các em chưa hứng thú học tập.
Một lí do khác khiến học sinh chưa hứng thú có lẽ trong các giờ học chưa phát
huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh.
* Cở sở thực tiễn:
Năm học 2019 - 2020 khi tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 5B
với tổng số học sinh là 39 em. Trong q trình giảng dạy phân mơn Luyện từ và
câu, tôi nhận thấy các em chưa hứng thú trong giờ học. Trong các tiết học, các
em chưa có kỹ năng dùng từ, đặt câu, chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các
biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, chưa biết cách dùng các từ ngữ gợi tả,
gợi cảm; vốn từ lại nghèo nàn. Các em chủ yếu tiếp nhận kiến thức một cách thụ
động do đó chất lượng học tập của cả lớp chưa tốt. Trước tình trạng đó, tơi ln
trăn trở làm thế nào để giúp các em u thích mơn học. Chính vì lẽ đó, tơi nhận
thấy việc giúp học sinh phát huy tính tích cực, sự hứng thú trong học tập là vô
cùng cần thiết. Do vậy tôi lựa chọn "Một số giải pháp nhằm phát huy hứng thú,


tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh trong dạy phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4+5 " để nghiên cứu và áp dụng đối với lớp của mình.
+ Nội dung của sáng kiến:
Sau đây là những giải pháp tôi đã áp dụng và đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Giải pháp thứ 1: Giúp học sinh tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức nhằm
phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh theo hướng "Thầy
thiết kế - Trị thi cơng ".
Người giáo viên giỏi về kiến thức thơi thì chưa đủ, người thầy cần có
phương pháp giáo dục sinh động, hấp dẫn giúp trị dễ dàng tiếp thu bài học, tạo
khơng khí gần gũi, thân thiện để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh. Việc tổ chức cho học sinh tự tham gia vào quá trình học tập sẽ giúp các
em có kĩ năng tự tìm tịi, nghiên cứu, khám phá và chiếm lĩnh kiến thức một
cách tự nhiên, hiệu quả, các em nhớ lâu kiến thức và cơ bản là rèn kĩ năng tự

học cho học sinh. Đây cũng chính là đổi mới cách dạy của thầy và cách học của
trò theo hướng : “ Thầy thiết kế - Trị thi cơng”. Nhờ sự dẫn dắt, giúp đỡ của
thầy mà các em đã lĩnh hội được các kiến thức, học sinh tự tìm tịi,chiếm lĩnh và
khám phá kiến thức dưới sự hỗ trợ khi cần thiết của giáo viên đồng thời phát huy
được một số năng lực và phẩm chất như: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực
giao tiếp và hợp tác nhóm, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực
ngôn ngữ cùng một số phẩm chất: chăm chỉ, trách nhiệm,.....
Ví dụ minh họa: Tiết Luyện từ và câu chủ đề: Trung thực - Tự trọng (Tiếng
Việt lớp 4 tâp 1 trang 48), giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu nghĩa của từ
trung thực trong một tình huống như: Trong giờ kiểm tra, Lan không làm bài
được, bạn bên cạnh đã làm xong và đưa cho Lan chép nhưng Lan nhất định
không chép. Sau khi học sinh đã nắm được nghĩa của từ, giáo viên cho học sinh
tìm thêm các từ trái nghĩa với từ trung thực và đặt câu. Tự liên hệ về bản thân
mình đã trung thực chưa?
Với cách dạy như vậy, giáo viên không những giúp các em khắc sâu kiến
thức mà còn giúp nâng cao khả năng mở rộng vốn từ của các em. Đồng thời tích
hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các bài học.


Tiết học Luyện từ và câu Lớp 5B
Với hoạt động tìm hiểu nghĩa của từ, để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt
kiến thức chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu
tầm, luyện tập vào văn cảnh cụ thể để nắm được nghĩa của nhóm từ đó.
Với hoạt động luyện tập - thực hành: Giáo viên tổ chức linh hoạt giữa hoạt
động cá nhân và hoạt động cặp đơi, nhóm nhằm kích thích, khơi dậy ở các em
hứng thú học tập bằng những việc như: Thường xuyên động viên, biểu dương
khen ngợi trước lớp khi các em hoàn thành sớm bài tập. Với các hình thức dạy
học như vậy học sinh được phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp
tác, chia sẻ trong nhóm, các em có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, giúp
đỡ lẫn nhau, góp phần vào việc giáo dục tồn diện nhân cách cho học sinh; được

rèn luyện cách học, cách tư duy; được tự học, hoạt động, trải nghiệm, hợp tác.


Học sinh hoạt động cặp đơi

Học sinh hoạt động nhóm

Giải pháp thứ 2: Thơng qua hoạt động trị chơi học tập để tạo hứng thú
học tập cho học sinh.
Mỗi trò chơi học tập hấp dẫn được tổ chức ở phần khởi động giới thiệu
bài, để thư giãn hay để truyền tải một kiến thức nào đó hoặc để kết thúc bài học.
Ngồi ra trị chơi học tập cịn có thể tổ chức trong các giờ ôn tập, tổng hợp kiến.
Qua đó học sinh sẽ khắc sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải mái mang tính
chất vừa học vừa chơi. Phần khởi động tạo hứng thú để vào bài học giáo viên
định hướng cho ban văn nghệ lên tổ chức hát bài hát hay chơi trị chơi có nội
dung liên quan đến kiến thức bài học. Kết thúc bài hát hoặc trò chơi, giáo viên
đặt vấn đề dẫn dắt vào bài học.
Giáo viên cũng nên chuẩn bị những phần thưởng nhỏ để động viên, khích lệ các
em khi tham gia trò chơi học tập.
Tổ chức trò chơi trong phần khởi động
Trị chơi: Diễn kịch câm.
Ví dụ bài: Lun tập về động từ (Tiếng Việt 4- Tập 1), giáo viên sẽ tổ chức
cho học sinh khởi động bằng một trò chơi “ Diễn kịch câm”.
Luật chơi: 2 nhóm cùng tham gia trị chơi. Nhóm A cử một người làm
động tác. Nhóm B quan sát và nêu 1 động từ chỉ hoạt động đó. Sau đó đổi lại,
nhóm A làm động tác, nhóm B đốn hành động của nhóm A. Đề tài và nội dung
chơi: Động tác trong học tập như: mượn sách đọc bài, viết bài, cất sách vở, phát


biểu ý kiến… Động tác khi vệ sinh cá nhân: đánh răng, rửa mặt, chải tóc...; vệ

sinh mơi trường như: quét lớp, lau bảng, kê bàn ghế….
Thời gian 3 phút kết thúc, nhóm nào diễn tả, thể hiện được nhiều hoạt động và
tìm được nhiều động từ hơn sẽ thắng cuộc. Từ những động tác học sinh vừa thể
hiện, giáo viên dẫn dắt, giới thiệu vào bài “Luyện tập về động từ”
Tổ chức trò chơi học tập trong phần Luyện tập, thực hành
Trò chơi : Ai nhanh? Ai đúng?
Trò chơi này sẽ kích thích học sinh tư duy nhanh, biết phối hợp nhịp nhàng với
nhau để hoàn thành đúng và nhanh nhất nhiệm vụ được giao.
Ví dụ 1: Học xong bài Danh từ, giáo viên có thể chia lớp thành 3 nhóm
đặt tên cho các nhóm và yêu cầu các nhóm thực hiện nhiệm vụ: Nhóm 1: nhóm
gia đình (tìm các danh từ chỉ các thành viên trong gia đình); Nhóm 2: nhóm
nghề nghiệp (tìm các danh từ chỉ nghề nghiệp); Nhóm 3: nhóm học tập (tìm các
danh từ chỉ đồ dùng học tập). Mỗi thành viên trong nhóm sẽ viết bảng nối tiếp
một danh từ của nhóm mình trong thời gian 2 phút. Với việc tổ chức trò chơi
như vậy tất cả các học sinh lớp tôi đều hứng thú tham gia, các em tìm được
nhiều danh từ cho nhóm mình và có thể học được nhiều danh từ của nhóm bạn.
Trị chơi: Tiếp sức
Khi dạy các bài Mở rộng vốn từ giáo viên có thể sử dụng trị chơi tiếp sức nhằm
khai khác vốn từ sẵn có của các em, rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thơng
minh. Ưu điểm của kiểu bài tập này giúp học sinh rèn luyện khả năng tư duy
ngôn ngữ và diễn đạt một cách linh hoạt đồng thời cũng cho các em rèn luyện
được cách viết câu hay và chính xác theo một chủ đề, chủ điểm cụ thể.
Luật chơi: Tổ chức cho các nhóm chơi với số lượng học sinh bằng nhau. Sau khi
giáo viên nêu ra một chủ đề, lần lượt từng thành viên của đội chơi sẽ ghi nhanh
các từ đó vào bảng của nhóm mình.Trong cùng một thời gian, nếu kết thúc đội
nào tìm chính xác được nhiều từ thì đội đó sẽ thắng cuộc.
Khi dạy bài: Mở rộng vốn từ Nhân dân. Giáo viên chia nhóm và yêu cầu
các nhóm đặt các câu khác nhau về chủ đề trên. (thời gian hoạt động là 4 phút).
Sau 4 phút học sinh các nhóm trình bày kết quả hoạt động. Nếu nhóm nào đặt



được nhiều câu đúng chủ đề và hay thì nhóm đó thắng cuộc.
Tổ chức trị chơi để củng cố nội dung bài học
- Với phần củng cố, giáo viên có thể cho các em chơi trò chơi để củng cố lại
nội dung bài vừa học
Trị chơi: Đóng vai
Ví dụ: Dạy bài: "Quan hệ từ" (Tiếng Việt 5 - tập 1): Giáo viên có thể cho
các em chơi trị chơi " Đóng vai "ở phần củng cố bài, 4 em lên đóng vai:
Học sinh A: Biểu thị quan hệ nguyên nhân – kết quả
Học sinh B: Biểu thị quan hệ giả thiết – kết quả
Học sinh C: Biểu thị quan hệ tương phản
Học sinh D: Biểu thị quan hệ tăng tiến
Giáo viên hướng dẫn cách chơi.
Học sinh C mang vai " Biểu thị quan hệ tương phản" hỏi: Tuy nhà xa
nhưng tớ vẫn cố gắng đi học đúng giờ . Vậy đố các bạn biết tớ biểu thị quan hệ
gì ?
Học sinh C có thể chỉ bất kỳ bạn nào trong lớp trả lời. Qua sự đóng vai đó
đã giúp các em có kĩ năng giao tiếp, giúp cho các em tập nói năng, lựa chọn, sử
dụng ngơn ngữ trong giao tiếp một cách tự nhiên, đồng thời rèn cho các em có kĩ
năng nói trước đám đơng. Làm được như vậy, giờ học sẽ có hiệu quả cao, học
sinh hứng thú học tập, đáp ứng mục tiêu cơ bản của mơn Tiếng Việt đó là "Giao
tiếp có hiệu quả".
Đặc điểm của học sinh Tiểu học là khi giáo viên tạo ra khơng khí sơi nổi, say
mê, thi đua trong học tập thì tất cả học sinh đều muốn thể hiện hết khả năng của
mình trước thầy, cơ và bạn bè. Các em coi đó là đích mà mình cần vươn tới.
Hứng thú của một cá nhân đan xen vào hứng thú tập thể với mặt tích cực của nó
là tiền đề không thể thiếu trong việc quyết định kết quả học tập của học sinh.
Trị chơi: Phỏng vấn
- Ví dụ: Củng cố bài "Câu ghép" (Tiếng Việt 5 - tập II) giáo viên cho 4 em
lên chơi trò chơi "Phỏng vấn"



Phóng viên sẽ hỏi:
+ Chào bạn! Bạn cho mình biết quê bạn ở đâu

?

+ Bạn hãy đặt một câu ghép để nói về q hương của mình nhé !
Kết quả: Mỗi học sinh sẽ kể về quê hương của mình qua một câu ghép,
khơng khí giờ học sơi nổi hẳn lên, các em nắm được bài và rất thích được bày tỏ.
Nội dung kiến thức tuy nặng hơn nhưng nó được giảm nhẹ qua trò chơi và đúng
là "Học mà chơi, chơi mà học" ngồi ra, cịn giúp các em lựa chọn, sử dụng
ngôn ngữ trong giao tiếp được tốt hơn.

Trị chơi: Phỏng vấn
Trị chơi: Chim sẻ giúp cơ Tấm
- Ví dụ: Sau khi học xong các bài về từ đơn, từ láy, từ ghép, giáo viên có
thể củng cố kiến thức cho học sinh thơng qua Trị chơi: “ Chim sẻ giúp cô Tấm”


Giáo viên tổ chức cho 2- 3 đội chơi. Mỗi đội 5 học sinh. Tùy theo số lượng
người chơi mà chuẩn bị số bộ thẻ chữ. Các thẻ chữ ghi các từ đơn, từ láy, từ
ghép
Cách tiến hành: Các thẻ chữ để lẫn lộn được xem là gạo, thóc, đỗ. Gạo,
thóc, đỗ ở đây cũng chính là các từ đơn, từ láy, từ ghép mụ dì ghẻ trộn lẫn với
nhau và bắt Tấm phải nhặt. Các thành vên trong đội đóng vai những chú chim sẻ
được Bụt sai xuống giúp cơ Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, đỗ ra đỗ, các đội
cùng chơi trong khoảng thời gian nhất định. Đội nào phân loại nhanh và đúng là
đội thắng cuộc, giúp cơ Tấm sớm được trẩy hội mùa xn.
Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức một số trị chơi học tập khác như: Trị chơi

Ghép đơi, Ong tìm chữ, Trị chơi ơ chữ, Hái hoa dân chủ, Truyền điện, ….
Giải pháp thứ 3: Giáo viên thể hiện sự quan tâm, tạo sự gần gũi đồng thời hỗ
trợ các hoạt động học tập của học sinh.
Trong giảng dạy, bằng nghệ thuật của mình, giáo viên ln quan sát nét mặt,
hành động, cử chỉ của học sinh và xem các em đã “sẵn sàng” thực hiện các
nhiệm vụ học tập chưa? Nếu thấy học sinh vui vẻ, nét mặt rạng rỡ, chăm chú
quan sát lắng nghe theo dõi bạn trình bày kết quả tức là các em đã hiểu nhiệm
vụ. Ngược lại nếu thấy nét mặt biểu lộ hoài nghi, ngơ ngác, chưa thực sự hiểu
nhiệm vụ thì giáo viên cần đến bên cạnh hỏi xem em đó đang gặp khó khăn gì
và hướng dẫn thêm cho em. Sự quan tâm, gần gũi của giáo viên dành cho học
sinh là vô cùng cần thiết. Tất cả chúng ta đều muốn được yêu thương và quan
tâm, học sinh của chúng ta cũng vậy. Một học sinh sẽ có động lực, hứng thú học
hơn khi được thầy cô quan tâm, ghi nhận những nỗ lực của mình. Đây cũng là
một trong những tiêu chí xây dựng "Trường học hạnh phúc" . Niềm hạnh phúc
được lan tỏa, thầy cô hạnh phúc, học sinh hạnh phúc sẽ tạo nên lớp học hạnh
phúc, trường học hạnh phúc.
Ngoài sự quan tâm, gần gũi dành cho học sinh thì giáo viên cũng nên tận
dụng nguồn lực hỗ trợ từ học sinh khá giỏi, nhóm trưởng có năng lực để trợ giúp


các hoạt động học tập trên lớp.Vậy làm sao để tránh học sinh trong nhóm khơng
ỷ lại nhóm trưởng? Giáo viên tách học sinh chậm tiến để hỗ trợ trực tiếp, giúp
các em tự tin, sau khi đã đạt mặt bằng chung cùng với các bạn trong lớp thì đưa
về nhóm.Thay đổi học sinh trong các nhóm, khơng để nhóm cố định trong cả kì
học để tạo điều kiện cho các em có cơ hội trao đổi với nhau nhiều hơn.
Khi xây dựng mơi trường giáo dục hạnh phúc chính trong lớp học của mình
cùng với việc áp dụng kĩ thuật tích cực trên vào dạy học, tơi nhận thấy học sinh
học tập tích cực hơn, các em thấy hứng thú với những nhiệm vụ được giao và
hoàn thành bài tập tương đối tốt. Học sinh học tập tự tin, phát triển được vốn
ngôn ngữ, khả năng giao tiếp, năng lực điều hành hoạt động, biết giúp đỡ nhau

trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Giải pháp thứ 4: Ứng dựng công nghệ thông tin trong dạy và học.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy là một trong nhiều phương
pháp dạy học tiên tiến hiệu quả. Các bài giảng khi sử dụng công nghệ thông tin
sẽ sinh động và hấp dẫn hơn rất nhiều so với bài giảng không sử dụng công nghệ
thông tin. Mỗi một giờ học được áp dụng công nghệ thông tin như vậy sẽ tích
cực hóa được hoạt động nhận thức của học sinh, thu hút được sự chú ý xây dựng
bài, dễ dàng lĩnh hội tri thức mới. Lúc này, học sinh thật sự là chủ thể hóa của
hoạt động nhận thức, được đặt vào những tình huống cụ thể của đời sống, trực
tiếp quan sát, thảo luận,… tìm hiều vấn đề một cách trực quan hơn để giải quyết
các vấn đề đó theo cách của riêng mình. Khơng những thế, một giờ học có ứng
dụng cơng nghệ thơng tin sẽ tăng cường việc học tập và lĩnh hội tri thức theo
từng cá thể. Trong một lớp học, trình độ và khả năng tư duy của học sinh là
không đồng đều, khi sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học sẽ làm tăng
cường cá thể hóa trong học tập và sự hợp tác giữa các cá nhân: Thầy – trò, trò –
trò, giúp thuận tiện hơn trên con đường chiếm lĩnh kiến thức.
Với phương tiện là máy tính, máy chiếu sẽ tạo hứng thú cho học sinh trong
quá trình học tập. Học sinh sẽ hào hứng, hứng thú với giờ học và đương nhiên


việc học sinh tự tìm ra tri thức sẽ nâng cao hơn chất lượng giờ dạy.
Ví dụ: Dạy bài: Mở rộng vốn từ về Hạnh phúc (Tiếng Việt 5 - tập II): Giáo viên
có thể cho các em chơi trị chơi giải ô chữ ở phần củng cố. Giáo viên ứng dụng
cơng nghệ thơng tin, trình chiếu ơ chữ ở màn chiếu trên bảng.

Trị chơi: Ơ chữ
Giáo viên hướng dẫn cách chơi:
Ơ chữ có 8 hàng ngang và 1 ơ hàng dọc.
Tổ chức 2 đội chơi, mỗi đội 5 học sinh. Mỗi đội lần lượt chọn ô chữ hàng
ngang. Sau khi chọn ơ chữ xong, giáo viên trình chiếu câu gợi ý và cả đội sẽ suy

nghĩ trong thời gian 10 giây. Nếu đội nào trả lời đúng đáp án sẽ được ghi điểm
cịn nếu trả lời sai thì sẽ phải nhường cơ hội cho đội còn lại.
+ Hàng ngang thứ ba:Có 9 chữ cái, đồng nghĩa với từ hạnh phúc, đạt được
nhiều mong ước ( mãn nguyện )
+ Hàng ngang thứ sáu: Có 4 chữ cái, đạt được đúng điều mình mong muốn
( Như ý)
+ Hàng ngang thứ hai: Có 7 chữ cái, trái nghĩa với hạnh phúc ( bất hạnh )
........
Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên cùng học sinh nhận xét đội thắng cuộc.
Giáo viên có thể chuẩn bị một số phần quà để động viên, khích lệ học sinh.


Qua trị chơi Ơ chữ, trị chơi giúp học sinh củng cố kiến thức vừa học, giúp học
sinh rèn luyện trí nhớ, trí thơng minh và phản ứng nhanh, tạo hứng thú học tập
cho học sinh.
- Ngoài ra, với những tiết dạy và bài học cụ thể giáo viên có thể dạy học
trình chiếu giáo án điện tử powerpoint cùng những hình ảnh minh họa có thiết
lập các hiệu ứng, âm thanh hay một đoạn video hay clip có liên quan đến bài
học. Từ đó bài giảng sẽ sinh động, mang lại khơng khí học tập, giảng dạy mới
mẻ. Học sinh hứng thú, tiết học đạt hiệu quả cao.
Giải pháp thứ 5: Khen thưởng nhằm động viên, khích lệ sự tiến bộ và nỗ lực của
học sinh.
Sự công nhận là mạnh nhất trong việc truyền động lực, cảm hứng. Khen
ngợi là phần thưởng tinh thần to lớn với mỗi học sinh. Từ đó học sinh sẽ mạnh
dạn, tự tin, có động lực phấn đấu và hứng thú hơn trong học tập. Có nhiều cách
để giáo viên cơng nhận sự cố gắng, nỗ lực của học sinh.
+ Cách 1: Công nhận bằng lời khen.
Lời khen, chê của giáo viên ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lí học sinh. Nếu
được biểu dương, động viên kịp thời, các em sẽ rất vui và háo hức bày tỏ ý kiến,
tạo sự hứng thú trong giờ học.

Ví dụ: Em trả lời rất đúng, cả lớp cùng khen bạn nào!
+ Cách 2: Công nhận bằng lời nhận xét:
Giáo viên có thể nhận xét bài làm của học sinh vào vở, vào bài kiểm tra
hoặc các sản phẩm học tập. Học sinh rất háo hức đọc lời nhận xét của cơ.
Ví dụ: Nếu học sinh làm bài đúng, viết chữ đẹp, trình bày sạch sẽ và đúng
chính tả cơ sẽ nhận xét: Cơ khen em có sự cố gắng trong học tâp.


Công nhận sự nỗ lực của học sinh
+ Cách 3: Cơng nhận bằng cách tặng các sticker ( hình dán ) tích lời khen.
Trong lớp sẽ tạo khơng khí thi đua học tập, học sinh sôi nổi, hào hứng, hăng hái
phát biểu xây dựng bài.

Sticker hình dán tích lời khen
Ngồi ra Giáo viên có thể gửi thư khen cho những học sinh có thành tích, cố
gắng trong học tập và rèn luyện. Đây là đổi mới rất có ý nghĩa và nhân văn góp
phần kích thích sự nỗ lực, tạo hứng thú cho học sinh trong suốt quá trình học
tập.


Giáo viên tặng thư khen cho học sinh
Ngoài ra để đẩy mạnh phong trào học tập của lớp, giáo viên có thể phát động
các phong trào thi đua như " Đôi bạn cùng tiến ", " hoa đáng khen " để học sinh
phát huy năng lực của mình, đồn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Với các giải pháp trên tôi đã giúp học sinh phát huy được một số năng lực và
phẩm chất cho học sinh nhằm tiếp cận theo chương trình Giáo dục phổ thơng
mới 2018 như: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác nhóm,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực ngơn ngữ. Bên cạnh đó các em
phát triển các phẩm chất nền tảng, giúp các em hoàn thiện bản thân hơn như:
nhân ái, chăm chỉ, yêu nước, trung thực, trách nhiệm.

+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các giải pháp nhằm phát huy hứng thú, tích cực, tự giác, sáng tạo của học
sinh trong dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4-5 tôi nêu trên có thể áp dụng
cho tất cả các trường Tiểu học trong tồn Huyện, tồn Tỉnh thậm chí tồn quốc.
Ưu điểm vượt trội của các giải pháp là giúp cho học sinh hứng thú tham gia các
hoạt động học, có những kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn Tiếng Việt, tạo
nền tảng vững chắc để các em tiếp tục học lên các bậc học tiếp theo.
- Trước khi áp dụng các biện pháp, tơi có tiến hành khảo sát và thu được
kết quả:


Lớp
5B

Tổng số

Số học sinh hứng thú với phân

học sinh môn Luyện từ và câu
39

11

28,2%

Số học sinh
đạt điểm khá, giỏi
14

35,9%


Qua điều tra và quan sát ban đầu cho thấy: học sinh chưa u thích mơn
học này, trong giờ học ít giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, số câu hỏi giáo
viên đưa ra các em đều chưa tự giác trả lời. Trong tiết học, các em chưa tập
trung chú ý nghe giảng,thiếu tập trung suy nghĩ nên hiệu quả học tập bộ môn
chưa tốt. Nhiều học sinh chưa chú tâm vào thực hiện nhiệm vụ; không tập trung
thảo luận; nét mặt biểu lộ hoài nghi, ngơ ngác, đây là dấu hiệu cho thấy học sinh
chưa thực sự hiểu nhiệm vụ, chưa hứng thú học bộ môn.
- Sau khi áp dụng các giải pháp:
Sau 1 năm học áp dụng các giải pháp ở trên, tôi đã thu được kết quả:
Học sinh tự tin, hứng thú, yêu thích học tập. Kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và
chiếm lĩnh kiến thức và giải quyết vấn đề trong giờ học tốt. Kĩ năng bày tỏ quan
điểm và trình bày ý kiến trước lớp tự tin và tiến bộ hơn nhiều. Chất lượng học
mơn Tiếng Việt được nâng lên. Điều đó chứng tỏ các em rất hứng thú học tập.
Kết quả học tập đã chứng minh cho vai trò rất quan trọng của biện pháp phát
huy sự hứng thú, tính tích cực của học sinh trong dạy phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 4+5 nêu trên. Những em có hứng thú học tập mơn học đều đạt kết quả từ
trung bình trở lên, điểm khá giỏi chiếm trên 70%.
Biểu đồ sau là minh chứng cho những kết quả đã đạt được của lớp 5B cuối
học kì II với số học sinh là 39 em.


Sau khi áp dụng các giải pháp bản thân tôi được mở rộng kiến thức, có thêm
kĩ năng, kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động, đổi mới phương pháp
dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, phát huy tính tích cực, chủ
động cho học sinh. Hơn nữa, những em u thích mơn học này cịn biểu hiện ở
trong giờ học,các em luôn giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài. Học sinh thực
sự chú tâm vào thực hiện nhiệm vụ; tập trung thảo luận; nét mặt, cử chỉ, động
tác biểu hiện sự tự tin cao. Các em mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình trước
lớp, đây là dấu hiệu cho thấy học sinh thực sự tự tin, tích cực tham gia các hoạt

động học tập và thực sự hứng thú học tập bộ mơn.Trong tiết học, các em rất ham
học hỏi, tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Kĩ năng làm bài nhanh, linh
hoạt, lưu lốt trong trình bày, biết lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách chính
xác. Bài kiểm tra trong năm so với lúc đầu năm khảo sát tôi thấy kết quả đã đạt
cao hơn. Học sinh xác định đúng mục tiêu môn học; biết xác định và sửa lỗi sai
về bố cục, lỗi sai về chính tả, cách dùng từ đặt câu và lỗi sai về câu văn, đoạn
văn.


Việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề kết hợp với phương pháp gợi mở,
lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm và cách tổ chức giờ học khoa học
linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, khả năng tiếp thu của từng học sinh đã đem lại
kết quả tốt. Điều đó chứng tỏ việc áp dụng giải pháp của tôi nêu trên vào giảng
dạy bộ môn đã đạt hiệu quả cao.
- Đánh giá lợi ích thu được:
+ So sánh việc áp dụng sáng kiến trong đơn tôi viết và việc khơng áp
dụng sáng kiến thì kết quả chênh lệch nhau là rất lớn. Tơi nhận thấy học sinh
tích cực tham gia các hoạt động học tập, tự tin, hứng thú say mê, thích thú với
mơn học. Kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và chiếm lĩnh kiến thức và giải quyết
vấn đề trong giờ học tốt. Kĩ năng bày tỏ quan điểm và trình bày ý kiến trước lớp
tự tin và tiến bộ hơn nhiều. Từ đó học sinh phát huy được một số năng lực và
phẩm chất nhằm tiếp cận Chương trình giáo dục phổ thơng mới 2018 đồng thời
chất lượng học môn Tiếng Việt được nâng lên và đạt kết quả cao.
+ Mang lại lợi ích kinh tế:
Khi áp dụng giải pháp 4: “ Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và
học” sẽ tiết kiệm được tiền mua đồ dùng hỗ trợ việc dạy học cũng như việc tổ
chức các trò chơi của giáo viên. Đồng thời cũng tiết kiệm được thời gian trong
tiết học và việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
+ Mang lại lợi ích xã hội:
- Sáng kiến góp phần thay đổi nhận thức của phần lớn giáo viên trong việc

tổ chức các hoạt động dạy và học nhằm tạo hứng thú cho học sinh.
- Giúp cho học sinh hứng thú với giờ học, tự tin, mạnh dạn trình bày ý
kiến, phát triển được vốn ngôn ngữ, khả năng giao tiếp, năng lực điều hành hoạt
động, biết giúp đỡ nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống.
- Phụ huynh tin tưởng giáo viên về hiệu quả giảng dạy và chất lượng giáo
dục của nhà trường.
- Các thông tin cần được bảo mật (nếu có);
Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến;
* Đối với nhà trường:


Để áp dụng được các giải pháp đưa ra trong sáng kiến này thì các nhà
trường cần trang bị đảm bảo các yêu cầu về cơ sở vật chất phục vụ dạy và học.
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên cần phải có những kiến thức sâu rộng, chun mơn nghiệp vụ
tốt, phải được thường xuyên đổi mới về phương pháp giảng dạy thơng qua các
chương trình tập huấn của phịng giáo dục và của sở giáo dục. Ngồi ra giáo
viên cần nắm bắt được tâm lí của học sinh, yêu quý và gần gũi với học sinh.
Trong các tiết học tạo ra khơng khí học tập thật thoải mái, tự nhiên, tránh gây
căng thẳng.
- Để học sinh hứng thú học tập, người giáo viên khơng chỉ có vai trị dẫn
dắt, hướng dẫn các em mà còn phải thường xuyên gần gũi các em, giúp các em
tự tin trong quá trình làm bài, đồng thời tạo cho lớp học khơng khí thoải mái,
hứng thú làm cho học sinh yêu thích môn học để chất lượng học tập ngày càng
cao hơn.
* Đối với học sinh :
Học sinh cần tích cực mạnh dạn, tự tin khi tham gia hoạt động học tập. Các
em cần chăm chỉ, ham học, tìm tịi, sáng tạo khi thực hiện nhiệm vụ học tâp.
- Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ
chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu

(nếu có);
Giải pháp trên của tơi đã được trình bày tại Hội đồng khoa học cấp trường và
được đánh giá cao. Giải pháp trên có nhiều tính mới, sáng tạo vì nó bám sát vào
thực trạng và nhu cầu vấn đề chất lượng dạy và học mơn Tiếng việt hiện nay, đi
sâu tìm hiểu thực trạng, tìm rõ nguyên nhân và tác động cải thiện chất lượng bộ
môn qua việc tạo ra hứng thú học tập cho học sinh thông qua đổi mới cách tổ
chức dạy của thầy và cách học của trò.
"Các giải pháp nhằm phát huy hứng thú, tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh
trong dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 + 5" tơi nêu trên có thể áp dụng
cho tất cả các trường Tiểu học trong toàn Huyện, toàn Tỉnh và trong cả nước.



×