Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG vấn đề cơ bản về QUẢN lý, bảo vệ CHỦ QUYỀN BIỂN, đảo của VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.79 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.

Vị trí, vai trị của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc

1.1.

Biển, đảo Việt Nam

1.2.

Vị trí, vai trị của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc

Chính sách của các nước đối với Biển Đơng và tác động
2.
của nó tới việc quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
nước ta hiện nay
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ
3.
chủ quyền biển, đảo trong tình hình hiện nay
Chỉ đạo xây dựng các khu vực phòng thủ biển, đảo trên cơ
3.1.
sở thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân, bảo
vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
Chỉ đạo kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường,
3.2.


củng cố quốc phòng - an ninh trên biển
Giải quyết tốt các vấn đề tranh chấp, bảo vệ chủ quyền
3.3.
quốc gia Việt Nam trên biển
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ chủ
4.
quyền biển, đảo của Việt Nam trong tình hình hiện nay
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
4.1.
Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc
Coi trọng vấn đề kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với
4.2.
tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trên biển
Chủ động đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế
4.3.
trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2

2
2

4
7
9
9

11
12
12
12
13
14
16
17



MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, có bờ biển dài 3260 km, thềm
lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng một triệu km 2, với nhiều vịnh
biển có giá trị và hơn 3000 đảo lớn, nhỏ; trong đó có hai quần đảo Hồng Sa và
Trường Sa án ngữ ngoài cửa biển; Việt Nam được coi là nước có vị trí chiến
lược thuận lợi về biển. Vùng biển, đảo Việt Nam giàu tài nguyên thiên nhiên và
có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phịng, an ninh quốc gia và khu vực. Do vị
trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội, và an ninh - quốc phòng,
cho nên vấn đề khai thác nguồn lợi biển và quản lý, bảo vệ vùng biển, đảo của
Tổ quốc đã được đặt ra như một tất yếu từ rất sớm trong quá trình xây dựng,
phát triển đối với dân tộc ta.
Từ năm 1945 đến nay, cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), lịch sử chinh
phục biển, đảo Tổ quốc đã bước sang một trang mới. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước ta, vùng biển, đảo của Tổ quốc, đã và đang dần có
một vị thế xứng đáng trong q trình phát triển đi lên của dân tộc. Thời kỳ đổi
mới toàn diện đất nước, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo ln được Đảng
đặc biệt quan tâm và coi đó là nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ

một địa bàn vô cùng phức tạp và hết sức nhạy cảm, liên quan tới nhiều yếu tố lịch
sử, pháp lý, trong đó có cả những yếu tố chưa có sự đồng thuận trong đời sống
chính trị quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Những vấn đề cơ bản về quản lý,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trong tình hình hiện nay” làm đề tài
tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG
1. Vị trí, vai trị của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc
1.1. Biển, đảo Việt Nam
Biển Đông là tên mà người Việt Nam dùng để gọi vùng biển được bao bọc
bởi: Đài Loan, quần đảo Philippin ở phía Đơng; quần đảo Inđơnêxia, bán đảo
Malaixia ở phía Nam; bán đảo Đơng Dương ở phía Tây và lục địa Nam Trung
Hoa ở phía Bắc. Trong sinh hoạt quốc tế, Biển Đông thường được gọi là biển
Nam Trung Hoa (The south China sea), theo nguyên tắc đặt tên quốc tế, dựa vào
vị trí tương đối gần nhất của một lục địa tiếp giáp lớn nhất đó là lục địa Trung
Hoa, hồn tồn khơng có hàm nghĩa Biển Đông thuộc sở hữu riêng của người
Trung Quốc. Thực tế, theo tập quán lịch sử gắn với chủ quyền lãnh thổ của các
quốc gia được xác lập từ rất lâu đời và được quốc tế thừa nhận, cũng như theo
Công ước Luật biển quốc tế quy định (Công ước 1958 và Luật biển quốc tế
1982), Biển Đông gắn với chủ quyền và lợi ích trực tiếp của các quốc gia: Việt
Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia, Philippin, Brunây, Campuchia, Singapo
và Trung Quốc [1, tr.156].
Về mặt địa lý, Biển Đơng là một biển nửa kín nằm ở phía Tây Thái Bình
Dương, có diện tích vào khoảng 3triệu 400.000km2, trải dài từ vĩ độ 30 lên đến vĩ
độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 210 Đông với độ sâu trung bình là 1140m và
độ sâu cực đại là 5016m. Đường trục dài nhất của Biển Đông kéo dài theo

hướng Đơng Bắc - Tây Nam tính từ đường ranh giới phía Bắc (Phúc Kiến Bắc Đài Loan) đến đường ranh giới phía Nam (Sumatra - Bankan - Bilitơn Borneo) dài khoảng 3520km. Nơi rộng nhất của Biển Đông không qúa 600
hải lý (khoảng gần 1200km). Biển Đông thông với Thái Bình Dương qua eo
biển Đài Loan (phía Đơng Bắc) và eo biển Basi nằm giữa Philipin và Đài
Loan. Về phía Tây Nam, con đường duy nhất trực tiếp nối biển Đông với Ấn
Độ Dương là eo biển Malacca. Về phía Đơng Nam, có thể đi qua eo biển sâu
4


Mondoro và eo biển Balabac để đến biển Sulu - một biển nối liền Ấn Độ
Dương với Thái Bình Dương.
Biển Đông là vùng biển giàu tiềm năng phát triển kinh tế, đồng thời cịn là
vùng biển án ngữ vị trí chiến lược có ảnh hưởng trực tiếp đến q trình phát
triển của thế giới và khu vực. Biển Đông chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên có
giá trị kinh tế cao với trữ lượng lớn: Tài nguyên hải sản, tài nguyên khống sản,
tài ngun dầu khí, tài ngun năng lượng… Chỉ tính riêng trữ lượng dầu khí
trên vùng biển Việt Nam theo tính tốn đã lên tới 10 tỷ tấn dầu quy đổi. . Trong
xu thế các nguồn nguyên liệu trên lục địa ngày càng cạn kiệt, nếu các nước trong
khu vực quanh Biển Đông quản lý, khai thác tốt nguồn tài nguyên này, thì đây sẽ
là thế mạnh, là lợi thế đặc biệt trong quá trình cạnh tranh để phát triển thành khu
vực thịnh vượng, bền vững lâu dài.
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bờ phía Tây của Biển Đơng, có vị trí
chiến lược thuận lợi về biển. Việt Nam có bờ biển dài 3260km, được coi là quốc
gia có tỷ lệ chiều dài bờ biển so với đất liền thuộc loại cao nhất thế giới. Tỷ lệ
chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của Việt Nam là 0,01 đứng đầu Đông
Nam Á và đứng thứ 27 trên tổng số 157 quốc gia ven biển trên thế giới (trên thế
giới, trung bình 600km2 đất liền mới có 1km bờ biển, tỷ lệ đó ở Việt Nam là
100km2/1km; Thái Lan là 140km2/1km; Trung Quốc là 500km2/1km) [2, tr.67].
Ngoài hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có hệ thống đảo
ven bờ bao gồm hơn 3000 hịn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích trên 1600km 2,
trong đó có 24 đảo có diện tích trên 10km 2, 84 đảo có diện tích 1km 2, 66 đảo có

cư dân sinh sống, với tổng dân số khoảng 155.000 người. Mật độ dân số trung
bình trên các đảo là 95người/km2. Các đảo lớn nhất là Đảo Phú Quốc (567 km 2
có 50.000 người dân sinh sống), đảo Cái Bầu (200km 2/ 21.000 dân), đảo Cát Bà
(149km2/15.000 dân),

đảo Phú Quý (32km 2/18.000 dân), Côn Đảo

(56,7km2/21.000 dân), đảo Lý Sơn (3km2/ 16.000 dân). Hệ thống các đảo ven bờ
và xa bờ của Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng: Đó là những điểm tiền
tiêu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng là điểm tựa thuận lợi để khai thác các
5


nguồn lợi, phát triển kinh tế biển và vươn ra khai thác biển cả trong tương lai.
1.2. Vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc
Xét trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng,
vùng biển, đảo Việt Nam là một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về mặt kinh tế: vùng biển, đảo Việt Nam là địa bàn giàu tiềm năng cho
phát triển kinh tế đất nước. Do có vị trí chiến lược, nằm trên các tuyến hàng hải
huyết mạch thông thương gữa khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và các khu
vực khác, vùng biển, đảo Việt Nam chính là “cầu nối” cực kỳ quan trọng để mở
rộng giao lưu kinh tế và thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực, cũng như các
nước trên thế giới. Đồng thời, đó là nơi chứa đựng, cung cấp cho chúng ta nhiều
nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao, hết sức phong phú, đa dạng với một trữ
lượng tương đối lớn.
Về giao thông vận tải biển: Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đơng, có
nhiều ưu thế về địa lý cho việc phát triển ngành giao thông hàng hải. Người ta ví
Việt Nam như một “ngơi nhà mặt phố” để nói tới tiềm năng to lớn về phát triển

thương mại, dịch vụ trong nước và quốc tế. Trong đó, cần phải nói tới vị trí
chiến lược của Việt Nam trong lĩnh vực hàng hải. Bờ biển Việt Nam dài, vùng
biển rộng với nhiều eo, vịnh biển, cửa sông phân bố khá dày từ Bắc vào Nam
rất thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống cảng biển, trong đó nhiều nơi có khả
năng xây dựng các cảng nước sâu mang tầm cỡ khu vực và quốc tế, như: Cái
Lân, Cửa Ông, Nghi Sơn, Chân Mây, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh… hơn
nữa bờ biển và vùng biển nước ta, nhất là ở khu vực Trung Bộ, rất gần với các
tuyến hàng hải quốc tế. Những yếu tố đó cho phép chúng ta bằng đường biển có
thể giao thơng thuận lợi với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới,
đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển ngành dịch vụ
hàng hải.
6


Tài nguyên du lịch: vùng ven biển nói riêng và các vùng biển, đảo Việt
Nam nói chung có ưu thế lớn trong việc hình thành và phát triển các trung tâm
du lịch. Dọc bờ biển có khoảng trên 100 bãi biển lớn, nhỏ thuận lợi cho phát
triển du lịch, trong đó có khoảng 20 bãi biển đạt quy mơ và tiêu chuẩn quốc tế.
Các bãi biển nước ta nhìn chung khá bằng phẳng, nước trong, độ sóng và cấp
gió vừa phải, khơng có ổ xốy và cá dữ…rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi
giải trí trên biển. Các khu vực có tiềm năng du lịch biển lớn là Vịnh Hạ Long,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu...
Về mặt chính trị xã hội: Nước ta hiện nay có 28/64 tỉnh thành phố ven
biển với tổng dân số xấp xỉ 41,2 triệu người chiếm gần 50% dân số cả nước.
Trong đó có khoảng 21 triệu người trực tiếp sinh sống ở các vùng biển, đảo và
vùng ven biển. Tuy nhiên, mật độ dân số ở các vùng ven biển là khơng đồng
đều. Mật độ trung bình của các tỉnh ven biển trên cả nước là 369 người/km 2.
Riêng ở các tỉnh vùng biển phía Bắc tính từ Quảng Ninh đến Ninh Bình mật độ
là 981 người/km2, cịn ở khu vực từ Thanh Hố đến Thừa Thiên Huế mật độ là
198 người/km2; tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao; trình độ dân trí tương đối

thấp… Trong điều kiện, vùng biển, đảo nước ta hiện nay được mở rộng ra phía
biển với hơn 1 triệu km2, đây sẽ là địa bàn quan trọng để chúng ta có thể phân bố
lại cơ cấu dân cư trong vùng và trong tồn quốc, gắn với tiến hành phân cơng lại
lao động xã hội góp phần giải quyết sức ép về sự gia tăng dân số và sự thiếu việc
làm của cư dân trên phạm vi cả nước. Nếu tiến hành tốt các chính sách điều
chỉnh cơ cấu dân cư và phân công lại lao động bằng việc thúc đẩy nhanh q
trình phát triển kinh tế biển, đó sẽ là một việc làm hết sức có ý nghĩa khơng chỉ
đối với sự phát triển kinh tế chung của cả nước mà cịn mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc.
Về an ninh, quốc phòng: Do đặc điểm vị thế địa hình Việt Nam, phần
đất liền chạy dài theo hướng Bắc - Nam, chiều ngang Đơng - Tây hẹp, có nơi
rất hẹp, chỉ vào khoảng 50 đến 60km (như ở Quảng Bình); một bên tựa vào
những dãy núi cao được ví như bức tường thành tự nhiên hiểm trở, bảo vệ
sườn phía Tây - Bắc, một bên hướng ra biển cả mênh mơng; tồn bộ địa hình
7


trên đất liền bị chia cắt mạnh bởi dòng chảy của gần hai trăm con sông đổ ra
biển; bờ biển quanh co, khúc khuỷu, nhiều nơi biển ăn sâu vào đất liền tạo ra
các vũng, vịnh vừa kín gió vừa hiểm yếu về mặt quân sự có thể xây dựng
thành các quân cảng, các căn cứ quân sự mang tầm chiến lược đặc biệt, ví dụ
như khu vực Vũng Rơ (Phú Yên), đặc biệt là Cam Ranh (Khánh Hòa) - là một
trong những hải cảng quân sự tốt nhất hiện nay trên thế giới. Với một thềm
lục địa rộng hơn 1 triệu km 2, cùng hơn 3000 hòn đảo nằm rải rác khắp mặt
biển, chia thành nhiều tuyến gần, xa bờ, trong đó có hai quần đảo án ngữ
ngồi cửa biển là Hoàng Sa và Trường Sa… vùng biển, đảo Việt Nam được
coi là “phên dậu” , là cửa ngõ trong thế phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Biển, đảo vừa là địa bàn đứng chân, vừa là địa bàn xây dựng thế trận chiến
lược hết sức lợi hại để chống và đánh kẻ thù khi chúng tấn công, xâm nhập
vào nước ta. Khi có chiến tranh xảy ra, chính hệ thống các đảo gần bờ, trong
đó có các điểm đảo quan trọng như: Cô Tô, Quan Lạn, Ngọc Vừng, (Quảng

Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Mê, Hòn Mắt (Thanh - Nghệ
Tĩnh), Hòn La, Cồn Cỏ (Quảng Bình), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hịn Tre (Khánh
Hịa), Phú Quý (Bình Thuận), Phú Quốc (Kiên Giang)… sẽ tạo ra bức tường
thành tự nhiên vững chắc bảo vệ sườn phía Đông - Nam Tổ quốc. Đây là
những địa bàn lý tưởng xây dựng địa bàn đứng chân, xây dựng lực lượng, các
căn cứ hậu cần quân sự để tổ chức tấn công kẻ thù khi bị kẻ thù gây sức ép và
phong toả các lực lượng của ta trên đất liền, đồng thời là điểm tựa để chúng ta
vươn ra biển cả, mở rộng địa bàn đứng chân, chủ động đánh địch từ xa trước
khi chúng có ý đồ uy hiếp lãnh hải Tổ quốc. Riêng hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa nằm ở giữa Biển Đông, án ngữ cửa biển nước ta, là hai quần đảo có
vị trí chiến lược đặc biệt cả về kinh tế và quân sự. Nắm giữ được hai quần đảo
này sẽ cho phép có lợi thế khống chế được các con đường hàng hải quan trọng
đi qua Biển Đông, đồng thời khống chế được mọi hoạt động diễn ra trong khu
vực. Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chính là “tấm lá
chắn thép” bảo vệ cửa ngõ trọng yếu của đất nước.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng vùng biển, đảo cũng chính là nơi mà kẻ
8


thù thường hay lợi dụng để đột nhập, tấn công xâm lược nước ta. Lịch sử dân
tộc đã chứng minh trong 14 cuộc xâm lược Việt Nam, có tới 10 cuộc kẻ thù
tấn công xâm lược chúng ta từ hướng biển. Điều đó càng cho thấy, vùng
biển, đảo Việt Nam có một vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng không chỉ đối
với phát triển kinh tế - xã hội, mà còn với cả quốc phòng, an ninh đất nước.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không chỉ mang ý nghĩa là bảo vệ một
địa bàn sống, địa bàn phát triển kinh tế của đất nước, mà đó cịn là bảo vệ
một địa bàn phòng thủ chiến lược lợi hại, nằm trong thế trận quốc phòng - an
ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2. Chính sách của các nước đối với Biển Đông và tác động của nó tới
việc quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước ta hiện nay

Trong xu thế nguồn nguyên liệu trên lục địa ngày càng cạn kiệt không
gian sống trên đất liền ngày càng trở nên chật chội do sự bùng nổ gia tăng dân
số, hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có tiềm lực kinh tế,
khoa học - kỹ thụât, quân sự mạnh, như Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc… Bắt đầu
bước vào một cuộc đua tranh lớn nhằm “tranh đoạt không gian sinh tồn” trong
khoảng không vũ trụ và tầng sâu hải dương. Hướng ra biển được coi là xu thế
phổ biến đối với tất cả quốc gia có biển, cũng như khơng có biển.
Biển Đơng, do có vị trí cực kỳ quan trọng về kinh tế, quân sự đã trở thành
địa bàn có ý nghĩa to lớn trong chiến lược phát triển không chỉ đối với Việt
Nam, các nước xung quanh Biển Đơng mà cịn đối với cả nhiều cường quốc
khác như Mĩ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc… Xuất phát từ nhiều lợi ích kinh tế,
chính trị khác nhau, các nước đều muốn khẳng định thế mạnh trên biển, để tranh
giành ảnh hưởng, cũng như lợi ích của mình ở địa bàn chiến lược này.
Đối với Mỹ: Vốn là một cường quốc hàng đầu của thế giới, nằm bên bờ 2
đại dương lớn là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Vì thế Mỹ khẳng định,
họ trước hết phải là “Một cường quốc đại dương”. Biển Đơng có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của khu vực và thế giới, đồng thời
cũng là khu vực mà Mỹ có nhiều đồng minh chính trị và lợi ích kinh tế. Cho
nên, Mỹ ln tìm mọi cách tăng cường duy trì ảnh hưởng và sự có mặt ở đây
9


nhằm vừa bảo đảm an toàn cho con đường huyết mạch trên biển giữa Mỹ với
các nước Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Trung Cận Đông… vừa khống chế
khu vực, thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới [3, tr.19].
Đối với Nhật Bản: Là một quốc gia đảo, có diện tích khơng lớn
(372.000km2), nhưng dân số đã vượt q 120 triệu người từ giữa thập kỷ 80 của
thế kỷ XX, đất nước rất nghèo tài nguyên. Vì vậy, Nhật Bản coi hướng phát triển
về biển là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước.
Đối với Trung Quốc: là một quốc gia lục địa khổng lồ (diện tích lục địa

9.600.000 km2), đồng thời, là quốc gia ven biển lớn (có 18.000km bờ biển).
Nhưng trong lịch sử, suốt một thời gian dài Trung Quốc chỉ quan tâm đến lục
địa mà ít quan tâm đến hướng phát triển về biển. Theo người Trung Quốc, chính
sự “quay lưng lại với biển” của dân tộc là một trong những lý do khiến cho
Trung Quốc chưa thể phát triển hưng thịnh như tiềm năng vốn có. Cho đến đầu
thế kỷ XX Trung Quốc mới chú ý đến biển, và bắt đầu có những hoạt động tranh
giành biển, đảo với các nước khác.
Đối với các nước Đông Nam Á: Từ nhiều năm nay, nhất là vào những năm
đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay, trên Biển Đông diễn ra sự tranh chấp
biển đảo rất quyết liệt và phức tạp giữa các nước. Hầu hết các nước Đông Nam
Á cũng đi theo xu hướng chung, tăng cường lực lượng quân sự nhằm bảo vệ chủ
quyền, đồng thời tranh giành chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Thái Lan
cho đến thời điểm 1995 đã mua thêm 18 máy bay chiến đấu loại F-16, 6 tàu
bảo vệ tên lửa; Singappo mua thêm 30 máy bay F-16 và một số máy bay cảnh
giới lọai E-2C; Inđônêxia mua 30 máy bay F-16, 5 tàu bảo vệ tên lửa; Malaixia
chi 3 tỷ USD với kế hoạch nhập khẩu của Anh, Hà Lan, Đức 12 máy bay chiến
đấu loại hiện đại cùng với tàu tuần tra, tàu khu trục, tàu bảo vệ tên lửa và tàu
ngầm; Philipin cũng hiện đại hố 7 tàu khu trục, đóng mới 35 tàu tuần tra và
mua thêm máy bay F-16… [4, tr.26].
Như vậy có thể khẳng định: Trong xu thế tồn thế giới “hướng ra biển”,
coi biển là “lối thoát” là “cứu cánh” trên bước đường phát triển, hầu hết các
nước trong khu vực và các nước lớn đều có chung xu hướng củng cố, tăng
10


cường lực lượng nhằm phục vụ cho ý đồ khẳng định quyền lực và tranh giành
lợi ích của mình trên Biển Đơng. Chính việc can thiệp của các nước lớn vào khu
vực Biển Đông, sự tăng cường lực lượng của các nước lớn, cũng như các nước
trong khu vực làm cho tình hình Biển Đơng ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều
yếu tố khó lường; vấn đề tranh chấp Biển Đơng là hết sức khó dự đốn. Biển

Đơng đang là nơi tồn tại những mâu thuẫn chính trị và kinh tế của thế giới, với
cả thuận lợi, khó khăn thách thức… Điều đó có ảnh hưởng và tác động trực tiếp
đến sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng an ninh trên biển của
nước ta trong thời kỳ mới. Trong điều kiện nước ta đang tiến hành công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, đưa đất nước thốt khỏi khủng hoảng, đói
nghèo, lạc hậu, vấn đề phát triển kinh tế biển, khai thác lợi thế vùng biển đi đơi
với tăng cường quốc phịng- an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo được
coi là một vấn đề mang tính cấp thiết, khách quan đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong tình hình hiện nay
3.1. Chỉ đạo xây dựng các khu vực phòng thủ biển, đảo trên cơ sở thế
trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc
Trong hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, xuất phát từ những yêu
cầu mới đặt ra đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ tình hình đang
diễn ra vơ cùng phức tạp, khó lường ở biển Đông, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm,
chú trọng chỉ đạo cơng tác xây dựng các khu vực phịng thủ biển, đảo gắn với
thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân nhằm bảo vệ vững
chắc vùng biển, đảo Tổ quốc.
Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang diễn ra quyết
liệt ; một số nước có âm mưu, hành động lấn chiếm cục bộ các vùng biển, đảo
của nước ta, chúng ta đã chú trọng tăng cường củng cố quốc phòng trên cơ sở
thực hiện điều chỉnh lực lượng, tạo thế đứng chân vững chắc trên các vùng biển
để sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Đã xây dựng các khu vực với thế
11


phịng thủ chiến lược sâu, rộng, liên hồn trên cả 3 tuyến bờ - biển - đảo. Tại các
vùng biển, đảo trọng điểm, lực lượng của ta đã được tăng cường, củng cố về

quân số, vũ khí, trang thiết bị để nâng cao sức mạnh chiến đấu cho các lực lượng
vũ trang nhân dân trên biển.
Quán triệt Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị (30-11-1987), Về bảo vệ chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tăng cường sự có mặt của
Việt Nam ở Biển Đơng và Trường Sa, cũng như Nghị quyết 286 của Đảng uỷ
Quân sự Trung ương (31-12-1988). Từ năm 1988 đến năm 1991, ta đã tích cực
tăng cường lực lượng, cơ sở vật chất - kỹ thuật, đồng thời mở rộng địa bàn đứng
chân ở khu vực quần đảo Trường Sa - một khu vực đang được coi là “điểm
nóng” quyết liệt nhất trên Biển Đơng. Tính đến đầu năm 1991, ta đã đưa quân
phòng thủ vững chắc trên 21 đảo và bãi đá ngầm, đồng thời thường xun củng
cố cơng trình phịng thủ, bổ sung vũ khí, trang thiết bị hậu cần thiết yếu, quan
tâm đến cơng tác chính trị - tư tưởng nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng
hợp của các lực lượng vũ trang đang làm nhiệm vụ tại Trường Sa. Riêng khu
vực DK1 (khu vực dầu khí ở thềm lục địa phía Nam), theo báo cáo của Bộ Quốc
phòng về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trong 2 năm 1989 - 1990, ta đã đầu tư
xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở với tổng kinh phí đạt 22 tỷ đồng, đặt một số
trạm khí tượng, trạm định vị, hình thành cơ sở ban đầu cho Cụm kinh tế - kỹ
thuật - khoa học và dịch vụ ở thềm lục địa phía Nam, gắn với việc tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh bảo vệ biển, đảo Tổ quốc [5, tr.290].
Cùng với việc xây dựng các lực lượng vũ trang thường trực, công tác xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ biển, lực lượng dự bị động viên cũng được chú ý
phát triển mạnh trong thời kỳ này. Đã bước đầu hình thành lực lượng dân quân
tự vệ biển, đông đảo, rộng khắp trên các địa bàn dân cư, các đơn vị sản xuất
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế ở vùng ven bờ và vùng hải đảo, đồng
thời tăng cường quản lý các lực lượng dự bị động viên. Đây chính là những việc
làm có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần củng cố thế trận quốc phịng tồn
dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân trên biển, tạo khả năng cho chiến lược
12



phịng thủ tầng tầng, lớp lớp, liên hồn, có chiều sâu đáp ứng được mọi tình
huống xảy ra.
3.2. Chỉ đạo kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường, củng
cố quốc phòng - an ninh trên biển
Vùng biển, đảo nước ta vừa giàu tiềm năng phát triển kinh tế, đồng thời
cũng là địa bàn phòng thủ chiến lược lợi hại. Do vậy, việc quan tâm thực hiện
kết hợp tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế là yêu
cầu khách quan, mang tính cấp bách cả trong trước mắt và lâu dài, nhằm bảo
đảm thế lực, đủ sức làm chủ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
Bước vào thời kỳ đổi mới, để tạo điều kiện phát huy tiềm năng, lợi thế to
lớn của vùng biển, đảo, đồng thời tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh bảo
vệ vững chắc vùng biển, đảo Tổ quốc, chủ trương của Đảng, là phải làm cho
vùng biển thực sự mạnh về kinh tế, vững về an ninh - quốc phòng. Đại hội VI
(12-1986), trên cơ sở đề ra 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, đã
bước đầu hình thành tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trên
biển. Tại Đại hội Đảng VII (1991), Đại hội Đảng VIII (1996) và Đại hội Đảng
IX (2001), tư tưởng này đã được Đảng làm rõ thêm. Chủ trương của Đảng luôn
khẳng định: vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế,
quốc phịng - an ninh, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước
để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư, phải khai thác tối đa tiềm năng, lợi
thế của vùng biển kết hợp với tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh bảo vệ và
làm chủ vùng biển, đảo Tổ quốc.
Quán triệt tinh thần đó, từ năm 1986 đến nay, trong quá trình lãnh đạo bảo
vệ chủ quyền biển, đảo, Đảng đã hết sức quan tâm, chú trọng chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ này.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là thành công bước đầu. Thực
tế cho thấy, vấn đề kết hợp kinh tế - quốc phòng - an ninh trên các vùng biển,
đảo mà chúng ta tiến hành trong thời gian này vẫn còn có nhiều hạn chế khiến
cho thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân trên biển chưa
13



thực sự vững chắc. Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ và làm chủ vùng biển, đảo Tổ
quốc trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước ta chỉ rõ cần phải chú trọng hơn nữa
vấn đề kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh trên biển. Trong đó vấn đề tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho các đảo, nhất
là ở các đảo có vị trí chiến lược, cũng như vấn đề thực hiện tốt chương trình di dân
ra đảo phải luôn được quán triệt và quan tâm thường xuyên, đúng mức.
3.3. Giải quyết tốt các vấn đề tranh chấp, bảo vệ chủ quyền quốc gia
Việt Nam trên biển
Giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên
biển giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Biển Đơng là vấn đề mang tính
lịch sử đôi khi rất nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến nhiều yếu tố lịch sử, tập
quán và luật pháp quốc tế về biển. Vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và các
nước hữu quan trên Biển Đông thường tập trung trong mấy vấn đề lớn: Vấn đề
tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc; Vấn đề tranh
chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa giữa 5 nước, 6 bên bao gồm: Việt Nam,
Trung Quốc, Malaixia, Philipin, Bruney và Đài Loan; Vấn đề giải quyết các
vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa nước ta với các nước; Các vấn đề liên
quan đến Biển cả và Vùng.
Đây là những vấn đề vơ cùng phức tạp, địi hỏi Việt Nam phải tập trung
sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính
trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quân sự để giải quyết. Từ năm 1986 đến năm
2001, quán triệt chủ trương mà Đảng và Nhà nước đề ra, ta đã giải quyết từng
vấn đề với các nước có liên quan.
4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Việt Nam trong tình hình hiện nay
4.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối

với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và đối với nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển, đảo nói riêng là tất yếu khách quan, đồng thời là nhân tố có ý
14


nghĩa quyết định đến thành công chung của cách mạng dân tộc.
Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc ở thời kỳ mới là một
nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, địi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Trong đó vấn đề nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước phải được coi
trọng và tiến hành thường xuyên.
Trong hơn 30 năm đổi mới, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng, khơng ngừng đổi mới tư duy
lý luận, đổi mới cơ chế quản lý, cách thức tổ chức điều hành, nhằm thực hiện tốt
vai trò của mình, hồn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc, nhân dân giao phó. Trên cơ sở
nhanh nhạy nắm bắt diễn biến tình hình trong nước, khu vực, quốc tế, Đảng đã đề
ra chủ trương, đường lối đúng đắn và chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc ta trên biển. Nhà
nước cũng đã nỗ lực đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức điều hành nhằm thể chế hố
các chủ trương, chính sách của Đảng, đưa chủ trương, chính sách của Đảng nhanh
chóng đi vào hiện thực đời sống xã hội. Đã điều chỉnh một bước mơ hình quản lý
biển, xây dựng, bổ sung và dần hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý, bảo vệ các
vùng biển của đất nước theo hướng phù hợp với điều kiện thực tế lịch sử, thực tiễn
phát triển của luật pháp quốc tế về biển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
4.2. Coi trọng vấn đề kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với tăng cường
củng cố quốc phòng - an ninh trên biển
Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh là một mặt của hoạt động xã
hội, là phương thức có hiệu quả nhằm vừa nâng cao tiềm lực kinh tế, vừa tạo
điều kiện tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh đất nước. Lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn khẳng định : giữa kinh tế và quốc phòng - an
ninh, tuy là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, tuân thủ theo những quy luật

riêng, nhưng có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau để cùng tồn
tại và phát triển.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam cho thấy, ngay từ rất sớm, vấn đề kết hợp kinh tế
với quốc phòng - an ninh đã được cha ông chúng ta quán triệt thực hiện, đồng thời
15


được coi là quy luật trong quá trình tồn tại phát triển của dân tộc. Thời Lý - Trần Lê, một phần nhờ triệt để vận dụng chính sách "Ngụ binh ư nơng" (Chính sách thể
hiện rõ tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng), mà đất nước thịnh vượng, đủ sức
đánh bại các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Kế tục truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước, trên cơ sở kết hợp
phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng mà cha ông ta đã thực hiện, thấm
nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
cơng cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã đề ra chủ trương kết hợp phát triển kinh tế
gắn với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, đồng thời coi đó là một chủ
trương chiến lược của thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là nội dung
quan trọng của chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình
cách mạng mới, địi hỏi chúng ta phải không ngừng xây dựng và củng cố vững
chắc thế trận "kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh" trên biển.
Thế trận "kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh" trên biển được xây
dựng trên cơ sở sự bố trí hài hồ giữa các lực lượng, các cơ sở vật chất - kỹ
thuật, các ngành kinh tế biển với quốc phòng - an ninh trên biển và ven biển
theo một quy hoạch tổng thể, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của
Đảng và Nhà nước trên toàn quốc, cũng như ở từng vùng, từng địa phương,
nhằm tạo sự hỗ trợ lẫn nhau giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh, đảm bảo sự
phát triển nhanh và bền vững của kinh tế biển đồng thời tăng cường được sức
mạnh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trên biển .
4.3. Chủ động đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế trong sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc

Trong thời đại ngày nay, hoạt động đối ngoại gắn với quá trình hội nhập, hợp
tác quốc tế là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc. Xu thế phát triển của thời đại luôn khẳng định : một quốc gia,
dân tộc sẽ không thể phát triển ổn định và thịnh vượng được nếu như không tăng
cường các hoạt động đối ngoại, đẩy mạnh quá trình hợp tác quốc tế, khu vực.
Thực tiễn phát triển của nước ta trong những năm đổi mới cho thấy, nhờ có
16


đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước mà Việt Nam đã hội nhập nhanh
vào quá trình hợp tác quốc tế, từ đó phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực
thù địch, tranh thủ được nguồn ngoại lực, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
thúc đẩy đất nước phát triển. Với chủ trương, gắn hoạt động đối ngoại của đất nước
với nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã không ngừng mở rộng mối
quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị, trên
tinh thần tơn trọng độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ và lợi ích của nhau. Trong
bối cảnh tình hình Biển Đơng diễn biến phức tạp, tranh chấp biển đảo giữa ta và
các nước ở khu vực vẫn còn căng thẳng, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, chúng ta
một mặt tích cực tăng cường củng cố quốc phịng an ninh sẵn sàng đối phó với mọi
tình huống, mặt khác vẫn chủ động đẩy mạnh công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế
nhằm giải quyết dứt điểm các vấn đề tranh chấp thơng qua thương lượng hồ bình,
tránh đối đầu vũ trang gây xung đột. Theo hướng này, chúng ta đã ký kết được
Hiệp ước thoả thuận khai thác chung trên vùng biển chồng lấn với Malaixia (51992), Hiệp định phân định đường ranh giới trên biển với Thái Lan (8-1997), Hiệp
định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trên Vịnh Bắc Bộ với
Trung Quốc (12-2000)… Đây được coi là thành công lớn của chúng ta trong công
tác đối ngoại, hợp tác quốc tế bảo vệ chủ quyền biển, đảo đất nước.

17



KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia có lợi thế chiến lược đặc biệt thuận lợi về biển.
Vùng biển, đảo giàu có của Việt Nam ln giữ vai trị quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ vai trò to lớn của biển, đảo
nước ta; từ diễn biến phức tạp của tình hình Biển Đơng nói chung và tình hình
biển, đảo nước ta nói riêng; từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước ta trong
thời kỳ đổi mới… Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc được đặt ra
như một vấn đề mang tính khách quan, cấp thiết. Nhằm bảo vệ vững chắc chủ
quyền, lợi ích của quốc gia, dân tộc trên biển, Đảng Cộng sản Việt Nam với bản
lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo đã không ngừng đổi
mới tư duy lý luận, nhạy bén nắm bắt tình hình đề ra chủ trương, đường lối đúng
đắn, sát hợp, đồng thời chỉ đạo thực hiện thành cơng chủ trương, đường lối đó.
Quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình cách mạng
mới, gắn với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm
vụ thiêng liêng, cao cả, nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức. Trước tình hình
Biển Đơng ln diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường; trước sự
chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; trước âm
mưu, hành động của một số nước luôn tìm mọi cách xâm lấn, gặm nhấm lãnh
thổ trên biển của nước ta… đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phấn đấu, nêu cao quyết
tâm để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao (2012), Các đảo tranh chấp ở vùng biển
Nam Trung Hoa - Hoàng Sa - Trường Sa - Pratas - Bãi Macclesfield, Viện
nghiên cứu các vấn đề Châu Á tại Ham burg xuất bản, Hà Nội.
2. Đỗ Xuân Công (2015), “Tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ
vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số

27/2015.
3. Nguyễn Văn Hùng (2017), “Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân
trên biển”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 37/2017.
4. Nguyễn Văn Huyên (2014), “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
tuyên truyền về biển đảo trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Quốc phịng tồn
dân, số 5/2014.
5. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng tác biên phịng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19



×