Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN-tầm quan trọng và cơ sở chính trị, pháp lý của việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.46 KB, 23 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: TẦM QUAN TRỌNG VÀ CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ
CỦA VIỆC THÚC ĐẨY BÌNH ĐẰNG GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021
1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÌNH ĐẰNG GIỚI
I.
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM
Quan niệm về bình đẳng giới
1.1.
1.2.
II.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.



Bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
TẦM QUAN TRỌNG VÀ CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP
LÝ CỦA VIỆC THÚC ĐẨY BÌNH ĐẰNG GIỚI
TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam
Cơ sở chính trị, pháp lý của việc thúc đẩy bình đằng giới
trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Cơ sở chính trị của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam
Cơ sở pháp lý của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam

3
4
4
4
5
8
8
10
10
14

Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay

17


2.3.1.

Hồn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề giới trong lãnh
đạo, quản lý

17

2.3.2.

Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm
bình đẳng giới trong lãnh đại, quản lý

19

Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, đánh giá việc tuân
thủ pháp luật về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý

20

2.3.

2.3.3.

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

22
23



MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa của nước ta. Đấu tranh cho bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ luôn
gắn với các cuộc cách mạng xã hội. Việc giải phóng phụ nữ, phát huy tiềm năng
của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã hội. Sự bình
đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý nói riêng sẽ tạo
điều kiện khai thác và phát huy một cách có hiệu quả tài lực, trí lực của phụ nữ,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua (năm 2006) và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
2351/QDTTG ngày 24/12/2010 trong đó mục tiêu thứ nhất là: “Tăng cường sự
tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần
khoảng cách giới tính trong lĩnh vực chính trị”. Sau hơn 10 năm thực thi Luật và
7 năm thực hiện Chiến lược quốc gia, mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực
lãnh đạo, quản lý tuy có đạt được một số kết quả nhất định nhưng mục tiêu này
vẫn chưa thực hiện được.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm khoảng hơn 51% dân số và 50,6% lực lượng lao
động xã hội, họ không ngừng phát huy vai trò và khả năng, sức sáng tạo của
mình trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào sự
phát triển chung của đất nước. Vị thế của phụ nữ ngày càng được nâng cao, nhất
là trong lãnh đạo, quản lý ở nước ta có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, so với
tiềm năng của phụ nữ và với yêu cầu của cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam thì sự
tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính
trị cịn ít về số lượng, thấp về chất lượng trong tương quan với nam giới. Vì vậy,
nghiên cứu vấn đềi “Tầm quan trọng và cơ sở chính trị, pháp lý của việc thúc
đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận có

ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÌNH ĐẰNG GIỚI TRONG
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về bình đẳng giới
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng là ngang nhau về địa vị và quyền
lợi” [11, tr. 68]. theo đó bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,
là quyền cơ bản của con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã nội, không
phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp dân cư, các nhóm tuổi.
Tại Điểm 3, Điều 5, Luật Bình đẳng giới nước ta năm 2006 đã khẳng định:
“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bình đẳng giới là sự đối xử như nhau
giữa nam và nữ trên mọi phương diện, không phân biệt, hạn chế, loại trừ quyền
của bất cứ nam hay nữ; phụ nữ và nam giới có quyền và nghĩa vụ như nhau, có
cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự
phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Bình đẳng giới là một trong những nội dung của bình đẳng xã hội. Tuy
nhiên, bình đẳng giới khơng phải là sự hốn đổi vai trị của nam và nữ từ thái
cực này sang thái cực khác và cũng không phải là sự tuyệt đối hóa bằng con số
50/50 mà sự khác biệt về giới tính trong các vai trị sản xuất, vai trị chính trị, sự
chia sẻ trong cơng việc gia đình, chăm sóc con cái…để tạo cơ hội cho phụ nữ và
nam giới phát triển tồn diện. Vì vậy, chúng ta cần hiểu đúng về bình đẳng giới:
Thứ nhất, khơng nhầm lẫn bình đẳng giới với quan niệm xã hội về truyền
thống thuần phong mĩ tục (không phải hủ tục). Những nét dịu dàng, cư xử tế nhị,
biết chia sẻ cảm thơng, u thương chăm sóc gia đình…vẫn là phần vô cùng quý

báu của người phụ nữ Việt Nam. Bình đẳng giới khơng có nghĩa là triệt tiêu nó.
Thứ hai, bình đẳng giới khơng chỉ đơn thuần ngang nhau về số lượng, là sự
thăng tiến ngang nhau trong công việc mà điều quan trọng nhất là tạo điều kiện
cho cả hai giới có cơ hội và sự phát triển và hưởng thụ như nhau để đi đến thực
4


hiện mục tiêu lớn nhất là mang lại hạnh phúc cho mọi cá nhân, gia dình và cộng
đồng. Vì vậy phải có sự quan tâm, cảm thơng, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của cả
hai giới trong gia đình và ngồi xã hội.
Thứ ba, bình đẳng giới khơng có nghĩa là chỉ đấu tranh đòi quyền lợi của
phụ nữ mà đấu tranh cho sự bình đẳng của cả hai giới. Song, thời đại ngày nay
nhìn chung sự bất bình đẳng đối với phụ nữ là đa số cho nên người ta nói nhiều
đến việc địi qùn bình đẳng cho phụ nữ.
Như vậy, bình đẳng giới ở đây được hiểu là bình đẳng về quyền cơ bản và
về cơ hội phát triển cho cả nam giới, nữ giới. Bình đẳng giới ở đây có hai nghĩa:
một là, bình đẳng về ngun tắc (mục tiêu bình đẳng); hai là, bình đẳng tồn
diện (lý tưởng bình đẳng). Bình đẳng giới là mục tiêu lâu dài, đồng thời là mục
tiêu quan trọng của những nỗ lực phát triển hệ thống xã hội tổng thể... Bình đẳng
giới nhấn mạnh giá trị, vị trí của những nguyên tắc dân chủ và các quyền cơ bản
của con người, cho phụ nữ và nam giới, hướng tới ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.
1.2. Bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự thống nhất hành động trong
cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, nhất là vai trị tích cực của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp và Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt
Nam, cơng tác cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của phụ nữ vào cấp ủy, Quốc
hội, hội đồng nhân dân các cấp nói riêng trong thời gian qua đã đạt nhiều thành
tựu quan trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nữ trong hệ thống chính
trị các cấp tăng cả về số lượng và chất lượng.
Đội ngũ cán bộ, công chức nữ đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức,

khơng ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng trong thời kỳ mới; nhiều cán bộ nữ được giao trọng trách, giữ những
cương vị lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đồn thể chính trị - xã hội, cũng như các cương vị lãnh đạo, quản lý các cấp.
Nhiều cán bộ nữ được đào tạo cơ bản, có trình độ chun mơn, nghiệp vụ cao;
5


nhạy bén, năng động, sáng tạo; có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm cao trong cơng việc và
ln hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, điển hình như tại Đại hội XII của
Đảng, lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng, có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị và cả 3
người đều là đại biểu Quốc hội.
Tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV đã có 131/483 nữ đại biểu
trúng cử, đưa tỷ lệ nữ đại biểu lên 27,12%, tăng 2,3% so với nhiệm kỳ trước và
có nhiều đại biểu trẻ tuổi... Việc bố trí lãnh đạo nữ trong Quốc hội chiếm gần
40% (trong đó, Chủ tịch Quốc hội là nữ; chủ nhiệm các cơ quan của Quốc hội là
nữ chiếm 22,22%; phó chủ nhiệm các ủy ban là 6,45%; tất cả các ủy ban đều có
thành viên là nữ; tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016 - 2021 ở
cấp tỉnh là 26,54%, cấp huyện là 27,85% và cấp cơ sở là 26,59%)…
Đây là minh chứng cho thấy sự ưu việt trong sự nghiệp giải phóng phụ
nữ, giải phóng con người của Đảng, Nhà nước ta và cũng cho thấy sự vươn lên
của phụ nữ Việt Nam, đưa vị thế phụ nữ Việt Nam tham gia Quốc hội đứng thứ
2 khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đứng thứ 6 ở châu Á, vượt qua mức trung
bình là 19% của các nước châu Á và 21% của thế giới [3, tr.28].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, khung thể chế, chính
sách về bình đẳng giới trong chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam vẫn còn
những hạn chế nhất định. Cụ thể là:
Thứ nhất, những hạn chế trong thể chế về bình đẳng giới. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về giới, lồng ghép giới và các văn bản liên quan vẫn

còn chung chung, chưa có các tiêu chí cụ thể để xác định vấn đề giới, lồng ghép
giới. Chưa có chế tài cụ thể đối với các cơ quan không thực hiện đầy đủ các quy
định về bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức.
Các quy định về bình đẳng giới thường mang tính định hướng, khuyến khích
nhiều hơn là những ràng buộc, những quy định bắt buộc phải thực hiện.
6


Quy định về bình đẳng giới trong Luật Cán bộ, cơng chức vẫn thiên về
định tính, thiếu định lượng. Từ đó, tạo ra sự nhận thức và cách hiểu chưa thống
nhất về vấn đề bình đẳng giới trong quá trình thực hiện xây dựng đội ngũ công
chức, tỷ lệ và cơ cấu giữa nam và nữ chưa được bảo đảm, việc thống kê các chỉ
tiêu liên quan nam, nữ cán bộ, công chức thường chưa được chú ý đúng mức.
Quy định về bình đẳng giới chưa phân biệt biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
với chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ.
Thứ hai, hạn chế trong việc thực thi chính sách, pháp luật về vấn đề giới
trong quản lý cán bộ, cơng chức. Việc thực thi chính sách bình đẳng giới chưa
đáp ứng yêu cầu về bình đẳng giới, lồng ghép giới trong quản lý cán bộ, công
chức. Sự thiếu vắng các cơng cụ đảm bảo chính sách, pháp luật về giới trong đời
sống chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tham chính của phụ nữ trong hệ
thống chính trị các cấp hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý, cần bổ sung những chế tài đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ.
Chưa có sự đồng bộ, thống nhất về quyết tâm chính trị của cấp ủy đảng và chính
quyền địa phương với nhận thức của cộng đồng về tăng cường tham gia lãnh
đạo, quản lý của phụ nữ, nhất là đối với lãnh đạo cấp chiến lược.
Các quy định về nội dung mang tính bình đẳng, nhưng khi thực hiện có sự
khác biệt về kết quả giữa nam và nữ. Tồn tại khoảng trống giữa quy định với
thực thi chính sách quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nữ. Trong Văn kiện Đại hội Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định cần phải “làm tốt công
tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số,

chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược”. Tuy
nhiên, Văn kiện Đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đánh
giá công tác quy hoạch ở một số nơi vẫn cịn khép kín, chưa bảo đảm sự liên
thơng, gắn kết. Tỉ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ
nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không
là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu.
7


Từ thực tế trên cho thấy được tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đẳng
giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Điều đó xuất
phát từ tầm quan trọng của vấn đề bình đẳng giới trong sự phát triển của đất
nước, đồng thời điều đó cũng xuất phát từ chính thực trạng vấn đề bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay. Trong xu thế mở cửa, hội nhập vấn đề bình đẳng giới
càng trở nên quan trọng, thực tốt bình đẳng giới sẽ là động lực cho phát triển đất
nước, đưa nước ta tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
II. TẦM QUAN TRỌNG VÀ CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ CỦA
VIỆC THÚC ĐẨY BÌNH ĐẰNG GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở
VIỆT NAM
2.1. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phân
nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi
người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”
[9, tr,125]. Vì vậy, sự nghiệp giải phóng phụ nữ khơng chỉ là cơng việc riêng của
phụ nữ mà gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của
Việt Nam, mà của các nước trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá
sự phát triển của một xã hội. Theo quan niệm của Liên hợp quốc, bình đẳng giới

có nghĩa là phụ nữ và nam giới được hưởng những điều kiện như nhau để thực
hiện đầy đủ quyền con người, có cơ hội đóng góp cũng như thụ hưởng những
thành quả phát triển của quốc gia trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Nhiều năm qua, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã nỗ lực để mang lại bình
đẳng giới cho con người, để con người thật sự được sống trong một xã hội văn
minh, phát triển bền vững, nhân văn. Và, Việt Nam là một trong số các nước có
nhiều thành tựu về thực hiện bình đẳng giới đã được ghi nhận, như: xây dựng và
ban hành văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, là một trong
8


các quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vịng 20 năm qua, đã
hồn thành trước thời hạn mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho
phụ nữ (đây là một trong các Mục tiêu Thiên niên kỷ mà chúng ta phấn đấu đạt
tới); Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu
vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN); là
nước dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về các chỉ số bình đẳng giới
thơng qua việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục tới trẻ em gái, trẻ em trai, phụ
nữ, nam giới, tỷ lệ mù chữ của nữ giới so với nam giới ngày càng giảm… Đây là
những con số rất có ý nghĩa, bởi việc thực hiện bình đẳng giới sẽ giúp mang lại
các nguồn lợi lớn cho sự phát triền bền vững của mỗi quốc gia. Về điều này, bà
Tôn Nữ Thị Ninh, Phó Chủ tịch Ủy ban Hịa bình Việt Nam, nguyên Đại sứ Việt
Nam tại Liên hiệp châu Âu (EU) đã đưa ra một quan điểm đúng đắn về bình
đẳng giới rằng, bình đẳng giới khơng đơn thuần là quyền lợi của chị em, mà
chính là quyền lợi chung của một đất nước muốn phát triển bền vững. Bởi, nếu
một đất nước chỉ sử dụng một nửa dân số, không phát huy được đầy đủ và tối đa
năng lực của mọi người, của mọi công dân bất kể nam hay nữ thì thật là điều
đáng tiếc [1, tr208].
Bình đẳng giới là một trong các yếu tố để xác định một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Thực hiện bình đẳng giới tạo điều kiện cho phụ nữ được

tham gia cơng tác quản lý, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chiến
lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 coi việc nâng cao quyền
năng chính trị cho phụ nữ là mục tiêu hàng đầu. Với mục tiêu này Chiến lược
Quốc gia về bình đẳng giới. Phấn đấu đạt chỉ tiêu tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy
Đảng đến năm 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp phấn đấu đến năm 2021 trên 35% [7, tr192].
Không thể phủ nhận trong xã hội hiện đại, định kiến về giới vẫn còn nhưng
chỉ là trong tư tưởng của một số ít người dân. Sự bình đẳng giới, vai trị cân
bằng giữa nam và nữ đã được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực
chính trị, khơng chỉ tăng lên về số lượng mà chất lượng phụ nữ tham gia cũng
được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã trở thành các
9


nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan mà mình
tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt Nam, rất nhiều
người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc.
Với sự tác động tích cực từ các yếu tố thể chế chính thức, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng về thực hiện bình đẳng giới. Sự tham gia của
phụ nữ trong hệ thống chính trị đã đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống
các cơ quan chuyên trách về bình đẳng giới và cơng tác cán bộ nữ được kiện
tồn trên cả nước, đặc biệt Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - tổ chức chính trị
rộng lớn dành cho phụ nữ hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, đã
có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức thực hiện bồi dưỡng, giới thiệu phụ nữ
đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, phụ nữ đủ
tiêu chuẩn lãnh đạo, quản lý các cơ quan trong hệ thống chính trị. Điều đó góp
phần đưa đến chất lượng tham chính của phụ nữ cũng được tăng lên về trình độ
và năng lực quản lý.
Thực tế đó đã khẳng định sự hịa nhập của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo xã
hội và các hệ thống khác trong đời sống đang trở nên cần thiết; các phẩm chất

của phụ nữ đang mở rộng từ gia đình đến xã hội. Những biến đổi cần thiết này
giúp tăng cường vai trò của phụ nữ trong một thế giới đầy biến động, cũng như
phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong phát huy vai trò,
tiềm năng của phụ nữ trong điều kiện mới. Qua đó thấy được tầm quan trọng của
việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc thúc đẩy bình đằng giới trong
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
2.2.1. Cơ sở chính trị của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới
C.Mác và Ph.Ăngghen trong quá trình nghiên cứu sự phát triển của lịch sử
xã hội, các ông cho rằng mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in đậm công
lao của phụ nữ. Khi bàn về vị trí và vai trị của phụ nữ trong xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: Trong lịch sử nhân loại, khơng có một phong trào to lớn
10


nào của những người bị áp bức mà khơng có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ
lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp bức chính
vì vậy nên khơng bao giờ họ đứng ngồi và cũng khơng thể đứng ngồi các cuộc
đấu tranh giải phóng.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Nếu dân tộc đã được giải phóng
rồi, phụ nữ có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Ph.Ăngghen, giải phóng phụ nữ, xác lập qùn bình đẳng giữa nam và nữ
đều khơng thể có được và mãi mãi khơng thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn
cịn bị gạt ra ngồi lao động sản xuất xã hội, cịn phải bị bó hẹp trong cơng việc
riêng tư của gia đình: “Người đàn bà nếu làm trịn bổn phận phục vụ riêng cho gia
đình, lại phải đứng ngồi nền sản xuất xã hội và khơng thể có được một thu nhập
nào cả; và nếu họ muốn tham gia vào lao động xã hội và kiếm sống một cách độc

lập, thì họ lại khơng có điều kiện để làm trịn nhiệm vụ gia đình” [2, tr. 116].
Do đó, muốn thực hiện cơng cuộc giải phóng phụ nữ thì “điều kiện tiên
quyết là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, và điều
kiện đó lại địi hỏi phải làm cho gia đình cá thể khơng cịn là một đơn vị kinh tế
của xã hội nữa” [2, tr.116].
Để phụ nữ tham gia vào công việc xã hội, theo Ph.Ăngghen cần đưa những
công việc nội trợ của gia đình có thể thành cơng việc chung của xã hội, biến nội
trợ gia đình thành lao động hàng hóa. Ngồi ra, phải chú ý tới các điều kiện xã
hội quan trọng khác như xóa bỏ phong tục tập quán cũ kỹ, lạc hậu, tâm lý coi
thường phụ nữ, thường xuyên giáo dục và vận động mọi thành viên của xã hội
nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về bình
đẳng giới, trên cơ sở thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô Viết,
V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác
về vấn đề giải phóng phụ nữ, hơn nhân và gia đình của bọn cơ hội, xét lại và giai
cấp tư sản. Trên báo Sự thật ngày 6/11/1919, V.I.Lênin viết: “Trên lời nói, chế
độ dân chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng và tự do. Trong thực tế, không một nước
11


cộng hòa tư sản nào, dù là nước tiên tiến nhất, đã để cho một nửa loài người là
nữ giới được hồn tồn bình đẳng với nam giới trước pháp luật và giải phóng
phụ nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của nam giới” [13, tr.325].
Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin đã đề ra ba
nhóm giải pháp quan trọng nhằm thực hiện bình đẳng nam, nữ: 1) Luật pháp hóa
qùn bình đẳng nam nữ. Cùng với thủ tiêu pháp luật tư sản là việc ban hành
pháp luật mới. 2) Phụ nữ Xô Viết phải thực sự được bình đẳng, có qùn tham
gia quyết định vận mệnh của đất nước và trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước,
xây dựng củng cố chính quyền. 3) Khơng chỉ giải phóng phụ nữ ở ngồi xã hội
mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình. V.I.Lênin cịn cho rằng, bình đẳng

nam nữ khơng đồng nghĩa với sự ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia lao
động với năng suất, khối lượng, thời gian và điều kiện lao động như nam giới,
bởi “Ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói
buộc vì tồn bộ cơng việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ” [12, tr.231].
V.I.Lênin quan niệm: “Hễ phụ nữ cịn bận việc gia đình, thì địa vị của họ
vẫn khơng khỏi bị hạn chế. Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho họ
thật sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội, phải để
cho phụ nữ tham gia lao động sản xuất chung. Như thế, phụ nữ mới có địa vị
bình đẳng với nam giới” [12, tr.232].
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát triển những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về giải phóng phụ nữ, chỉ ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa nam
và nữ là do phụ nữ bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất xã hội; chỉ ra vai trò và khả
năng to lớn của phụ nữ đối với quá trình cách mạng vì tiến bộ xã hội; chỉ ra điều
kiện để đi đến giải phóng phụ nữ là đưa phụ nữ trở lại tham gia lao động sản
xuất xã hội và chuyển cơng việc nội trợ của gia đình thành cơng việc lớn của xã
hội; gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải
phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng vô sản.
* Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đặt
vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới và cũng là một trong những nhà tư
12


tưởng, lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người
đã tiếp thu và vận dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng vào hồn cảnh cụ thể của Việt
Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến. Hồ Chí Minh đã tìm ra nguyên nhân
nỗi thống khổ, áp bức của người phụ nữ dưới chế độ thực dân, phong kiến, từ đó
Người đã chỉ ra mục tiêu, biện pháp để giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.

Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản tại Pari
năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành cả một chương với chủ đề: “Nỗi khổ nhục
của người đàn bà bản xứ” để trình bày cho tồn thế giới biết về thân phận người
phụ nữ thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân - đội
lốt kẻ đi khai hóa văn minh nhưng đã hành động một cách dã man, bỉ ổi đối với
nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt đối với phụ nữ. Người viết: “Khơng một
chỗ nào người phụ nữ thốt khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong
nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn
nhẫn của bọn cai trị, sỹ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga” [8, tr.
114]. Khi đến thăm tượng nữ thần tự do ở Mỹ, Người đã nhận xét: Trong khi
người ta tượng trưng tự do và cơng lý bằng tượng một người đàn bà thì trong
thực tế, họ lại hành hạ những người đàn bà bằng xương, bằng thịt.
Không dừng ở việc tố cáo bọn thực dân xâm lược, Nguyễn Ái Quốc đã
nhìn thấy ở những người phụ nữ bị áp bức, đọa đầy này một sức mạnh to lớn,
sức mạnh mà tất cả các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại không thể thiếu.
Người khẳng định: “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là khơng có
đàn bà con gái tham gia” [8, tr.116]. Xuất phát từ lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc, Người viết: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi
nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ
nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc” [8, tr.117].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ là mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, đây là một việc không đơn giản,
13


không phải đánh đổ được thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc là nam nữ
bình đẳng, càng khơng phải là chia đều công việc giữa nam và nữ, Người viết:
“Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ chỉ: hôm nay anh nấu cơm, rửa bát,
quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng, bình qùn.

Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu
trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội.
Vì khơng thể dùng vũ lực mà tranh đấu” [8, tr. 121].
Khơng chỉ khẳng định vai trị to lớn của người phụ nữ, Hồ Chí Minh cịn
chỉ ra nhiều biện pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ.
Người nhận định, giải phóng phụ nữ là sự kết hợp của hai yếu tố: một là, bản
thân người phụ nữ phải tự phấn đấu vươn lên; hai là, sự quan tâm của Đảng, nhà
nước, đoàn thể, gia đình và xã hội. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng gia đình
bình đẳng, hạnh phúc phải trên cơ sở luật hơn nhân gia đình mới. Đây là tiền đề
quan trọng để giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng
phụ nữ và thực hiện nam nữ bình quyền trên các lĩnh vực của đời sống xã hội là
những tư tưởng nhân văn cao cả, đồng thời là nền tảng tư tưởng của Đảng ta
trong suốt giai đoạn cách mạng, đấu tranh giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của
phụ nữ Việt Nam.
2.2.2. Cơ sở pháp lý của việc thúc đẩy bình đằng giới trong lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam
“Thực hiện nam nữ bình quyền” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào Luận
cương Chính trị năm 1930. Có thể coi đây là bản “Tun ngơn” đầu tiên về bình
đẳng giới của Việt Nam, trong đó nam giới và phụ nữ được cơng nhận ngang
hàng nhau về mặt chính trị.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về
cơng tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
xác định rõ mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ
14


về mọi mặt, có trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng u cầu cơng

nghệp hố, hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện
rõ rệt về đời sống vật chất, văn hố, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn
cơng việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho
xã hội và gia đình, phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu
bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực” [10, tr.6].
Trong các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề thực hiện bình đẳng giới ln được bổ
sung, hồn thiện và phát triển. Đại hội IX khẳng định: “Đối với phụ nữ, thực
hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới” [4, tr.86]. Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ
mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện
để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp....
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng khẳng định:
“Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của
phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất
bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng bn bán phụ nữ và bạo lực trong
gia đình” [5, tr.131]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
chỉ rõ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất tinh thần của phụ nữ…,
tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển khả năng…, bổ sung và hồn thiện pháp luật
và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện
tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội”, “Tăng tỉ lệ cán bộ
nữ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ; cán bộ trẻ” [6, tr.163].
Bình đẳng giới luôn là nguyên tắc hiến định trong pháp luật nước ta: Điều
63 Hiến pháp 1992 quy định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Trên trường quốc
tế, Việt Nam đã ký “Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ” (gọi tắt là công ước CEDAW) vào ngày 29 tháng 7 năm1980. Trung thành
15



với các điều khoản đã ghi trong cơng ước, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa và
sửa đổi các điều khoản pháp luật của mình để tạo ra mơi trường pháp lý cần thiết
thúc đẩy quá trình bình đẳng nam nữ.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội thơng
qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật gồm VI chương,
44 điều, quy định đầy đủ các vấn đề và điều khoản nhằm thực hiện BĐG ở nước
ta, trong đó xác định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về
giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập,
củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình”. Luật Bình đẳng giới cũng xác định BĐG trên các lĩnh vực xã
hội và gia đình.
Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT - TTg
ngày 03 tháng 5 năm 2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới; Nghị
định số: 70/2008/NĐ - CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Bình đẳng giới; Nghị định số 48/NĐ - CP ngày 19 tháng 5
năm 2009 quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Ngày 24 tháng 12 năm 2010, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 bằng Quyết định 2351/QĐ - TTg. Có
thể thấy chiến lược là một nỗ lực lớn của chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy bình đẳng giới ở nước ta. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến năm
2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự
tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp
phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu, 22 chỉ tiêu nhằm thúc đẩy
thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Trong đó, mục tiêu 1 về Tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước
giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị quy định 3 chỉ tiêu sau: Chỉ

tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ
25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
16


nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%. Chỉ tiêu 2: Phấn đấu đến năm 2020 đạt trên
95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp
có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Chỉ tiêu 3: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% cơ
quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là cán
bộ nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động.
Các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng Giới giai đoạn 2011 2020 thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc thực hiện
BĐG. Tạo cơ hội và điều kiện thuận lợ cho đội ngũ cán bộ nữ phát huy mọi khả
năng của mình đóng góp vào q trình xây đựng đât nước nói chung và xây
dựng hệ thống chính trị nói riêng.
Ngày 16/3/2015 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch triển
khai Thông báo kết luận số 196-TB/TW ngày 16/3/2015 của Ban Bí thư về Đề
án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”. Mục tiêu là thông qua việc triển khai
một số giải pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị thế
của phụ nữ và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, ngành, vùng, địa
phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới cao.
Có thể nói, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo ra
có sở pháp lý thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam. Đây
là một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc đảm bảo quyền
bình đẳng của phụ nữ nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền bình
đẳng nam nữ trên thực tế.
2.3. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở
Việt Nam hiện nay
2.3.1. Hồn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề giới trong lãnh đạo,

quản lý

17


Các cơ quan Đảng và Nhà nước, các bộ, ngành và địa phương cần rà soát
để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật từ góc
độ giới. Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tư pháp cần rà sốt chính sách của Đảng và
pháp luật có liên quan đến độ tuổi quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ
nhiệm để thống kê tất cả các quy định khác nhau về độ tuổi giữa nam và nữ
đang tồn tại trong các văn bản hiện nay, gồm nội dung quy định, cơ quan ban
hành, năm ban hành, hiệu lực thi hành, đối tượng thực hiện...
Trong q trình xây dựng và ban hành chính sách, các cơ quan chức năng
cần tiến hành điều tra, khảo sát để đánh giá nhu cầu của các bên liên quan để có
sự phân nhóm xã hội trong khung chính sách nhằm vừa đảm bảo được quyền lợi
cho các bên liên quan vừa thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao vào quá
trình lãnh đạo, quản lý. So sánh với nhóm nam giới, phụ nữ dẫu có năng lực
nhưng với thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình đã bị gián đoạn những thời gian
nhất định nên nếu khung chính sách quy định tuổi quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm
thấp hơn so với nam giới thì đó là chưa bình đẳng đối với phụ nữ.
Cần quy định rõ về bình đẳng giới trong nền cơng vụ. Đó là sự bình đẳng
về cơ hội, bình đẳng trong đánh giá, trong đóng góp và thụ hưởng những đóng
góp trong hoạt động cơng vụ. Việc bảo đảm bình đẳng khơng chỉ đơn thuần về
cơ hội hay trong tiếp cận, mà yêu cầu phải bình đẳng thực sự về kết quả.
Tăng cường tiếng nói, sự tham gia của nữ cán bộ cấp chiến lược trong việc tạo
lập thể chế, chính sách về cơng vụ nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong pháp luật
thực định và trong q trình thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.
Nâng cao chất lượng báo cáo đánh giá tác động, báo cáo thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật về khía cạnh bình đẳng giới, lồng ghép giới. Việc thẩm định
các văn bản quy phạm pháp luật cũng cần bổ sung khía cạnh về bình đẳng giới

nếu văn bản dự kiến sẽ tác động đến nam giới và nữ giới. Thực hiện nghiêm túc
việc kiểm tra, thanh tra, giám sát quy trình xây dựng, soạn thảo thơng qua các dự
18


án văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo lồng ghép vấn đề bình đẳng giới.
Kiên quyết khơng thẩm định, thẩm tra và thơng qua nếu khơng có báo cáo đánh
giá hoặc làm hình thức, sơ sài vấn đề lồng ghép bình đẳng giới.
Xây dựng và triển khai thực hiện Bộ công cụ đánh giá lồng ghép giới trong
văn bản quy phạm pháp luật. Bộ công cụ này đánh giá mức độ quan tâm đến vấn
đề bình đẳng giới, bảo đảm các quy định có tính đến những đặc điểm xã hội của
nam giới và nữ giới, sự phát triển về vị trí, vai trị của nam giới và nữ giới trong
các hoạt động công vụ.
Khung pháp lý và chính sách bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý khu
vực công cần đảm bảo những yêu cầu như: đưa chỉ tiêu/tỷ lệ về sự tham gia của
phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách;
điều chỉnh quy định tuổi quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo, quản lý, tuổi nghỉ hưu
một cách linh hoạt phù hợp với từng nhóm ngành nghề, lĩnh vực hoạt động tổng
kết, đánh giá thường xuyên, định kỳ về q trình triển khai và thực hiện chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị.
2.3.2. Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm bình
đẳng giới trong lãnh đại, quản lý
Đổi mới và nâng cao hiệu quả chiến lược truyền thông về thực thi quyền
tham chính của phụ nữ. Giáo dục, tuyên truyền và vận động, trước hết cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là người đứng đầu về bình đẳng
giới và xác định cơ hội học tập của cán bộ nữ là quyền cơ bản mà họ được hưởng.
Công tác truyền thông phải làm nâng cao nhận thức của nam cán bộ, công chức,
những người chồng của nữ cán bộ, cơng chức và người dân về hình ảnh lãnh đạo
của người phụ nữ, từ đó làm thay đổi hành vi của cử tri khi đi bầu cử. Cần thay
đổi các hình ảnh truyền thống bằng hình ảnh phụ nữ tự tin, bản lĩnh, phụ nữ thành

đạt trong khoa học, chính trị và có thể chinh phục những vị trí cao trong xã hội và
tạo ra những thành quả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
19


Các cơ quan, ban, ngành, địa phương cần chú trọng công tác quy hoạch
đội ngũ cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý. Các nghiên cứu đã chỉ rõ
rằng, tỷ lệ tham gia hoạt động chính trị của phụ nữ vừa thiếu về số lượng, vừa
hạn chế về vị trí đảm nhận. Trình độ chun mơn, lý luận chính trị và sự trải
nghiệm của phụ nữ qua thực tiễn còn khiêm tốn khi so sánh với nam giới. Bởi
vậy, để phụ nữ có đủ điều kiện tham gia vào lãnh đạo, quản lý thì cần xem đây là
cơng việc quan trọng và thường xuyên của Đảng và Nhà nước, đặc biệt ở cấp cơ
sở để tránh sự thiếu hụt về số lượng cán bộ nữ.
Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cũng cần được quan tâm nhằm đảm bảo
không thiếu hụt cán bộ nữ khi được quy hoạch ở chức vụ lãnh đạo, quản lý. Để
thực hiện điều này, lãnh đạo các cấp đặc biệt chú ý tới việc tạo điều kiện, cơ hội
cho phụ nữ tham gia vào các khố đào tạo về lý luận chính trị, quản lý nhà nước
và kiến thức chuyên môn cũng như việc tham gia hoạt động xã hội. Bởi vì đầu
tư giáo dục cho phụ nữ là một trong những loại hình đầu tư đem lại nhiều lợi ích
nhất cho một quốc gia.
Cần có cơ chế đảm bảo phụ nữ là chủ thể của qùn chính trị chứ khơng
phải là khách thể của quyền. Từ trước đến nay, chúng ta thường nhấn mạnh đến
trao quyền cho phụ nữ mà không thấy rằng điều này đồng nghĩa với việc xem
phụ nữ là khách thể của quyền chứ không phải là chủ thể. Chủ thể của quyền là
người phụ nữ phải biết mình có qùn và tự địi hỏi lấy qùn đó, sử dụng các
qùn có được để thực hiện mục đích của họ. Quyền chính trị là một trong
những quyền cơ bản của phụ nữ được quy định cụ thể ở Công ước xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và pháp luật Việt Nam. Mặc
dù vậy, quyền chính trị bị hạn chế rất nhiều bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan chi phối; nhận thức và hành vi trao quyền cho phụ nữ với tư cách phụ nữ là

khách thể quyền đã khiến cho họ không thực hiện một cách trọn vẹn.
2.3.3. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ
pháp luật về bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
20


Giám sát về thực hiện pháp luật bình đẳng giới cần được đưa vào chương
trình giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Theo những địa bàn,
ngành, lĩnh vực công tác cụ thể, vấn đề giám sát bình đẳng giới cần xây dựng
thành giám sát chuyên đề để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan
trong việc bảo đảm thực hiện bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, cơng chức.
Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trị giám sát của các đồn thể chính trị - xã hội,
đặc biệt là vai trị của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp trong việc
thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
Các cơ quan nhà nước cần tổ chức các hoạt động kiểm tra thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới. Cần nhận thức rằng việc bảo đảm thực hiện bình đẳng
giới trong quản lý cán bộ, cơng chức khơng chỉ có ý nghĩa tích cực đối nam giới
hay nữ giới, mà cịn có tác động tích cực đối với nền cơng vụ. Hoạt động giám
sát, kiểm tra thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cần phải đa dạng hóa về hình
thức và phương thức, khơng chỉ dừng lại ở việc nghe các báo cáo đánh giá về
bình đẳng giới mà cần phải tăng cường sự trao đổi, đối thoại với cán bộ, công
chức nam và công chức nữ; từ những ý kiến của cán bộ, cơng chức có thể nhận
ra mức độ tồn tại của các định kiến giới, mức độ nhận thức về sự cần thiết về
bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức và khả năng tổ chức thực hiện
các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, cơng chức.
Cần có chính sách biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tổ
chức có đóng góp cho những vấn đề cần được giải quyết, nhưng chưa được quan
tâm và có áp dụng hệ thống thi đua, khen thưởng đối với những cơ quan, tổ chức
thực hiện tốt chính sách cũng như cơng tác bộ nữ. Các giải pháp này được gợi
mở xuất phát từ thực tiễn chưa có cơ chế khuyến khích các cơ quan, tổ chức

thực thi tốt chủ trương bình đẳng giới trong quản lý cán bộ, công chức cũng như
chế tài đối với những trường hợp thiếu sự quan tâm hay sai sót trong việc thực
thi các chính sách liên quan đến giới và bình đẳng giới.

21


Do đó, cần xây dựng quy chế khen thưởng và xử phạt một cách nghiêm
túc đối với cá nhân, tổ chức thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng
giới. Đồng thời, xử lý kịp thời những cá nhân, tổ chức có biểu hiện định kiến
giới đối với phụ nữ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và bổ nhiệm
để góp phần tăng cường bình đẳng giới trong nền công vụ.

22


KẾT LUẬN
Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của
xã hội; thể hiện trình độ giải phóng phụ nữ và là thước đo của sự tiến bộ xã hội.
Kế thừa và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra những chính sách, pháp luật để thực hiện bình đẳng giới trên thực tế. Thực
hiện tốt bình đẳng giới là cơ sở để phát huy vai trò của người phụ nữ trong mọi
điều kiện hoàn cảnh, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm đến vấn đề
bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý, phát huy được vai trò của người phụ nữ
trong hoạt động chính trị - xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số bất cập
trong thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý. Những hạn chế bắt
nguồn từ nhưng nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yếu là từ

nguyên nhân chủ quan như: nhận thức về giới và bình đẳng gới trong hệ thống
chính trị cịn chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa thống nhất; cơ chế, chính sách tạo
nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tính chiến
lược lâu dài, thiếu tính đột phá; bản thân người phụ nữ chưa thực sự phát huy
được thế mạnh, tiềm năng, những thuận lợi để tham gia đầy đủ vào các chức
danh lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; gánh nặng cơng việc gia đình
cũng góp phần gây trở ngại đối với phụ nữ tham chính; định kiến giới đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ nữ trong hệ
thống chính trị hiện nay.
Để thực hiện tốt hơn nữa bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý hiện nay cần
quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, giải pháp và đặc biệt phải bám sát
vào cơ sở chính trị, pháp lý. Thực tiễn thực hiện bình đẳng giới trong lãnh đạo,
quản lý là quá trình lâu dài, phức tạp địi hỏi phải có sự sáng tạo trong vận dụng các
giải pháp, đồng thời cần có sự tổng kết, bổ sung các biện pháp cho phù hợp.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Anh (2018), Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở
trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2. C.Mác - Ph.Ănghghen, toàn tập, tập 28, Nxb Sự thật, 1976.
3. Kim Dung (lược dịch) (2015), “Vấn đề giới trong các báo cáo thực
hiện và phát triển mục tiêu thiên niên kỷ”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 6.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2017), Nâng cao năng lực lãnh đạo của
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (1949), “Dân vận”, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
9. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
10. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
11. Viện ngơn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
12. V.I.Lênin (1924), “Chính qùn Xơ Viết và địa vị của phụ nữ”, Lênin
Toàn tập, Tập 39, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 2005.
13. V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.

24



×