Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tài liệu Thị hoá ờ VN và Tp HCM nhanh hay chậm ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.69 KB, 6 trang )

TTCN - Trong khoảng 10 năm trở lại đây trên các phương tiện thông tin đại chúng, các báo
cáo chính trị thường xuất hiện những cụm từ mang nội dung đại loại như “Việt Nam đang
tiến hành đô thị hóa (ĐTH) với một mức độ rất cao” hoặc “tốc độ ĐTH của TP.HCM diễn
ra với tốc độ chóng mặt và nhanh chưa từng thấy”.
Thậm chí mỗi khi có một sự cố nào đó như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, giá
nhà đất tăng phi mã, nhà sập thì người ta thường có xu hướng đổ lỗi cho ĐTH nhanh quá.
Thật sự có phải đúng như thế không? Xác định điều này cực kỳ quan trọng vì nó liên quan
đến việc hoạch định đường lối chiến lược phát triển và chiến thuật hành động. Còn nhớ
năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của Trung Quốc là 13,5%. Một tốc độ tăng
trưởng được coi là quá nóng đã gây ra nhiều hệ quả xấu về xã hội, ngay lập tức Trung
Quốc đã hãm dần lại và điều chỉnh còn khoảng 9%.
Mức độ ĐTH của VN
Để hình dung, chúng tôi làm phép so sánh mức độ ĐTH của VN với Nhật Bản trong tiến
trình lịch sử. Xin hiểu sự so sánh này không mang ý nghĩa chính trị hay văn hóa cũng như
chỉ số về chất lượng sống mà chỉ đơn thuần là về thống kê học.
Nhật Bản Việt Nam
Nhìn vào bảng thống kê này chúng ta nhận thấy mức độ ĐTH của VN hiện nay tương
đương với Nhật vào thời điểm những năm 1920. Nếu tính ĐTH theo kiểu công nghiệp của
Nhật bắt đầu từ thời kỳ Minh Trị Duy Tân (1868) thì Nhật mất khoảng 50 năm để đưa mức
ĐTH lên đến 23% (1920, thời kỳ Taisho) bằng VN năm 2002, còn chúng ta phải mất đến
144 năm (kể từ 1858 giai đoạn bắt đầu của ĐTH công nghiệp khi Pháp xâm lược VN) để
đạt được một tỉ lệ tương đương của Nhật 82 năm về trước.
Năm
Dân số ĐT/Tổng
dân số tòan quốc
1868 8%
1920 23%
1925 25%
1940 39,6%
1950 42%
1970 48%


1985 68%
1990 91,7%
1995 93%
Năm
Dân số ĐT/tổng
số dân toàn quốc
1931 7.5%
1936 7.9%
1955 11.0%
1975 21.5%
1981 18.6%
1982 19.2%
1985 19.3%
1989 19.7%
1996 21.0%
2002 23.5%
2010 33%
2050 50%
Một trong số những lý do quan trọng nhất làm cho ĐTH của VN
bị chậm là do chiến tranh liên miên, nhưng cũng cần phải lưu ý
là nếu giai đoạn phát khởi ĐTH của Nhật vào giữa thế kỷ 19 là
thời kỳ còn rất lạc hậu thì ĐTH của chúng ta về cơ bản lại tiến
hành vào nửa sau của thế kỷ 20, lúc mà các thành tựu khoa học
kỹ thuật đã phát triển như vũ bão (xem trong bảng thống kê cho
thấy tiến trình ĐTH của VN chủ yếu từ sau năm 1975 khi mà
chiến tranh đã cơ bản chấm dứt trên lãnh thổ VN).
Theo tính toán của các nhà kinh tế, chúng ta cần phải mất ít nhất 40 năm là thời gian cần để
đưa tỉ trọng nông nghiệp VN từ 70% xuống còn 50%. Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn như hiện nay (0,5% mỗi năm) thì đến khoảng giữa thế kỷ 21, hơn 50% dân
cư VN vẫn là nông dân. Giả sử điều này thành hiện thực thì cũng chỉ tương đương với

Nhật vào những năm 1940.
Tuy nhiên, 50% là một tỉ lệ rất khó đạt được. Douglas Webster, chuyên gia cao cấp của
Ngân hàng Thế giới (WB), trong báo cáo thường niên (viết ngày 2-7-2003) đã nhận định
rằng 20 năm nữa VN rất khó có thể đạt được mức 40% bởi vì di dân về các đô thị lớn đã
bắt đầu có sự bão hòa và cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ ít dần khi các thành phố hướng đến
loại lao động kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công. Thêm nữa là việc phát triển các đô thị
vừa và nhỏ (thị xã, thị trấn, hương trấn) chưa được chú ý nhiều ở VN.
So với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, VN cũng vẫn là đất nước có tỉ lệ
ĐTH vào loại thấp:
Tốc độ ĐTH ở TP.HCM
Bên đây là bảng thống kê chưa thật đầy đủ các mốc đánh dấu sự gia tăng dân số ở một số
đô thị lớn của châu Á và của TP.HCM.
Bankok Jakarta Seoul
Kuala
lumpur
TPHCM
* Nếu mức độ và tốc độ
đô thị hóa quá cao và
quá nhanh dẫn đến các
diễn tiến xã hội vượt ra
khỏi tầm kiểm soát của
cơ quan công quyền thì
phải hãm bớt tốc độ lại.
* Nếu mức độ và tốc độ
đô thị hóa thấp và chậm
mà thực trạng xã hội bất
ổn thì cần thiết phải
xem lại cấu trúc và cơ
chế hoạt động của bộ
máy quản lý.

1960:
1.800.000
1961:
2.970.000
1960:
2.400.000
1960:
350.000
1960:
1.400.000
1986:
5.400.000
1971:
4.580.000
1970:
5.500.000
1970:
650.000
1970:
1.700.000
1990:
6.000.000
1981:
6.480.000
1980:
8.400.000
1980:
977.000
1980:
3.200.000

1999
7.500.000
1991:
8.220.000
1990:
10.600.000
1990:
1.400.000
1990:
4.100.000
2001:
8.200.000
2001:
13.000.000
1995
12.000.000
2000:
3.000.000
1995:
4.760.000
2000:
3.000.000
2000:
5.150.000
2002:
5.370.000
Bảng thống kê cho thấy trong quãng thời gian 40 năm từ 1960/1961 đến 2000/2001/2002
mức tăng dân số của thành phố như sau:
Bangkok tăng dân số lên 4,6 lần; Jakarta tăng 4,4 lần; Seoul tăng 5,8 lần; Kuala Lumpur
tăng 8,6 lần, còn TP.HCM tăng 3,8 lần. Trung bình một năm Bangkok tăng lên 160.000

nhân khẩu, Jakarta tăng 250.000, Seoul tăng 290.000, Kuala Lumpur tăng 66.000,
TP.HCM tăng 99.000 người.
Nếu lấy khoảng thời gian 10 năm gần đây nhất từ thời điểm 1990 (TP.HCM bắt đầu tăng
tốc ĐTH sau đổi mới 1986) đến 2000 để so sánh thì chúng ta thấy: trong khi TP.HCM tăng
1 triệu dân thì Kuala Lumpur tăng 1,6 triệu; Seoul tăng 3,4 triệu, Jakarta tăng 4,7 triệu,
Bangkok tăng 2,2 triệu.
Như thế, rõ ràng mức độ và tốc độ ĐTH của chúng ta trên
phạm vi toàn quốc là chậm so với các nước khác trên thế giới
và trong khu vực. Còn riêng ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
TP.HCM quả thật là ĐTH có nhanh hơn nếu so sánh với
chính bản thân chúng qua các thời điểm. Chẳng hạn từ năm
1955 Sài Gòn có 1.900.800 dân, đến 1984 tăng lên 3.389.000,
tức là sau 30 năm tăng thêm 1.488.000 người.
Nhưng sau 17 năm từ 1985 đến 2002 dân số thành phố này tăng thêm gần 2 triệu người.
Như vậy là hiện tại có nhanh hơn so với quá khứ, tuy vẫn là chậm so với bên ngoài. Ngoài
ra có một yếu tố khác nữa đưa đến cảm giác là chúng ta tiến hành ĐTH rất nhanh, đó là
việc bành trướng qui mô không gian đô thị rất nhanh về các hướng (đô thị hóa theo chiều
rộng) ở cả hai thành phố Hà Nội và TP.HCM.
Chính hiện tượng mở rộng đô thị tự phát, sự xuất hiện liên tục những khu nhà mới, con
đường mới và kể cả sự lộn xộn về nhà đất ở các quận, huyện vùng ven như quận 7, 9, 12,
huyện Hóc Môn, Bình Chánh khiến chúng ta có cảm nhận là thành phố đang “lớn lên từng
ngày” “liên tục bùng nổ” cực kỳ nhanh. Thật sự đó là một diễn biến tâm lý của người sản
xuất nhỏ bị choáng ngợp trước sự thay đổi bên ngoài mà chưa được chuẩn bị kỹ về tinh
thần nên dễ đưa đến ngộ nhận.
Kết quả nghiên cứu này cho chúng ta thấy điều gì?
1. Tăng tốc ĐTH là điều rất cần thiết, nó chứng tỏ được sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
một quốc gia hay một khu vực theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nhưng nếu sự
chuyển dịch từ lao động nông nghiệp dựa trên cơ sở từ thủ công sang lao động công nghiệp
thô mà chủ yếu là làm thuê, gia công, phải bỏ ra vốn lớn, tốn nhiều sức lao động, chiếm
dụng mặt bằng lớn, nhưng năng suất và hiệu quả mang lại thấp và các hoạt động tạp vụ

đơn giản khác thì sự chuyển dịch này ít có ý nghĩa cho phát triển.
Do vậy, khi đẩy nhanh qui mô ĐTH thì phải đặc biệt chú trọng đến chất lượng của lực
lượng lao động và phân bổ nguồn nhân lực, nếu không sẽ xảy ra tình trạng số lượng người
không làm nông nghiệp tăng lên, nhưng đó chỉ là nguồn bổ sung cho đội quân thất nghiệp
khổng lồ và tạo ra sức ép khủng khiếp cho các đô thị. Chỉ cần một cơn “động đất” như 1-7-
1997 (khủng hoảng tài chính châu Á) thì lập tức hàng triệu người lao đao vì không có
chuyên môn nên khả năng chuyển đổi nghề nghiệp thấp. Trong trường hợp này, tốc độ
ĐTH càng nhanh thì tai họa lại càng lớn.
“Có một bí ẩn nào đó đằng
sau hiện tượng đô thị hóa ở
VN cho đến nay có nhịp độ
rất thấp? Chúng ta mới có
23% dân số ở đô thị. Di dân
nông thôn - nông thôn
mạnh hơn di dân nông thôn
- đô thị (dòng người di cư
từ các tỉnh phía Bắc đến
các tỉnh thuộc Tây nguyên
nhiều hơn di cư vào các
thành phố - chú thích tác
giả bài viết). Và cùng với
26% số dân từ nông thôn
vào đô thị, lại có 10% chiều
ngược lại - di dân từ đô thị
về nông thôn”.
GS Đỗ Thái Đồng(Nghiên
cứu con người và xã hội)

×