Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

CÁCH CHƠI đàn TRANH cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.57 KB, 5 trang )

CÁCH CHƠI ĐÀN TRANH CƠ BẢN
Email Print

“Đêm khuya nghe tiếng đàn tranh
Ru trăng vào mộng nghe lành ý thơ”
Mỗi lần nghe tiếng Đàn Tranh, bạn như được đắm chìm trong một câu
chuyện cổ tích, cứ muốn nghe đi rồi nghe lại. Bạn thấy mình thực sự yêu
quý tiếng đàn và mong muốn sẽ chơi được loại nhạc cụ này. Trong bài viết
này, TẠ THÂM xin giới thiệu đến các bạn một số kỹ thuật cách chơi đàn
tranh cơ bản.

Vị trí ngồi
Vị trí ngồi là điều quan trọng đầu tiên mà chúng tơi muốn đề cập đến, vì
đây chính là một kỹ thuật thường cho là khá đơn giản nhưng lại phải có
những quy tắc nhất định. Do đó:
Các bạn nên ngồi trên ghế cao vừa phải (hai chân phải chạm đất), hai
cánh tay mở ra vừa phải (từ vai xuống khuỷu tay đến bàn tay), không nên
giang rộng như "đại bàng vỗ cánh" vì như vậy là sai tư thế sẽ dễ bị mỏi
dẫn
tới
việc
không
thể
đàn
được.
Với đàn tranh, bàn tay phải được coi là nơi “đẻ” ra âm thanh, bàn tay trái là
nơi “ni dưỡng” âm thanh. Do đó, việc nắm vững kỹ thuật bàn tay phải và
bàn tay trái là điều quan trọng với người chơi đàn tranh.


Kỹ thuật bàn tay phải


Trước đây thường dùng 2 ngón gẩy, ngày nay phổ biến là 3 ngón, cá biệt
sử dụng 4 hoặc 5 ngón. Đàn được gẩy bằng móng đồi mồi ở miền Bắc và
móng inox ở miền Nam.
Tuy nhiên cách gẩy 3 ngón là cách gẩy thơng dụng nhất là ngón cái (số 1),
ngón trỏ (số 2) và ngón giữa (số 3). Với những cách gẩy cơ bản: liền bậc,
cách bậc, gẩy đi lên và đi xuống liền bậc hay cách bậc.
Tư thế: Bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, thả lỏng, ngón áp út tì
nhẹ lên cầu đàn. Khi đánh những dây đàn thấp, cổ tay trịn lại, hạ dần về
phía trước đàn. Khi đánh những dây cao, cố hạ dần theo chiều cong của
cầu đàn, cánh tay cũng hạ khép dần lại (tránh không đưa cánh tay ra phía
ngồi). Ba ngón tay gảy mềm mại, từng ngón thả lỏng này nhẹ nhàng nâng
lên hay hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh
gãy ngón, móc dây.
Kỹ thuật:
- Ngón Á: là một lối gảy rất phổ biến của Ðàn Tranh, đây là cách gảy lướt
trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc, thường ngón Á hay ở vào phách yếu
để chuẩn bị vào một phách mạnh đầu hay cuối câu nhạc.
- Á xuống: theo lối cổ truyền, Á xuống là gảy liền các âm liền bậc, từ một
âm cao xuống các âm thấp, tức là sử dụng ngón cái của tay phải lướt
nhanh và đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp.
- Á lên: là kỹ thuật lướt qua hàng dây, nhưng vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón
3 từ một âm thấp lên các âm cao.
- Á vòng: kết hợp Á lên và Á xuống, Á vòng thường chuẩn bị cho mở đầu
hoặc kết thúc một câu nhạc, có trường hợp nó được sử dụng để tả cảnh
sóng nước, gió thổi, mưa rơi và có thể sử dụng ngón Á vòng liên tiếp với
nhiều âm hơn.
- Song thanh: 2 nốt cùng phát ra một lúc, song thanh truyền thống chỉ
dùng quãng 8, các nhạc sĩ hiện đại còn kết hợp dùng các quãng khác.



- Ngón vê: là sử dụng ngón tay phải ngón 2 hoặc kết hợp ngón 1-2; 1-3; 12-3, gảy trên dây liên tục và các ngón khác phải khum trịn, cổ tay kết hợp
với ngón tay đánh xuống, hất lên đều đặn. Khi vê đầu móng gảy khơng nên
đặt q sâu xuống dây sẽ tạo tiếng đàn không đều đặn, êm ái.
Kỹ thuật bàn tay trái
Tư thế: Ðầu ba ngón tay giữa đặt trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự
nhiên, ngón tay hơi khum, hai hoặc ba ngón (trỏ, giữa, áp út) chụm lại,
ngón cái và ngón út tách rời, dáng bàn tay vươn về phía trước. Khi rung,
nhấn, bàn tay được nâng lên mềm mại, ba ngón chụm lại cùng một lúc
chuyển từ dây nọ sang dây kia
Kỹ thuật:
- Ngón rung: là cách dùng một, hai hoặc ba ngón tay trái rung nhẹ trên sợi
dây đàn (bên trái hàng nhạn đàn) mà tay phải vừa gảy.

- Ngón nhấn: là ngón sử dụng để đánh thêm được những âm khác có thể
là 1/2 âm, 1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống dây đàn Tranh khơng có. Cách
nhấn là sử dụng ba đầu ngón tay trái nhấn xuống tùy theo yêu cầu của bài
(nửa cung nhấn nhẹ, 1 cung nhấn nặng hơn) nghệ nhân dùng tai nghe để
điều chỉnh tay nhấn.

- Ngón nhấn luyến: là ngón sử dụng các ngón nhấn để luyến hai hay ba
âm có độ cao khác nhau, âm thanh nghe mềm mại, uyển chuyển gần với
thanh điệu tiếng nói. Có hai loại nhấn luyến:
a. Nhấn luyến lên: nghệ nhân gảy vào một dây để vang lên, tay trái nhấn
dần lên dây đó làm âm thanh cao lên hoặc tiếp tục nhấn cho cao lên nữa.
b. Nhấn luyến xuống: muốn có âm luyến xuống, trước hết phải mượn nốt.
Ví dụ muốn có âm Fa luyến xuống âm Rê phải mượn dây Rê nhấn mạnh
trước rồi mới gảy sau; khi âm Fa ngân lên ngón tay trái nới dần để âm Rê
của dây đó vang theo luyến tiếng với âm Fa. Ðánh âm nhấn luyến lên hay



nhấn luyến xuống chỉ cần gảy một lần. Ðộ ngân của các âm nhấn luyến
được ghi như các nốt nhạc bình thường. Bạn cần phân phối thời gian để
các âm có thể đều hoặc khơng đều nhau, độ cao của âm nhấn luyến lên
hay nhấn luyến xuống có thể trong vòng quãng 4 nếu là khoảng âm thấp
hoặc quãng 2, quãng 3 thứ ở những âm cao, không nên sử dụng liên tiếp
nhiều âm nhấn luyến.
- Ngón nhún: là cách nhấn liên tục trên một dây nào đó làm cho âm thanh
cao lên khơng q một cung liền bậc. Ngón tay nhún tạo thành những làn
sóng có giao động lớn hơn ở ngón rung, làm cho âm thanh thêm mềm mại,
tình cảm sâu lắng.
- Ngón vỗ: là một kiểu ngón nhấn như đúng như tên gọi, đây là cách dùng
hai hay ba đầu ngón tay (ngón trỏ, giữa, áp út) vỗ lên một dây nào đó phía
bên trái nhạn đàn vừa được gảy, và nhấc ngay các ngón tay lên làm âm
thanh cao lên đột ngột từ nửa cung đến một cung. Có hai loại vỗ:
a. Vỗ đồng thời: tức là cùng lúc tay phải gảy dây, tay trái vỗ sẽ nghe thấy
hai âm: một âm phụ cao hơn nửa cung hoặc 1 cung luyến nhanh ngay
xuống âm chính (âm phụ do ngón tay trái vỗ tạo nên).

b. Vỗ sau: tay phải gảy dây xong, tay trái mới vỗ lên dây, như vậy sẽ nghe
thấy 3 âm luyến : âm thứ nhất do tay phải gảy lên dây, âm thứ hai do ngón
vỗ tạo nên, âm nầy cao hơn âm thứ nhất khoảng nửa cung hoặc 1 cung
tiếp đó là âm thứ ba do ngón tay vỗ xong nhấc lên ngay, dây đàn được trở
lại trạng thái cũ, âm thanh cịn lại vang lên theo độ căng của dây đó lúc
đầu.

- Ngón vuốt: tay phải gảy đàn tiếp theo dùng hai, ba ngón tay trái vuốt lên
dây đàn đó từ nhạn đàn ra trục dây hay ngược lại làm tăng sức căng của
dây một cách đều đều, liên tục. Âm thanh được nâng cao dần lên trong
phạm vi 1/2 cung đến 1 cung.
- Ngón gảy tay trái: để thay đổi màu sắc, đồng thời phát huy khả năng



âm thanh của dây đàn, ngón tay trái cũng có thể gảy dây trong phạm vi
phía bên tay phải hàng nhạn đàn. Tay trái khơng đeo móng gảy nên khi gảy
âm thanh nghe êm hơn nhưng không vang bằng âm thanh tay phải gảy. Có
thể gảy bằng hai tay để tạo chồng âm nhưng thường là tay trái gảy những
âm rãi trong khi tay phải sử dụng ngón vê hoặc đang nghỉ.
- Ngón bịt: là ngón vừa sử dụng ngón tay phải gảy dây, vừa dùng đầu
ngón tay trái đặt nhẹ trên dây đàn hoặc chặn tay trái lên đầu nhạn đàn
nếu là gảy một nốt nhạc. Nếu định gảy hẳn một đoạn nhạc với toàn âm bịt,
nghệ nhân sử dụng cạnh bàn tay phải chặn nhẹ lên cầu đàn, dùng tay trái
gảy thay tay phải. Hiệu quả âm thanh ngón bịt khơng vang mà mờ đục, gây
được ấn tượng tương phản rõ rệt với một đoạn nhạc đánh bình thường.

- Âm bồi: có thể đánh trên tất cả các dây nhưng chỉ nên đánh trong
khoảng âm giữa, âm dưới và nên đánh những âm bồi quãng tám. Cách
đánh là sử dụng ngón tay trái chặn vào đoạn dây thích hợp kể từ đầu đàn
trong khi tay phải gảy dây đó. Âm bồi Ðàn Tranh nghe đẹp hơn hẳn so với
nhiều loại đàn dây gảy khác.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×