Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Hình thái KT XH cộng sản chủ nghĩa và sự vận dụng vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.76 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Xã hội cộng sản chủ nghĩa là giai đoạn phát triển cao nhất trong lịch sử
phát triển của xã hội lồi người, trong đó xã hội xã hội chủ nghĩa là giai đoạn
đầu tiên. Trong tác phẩm “Nhà nước cách mạng”, V.I.Lênin đã viết: “Trong giai
đoạn đầu, trong nấc thang thứ nhất, chủ nghĩa cộng sản chưa thể hoàn toàn
trưởng thành về mặt kinh tế, chưa thể hoàn toàn thốt khỏi những tập tục hay
những tàn tích của chủ nghĩa tư bản”.
Việc nghiên cứu các quy luật khách quan của quá trình phát sinh, hình
thành và phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa nói chung, mà trực tiếp là các
quy luật vận động của xã hội xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. Chính
vì vậy, có nắm vững các quy luật chúng ta mới có thể vận dụng sáng tạo chúng
vào hồn cảnh cụ thể của nước là mà định rõ được mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ, hình thức, bước đi phù hợp, nhờ đó nâng cao hiệu quả của q trình
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.


NỘI DUNG
1. Những đặc điểm cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Về chính trị: Ở giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa vẫn còn tồn
tại sự khác biệt giai cấp, trong đó có những người thuộc các giai cấp bóc lột đã
mất địa vị thống trị xã hội, do đó, xã hội vẫn cịn nhà nước. Cũng như mọi nhà
nước đã có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công
nhân, biểu hiện ở sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nhà nước. Nhà nước
phải thực hiện chức năng cưỡng bức, kể cả phải dùng tới hình thức bạo lực; Nhà
nước vẫn phải sử dụng luật pháp kiểu pháp quyền tư sản và do đó chưa thể có
hồn tồn tự do, hoặc hồn tồn bình đẳng cho tất cả mọi người. V.I.Lênin đã
viết: “trong thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, khơng những vẫn cịn
pháp quyền tư sản mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng khơng có giải cấp
tư sản”.
Mặt khác, nhà nước xã hội chủ nghĩa lại là nhà nước của đa số nhân dân
lao động trán áp thiểu số giai cấp bóc lột đã bị đánh bại về chính trị, nhằm bảo vệ


mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, do đó, chức năng chủ yếu của
nó khơng chỉ là bạo lực - trấn áp và cũng không phải chủ yếu là bao lực trấn áp.
Chức năng chủ yếu là tổ chức xây dựng thành công xã hội mới - xã hội khơng
cịn sự khác biệt giai cấp và do đó nhà nước trở thành thừa. Đó là nhà nước đặc
biệt, nhà nước khơng cịn ngun nghĩa, nhà nước nửa nhà nước, nhà nước đang
bị tiêu vong.
Quá trình tự tiêu vong chỉ diễn ra đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa và chỉ
diễn ra trong quá trình nhà nước ấy ngày càng mạnh lên. Sức mạnh của nhà nước
xã hội chủ nghĩa thể hiện tập trung ở trình độ tổ chức và xây dựng ngày càng cao
của nó.
Về kinh tế: Phải phát triển nhanh lực lượng sản xuất cả trong nông nghiệp,
công nghiệp, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, phát triển nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó xóa dần sự khác biệt giữa công
nghiệp và nông nghiệp, khác biệt giữa thành thị và nông thôn, sự khác biệt giữa
giai cấp công nhân và nơng dân, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.


Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, phải từng bước cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới với chế độ công hữu những
tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều đó có nghĩa là ở những mức độ khác nhau, tùy
thuộc từng nước vẫn cịn nhiều hình thức sở hữu.
Cùng với q trình thiết lập sở hữu cơng cộng các tư liệu sản xuất chủ yếu
là quá trình hình thành lao động tập thể trên nguyên tác bình đẳng, tự nguyện. Và
khi tư liệu sản xuất là của chung mà nguồn của cải vật chất do xã hội tạo ra chưa
thật dồi dào thì nguyên tắc phân phối tương ứng sẽ là “làm theo năng lực, hưởng
theo lao động”. Nguyên tắc phân phối theo lao động tiến bộ hơn, bình đẳng hơn
ở chỗ, xóa bỏ bóc lột nhưng chưa bình đẳng hồn toàn, mà vẫn theo quy luật trao
đổi ngang giá, mang tính chất pháp quyền tư sản. Bổ sung cho sự hạn chế ấy
dưới chủ nghĩa xã hội sẽ ngày càng mở rộng các hình thức phúc lợi xã hội, góp
phần tăng thêm thu nhập và cân đối thu nhập hợp lý hơn, bình đẳng hơn.

Về xã hội: Ở giai đoạn đầu còn các mối quan hệ xã hội gắn với quan hệ
giai cấp và do đó, q trình giải quyết các quan hệ xã hội đều chịu sự chi phối
của đường lối chính trị của giai cấp cơng nhân. Ví dụ, giải quyết quan hệ giai cấp
và dân tộc, giải quyết quan hệ dân tộc và quốc tế, các quan hệ hơn nhân gia đình,
quan hệ đạo đức, tín ngưỡng và tơn giáo; phát triển văn hóa dân tộc, giáo dục,
đào tạo vì lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
2. Đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc trưng xã
hội xã hội chủ nghĩa và thực tiễn Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân xây dựng. Đó là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nên kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cũng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.


Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Dân giàu, là một trong những điều kiện căn bản để nhân dân được hưởng
hạnh phúc. Dưới chủ nghĩa xã hội, làm giàu vẫn là động lực phát triển kinh tế
bên cạnh những động lực khác. Dân giàu chỉ mang bản chất xã hội chủ nghĩa khi
dân giàu đi đôi với công bằng xã hội, tiến tới một xã hội kinh tế phát triển, căn
bản khơng cịn những người thu nhập thấp, đời sống khó khăn, những người thất
nghiệp phải sống nhờ vào cứu tế xã hội. Chủ nghĩa xã hội khuyến khích và tạo
điều kiện cho nhân dân làm giàu một cách chính đáng, hợp pháp.
Nước mạnh, là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước mạnh

chỉ trở thành mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khi nước là nước của nhân dân, do
nhân dân làm chủ, khi nước mạnh là điều kiện để nhân dân được hưởng hồ
bình, tự do, ấm no, hạnh phúc. Nước mạnh khơng chỉ là vấn đề kinh tế, văn hố,
xã hội, mà còn bao hàm cả sức mạnh quân sự, phải có nền quốc phịng và an
ninh vững mạnh. Nước mạnh bao hàm trong đó có sức mạnh về quốc phòng và
an ninh để đủ sức đề kháng và chống lại các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ
thù; không bị chao đảo, biến chất trước sự chống phá của các thế lực thù địch và
tác động của tình hình.
Dân chủ, vừa là động lực, vừa là mục đích và bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đó là dân làm chủ đất nước và dân làm chủ mọi công việc của đất nước,
quan hệ đến lợi ích, cuộc sống của mình; khơng chỉ làm chủ về chính trị mà còn
làm chủ trong kinh tế, xã hội. Dưới chủ nghĩa xã hội, dân chủ không chỉ là một
chế độ nhà nước mà còn tồn tại với tư cách một chế độ tự quản của nhân dân đối
với mọi hoạt động xã hội. Do vậy, vai trò quản lý xã hội của các đoàn thể nhân
dân ngày càng tăng lên, nguyên tắc bao nhiều quyền hạn đầu của dân” được thực
hiện một cách đầy đủ.
Công bằng, là một trong những khác biệt căn bản giữa chế độ xã hội chủ
nghĩa với các chế độ xã hội trước đó. Xố bỏ áp bức, bất công và những cơ sở
nảy sinh áp bức bất công, xây dựng các điều kiện để con người phát triển tự do
và tồn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mục đích của chủ nghĩa xã
hội. Công bằng không chỉ là mọi người đều có quyền mưu tìm hạnh phúc mà
cơng bằng ngay trong những điều kiện xã hội để xây dựng hạnh phúc. Điều kiện


hiện thực đó là nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh của đời sống xã hội. Công bằng
quan hệ mật thiết với dân chủ, dân chủ là điều kiện để thực hiện công bằng.
Văn minh, chỉ xã hội tương lai của loài người. Nền văn minh trong chủ
nghĩa xã hội là nền văn minh toàn diện và nhân bản nhất. Đó khơng chỉ là văn
minh vật chất - kỹ thuật mà cịn là văn minh tinh thần, khơng chỉ văn minh trong
quan hệ giữa người với thiên nhiên mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người

với người, văn minh trong các tổ chức xã hội, chất lượng cuộc sống và lối sống.
Đó là văn minh của xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng. Nền văn
minh xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành tựu văn
minh nhân loại kết hợp với kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân
tộc.
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những mục tiêu
không tách rời nhau, mà bổ sung cho nhau, mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện,
tiền để cho mục tiêu kia. Đó là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững,
từng bước được hiện thực hố trong q trình đổi mới đất nước trên con đường
xã hội chủ nghĩa.
Do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng hiện ở
bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân
là người làm chủ thực sự. Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011) khẳng
định, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyển lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Chỉ có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng
nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và


văn hố của nhân dân, khơng ngừng nâng cao phúc lợi xã hội. Nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là yếu tố tạo quyết định việc nâng

cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao
của phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa
phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hoá nhân loại, vừa phải kế thừa, phát
triển bản sắc văn hoá của các tộc người Việt Nam. Sự kết hợp hài hoà những giá
trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hoá, làm cho
văn hoá trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi
ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá
nhân, làm cho mọi người phát huy tính tích cực trong cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no, hạnh phuc, có điều
kiện phát triển toàn diện cho con người như là địi hỏi tiên quyết, là mục tiêu cơ
bản. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm
nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng, phát triển toàn diện con người của
Đảng ta.
Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cũng phát triển.
Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Bình dàng và đồn kết là nền tảng của sự tơn
trọng và giúp nhau cùng phát triển. Tôn trọng và giúp nhau khơng chỉ là tình
thương, lịng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu trách nhiệm và điều kiện
thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu
chuẩn quan trọng của xã hội phát triển.



Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với
tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thơng qua nhà nước, Đảng lãnh đạo tồn xã
hội và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt
của xã hội. Đây là một nhà nước “nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của
nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình
ngày càng rõ hơn. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và
điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân
dân là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dụng khơng
chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội mà
cịn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước. Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân
dân ta và nhân dân các nước trên thế giới, là bạn là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện
rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội. Những đặc trưng đó quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau,
tác động lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau, không thể tách rời, phản ảnh toàn diện
các yếu tố cấu thành cơ thể xã hội xã hội chủ nghĩa. Chúng luôn vận động và

phát triển cùng với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


KẾT LUẬN
Nghiên cứu về lý luận hình thái kinh tế xã hội của các nhà kinh điển Mác
- Lênin có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới, tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là cơ sở, là nền tảng của Đảng, được Đảng ta vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Muốn xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Chính vì vậy,
học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề cấp thiết đặt ra với mỗi
người, đặc biệt là thế hệ thanh niên hiện nay, để có thể đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam giành thắng lợi, xây dựng thành cơng chế độ xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976.
2. GS.TS Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011)
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2021.



×