Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.99 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều
quan tâm, bởi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, để ngày mai thế giới
có những chủ nhân tương lai tốt, xã hội có những cơng dân thật sự lầm chỗ thì
ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về tự
nhiên xã hội và có phẩm chất đạo đức của con người để các em được học lên các
cấp học trên dễ dàng. Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn luôn được xã hội quan
tâm nhưng quan trọng hơn cả vẫn là trường học, đặc biệt là trường Tiểu học. Bởi
vì nhà trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là nơi kết tinh trình độ văn
minh của xã hội trong công tác giáo dục trẻ em. Đứa trẻ ngày hôm nay và mai
sau trở thành những người như thế nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào cấp tiểu học
các em được học những gì.
Trong thời gian này xã hội đang nói rất nhiều về giáo dục, về chất lượng
học sinh lên lớp, về những học sinh ngồi nhầm lớp từ khi có cuộc vận động “hai
khơng” của Bộ trưởng Bộ giáo dục. Những người giáo viên như tôi không khỏi
suy nghĩ phải làm gì, làm như thế nào để “sản phẩm” của mình phải có chất
lượng, những lí do trên đã thơi thúc tơi cần phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể
góp phần đưa chất lượng học sinh đạt hiệu quả tốt. Là một giáo viên dạy lớp
Một nhiều năm nhưng tôi luôn trăn trở và suy nghĩ tìm ra giải pháp tối ưu nhất
để giúp các em học sinh lớp Một lớp học tập tốt. Năm học 2020-2021 lớp 1 học
theo chương trình giáo dục phổ thơng 2018, nếu các em đọc thơng, viết thạo mới
làm tốn tốt. Các em đọc không thông thạo dẫn đến làm tốn cũng rất khó khăn
và học các mơn học khác chậm. Như vậy các em học lên các lớp trên sẽ bị hổng
kiến thức.
Hơn ai hết một giáo viên trực tiếp công tác giảng dạy các em học sinh tiểu
học hơn nữa chủ nhiệm bốn năm liền lớp Một “lứa tuổi vàng”. Tôi nhận thấy
những nguy hại khôn lường của việc không đọc thông viết thạo của học sinh lớp
Một.
1



Chính bởi những tác hại của việc chưa đọc thơng viết thạo gây nên đối
với chất lượng giáo dục, cũng như gián tiếp ảnh hưởng đến tâm lý của các em
mà nó đã trở thành mối lo và cần tìm hướng giải quyết. Từ thực tế qua nhiều
năm giảng dạy lớp Một nên hơn một năm qua tôi thử nghiệm và có hiệu quả và
mạnh dạn đưa ra sáng kiến tôi đã chọn đề tài này “Một số kinh nghiệm nâng
cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp Một”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này nhằm:
Hình thành và phát triển kinh nghiệm thêm cho giáo viên.
Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc,
trong đời sống, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh.
Thơng qua việc dạy và học rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học
sinh tự chiếm lĩnh kiến thức. Tự tin trong ứng xử, tự giác trong mọi hoạt động.
Khơi dậy trong các em niềm u thích học tập.
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt lớp Một được áp dụng cho tất cả giáo viên lớp Một. Giúp giáo viên
có thêm nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, từ đó học sinh biết cách tự học, tạo
động lực trong học tập, phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo qua cách thức tổ chức học tập, cho học sinh trao đổi và nhận xét kết quả
học tập của nhau.

2


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của việc Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy
học môn Tiếng Việt lớp Một

Như chúng ta đều biết tất cả những kinh nghiệm của đời sống, những
thành tựu văn hóa khoa học, những tư tưởng tình cảm của thế hệ trước và của cả
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết
đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của lồi người, khơng thể sống
một cuộc sống bình thường có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội
hiện đại.
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, họ
biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư
duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ
bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư
tưởng tình cảm của người khác.
Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm về văn chương con người không chỉ thức
tỉnh về nhận thức mà cịn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ cao đẹp,
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi
dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ khơng có điều kiện hưởng thụ sự
giáo dục mà xã hội dành cho họ, khơng thể hình thành được một nhân cách toàn
diện .
Như chúng ta đều biết tất cả những kinh nghiệm của đời sống, những
thành tựu văn hóa khoa học, những tư tưởng tình cảm của thế hệ trước và của cả
những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết
đọc con người khơng thể tiếp thu nền văn minh của lồi người, khơng thể sống
một cuộc sống bình thường có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội
hiện đại.
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, họ
biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư
duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ
3


bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thơng hiểu tư

tưởng tình cảm của người khác. Trong thời đại bùng nổ thơng tin thì biết đọc
càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng nguồn thơng tin. Đọc chính là
học, học nữa, học mãi. Đọc để tự học, học cả đời. Vì vậy, dạy đọc, viết có ý
nghĩa rất quan trọng.
Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm về văn chương con người khơng chỉ thức
tỉnh về nhận thức mà cịn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ cao đẹp,
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi
dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ khơng có điều kiện hưởng thụ sự
giáo dục mà xã hội dành cho họ, khơng thể hình thành được một nhân cách tồn
diện.
a) Thuận lợi:
Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng thực hành Tiếng Việt.
Phịng học thống mát, đủ điều kiện học cả hai mùa đông hè. Bàn ghế đầy đủ.
Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm giúp đỡ mỗi khi tôi gặp khó khăn.
Bên cạnh đó được sự quan tâm giúp đỡ của địa phương, các cấp lãnh đạo.
b) Khó khăn :
Bản thân tôi không phải là giáo viên địa phương nên khó khăn trong việc
gặp gỡ trao đổi với phụ huynh nắm bắt từng hoàn cảnh của các em để quan tâm
kịp thời.
Đối tượng học sinh của tôi ở đây là học sinh lớp 1. Ở lứa tuổi này khả
năng tập trung chú ý của trẻ, tư duy chưa phát triển nên việc bồi dưỡng tiếng
Việt cho các em ở giai đoạn này rất khó khăn. Để giải quyết khó khăn ban đầu
đấy thì trong hoạt động dạy học của mình, tôi đã sử dụng một số biện pháp để
giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt
Trường thuộc địa bàn dân cư đa số làm ruộng có thu nhập chưa cao, cịn
có nhiều học sinh thuộc diện cận nghèo. Phụ huynh lo làm ăn kiếm sống từng
ngày. Phụ huynh còn chưa quan tâm đúng mức đến việc tự học của con em, chưa
nhận thấy tầm quan trọng của việc rèn luyện ý thức tự học cho con em mình. Ít
4



đôn đốc con em học tập ở nhà, phần lớn tất cả trách nhiệm tập trung ở giáo viên
chủ nhiệm.
Điều kiện cuộc sống gia đình học sinh đang cịn khó khăn, một số gia đình
đơng con nên phụ huynh chưa tập trung cao vào việc học tập của các em.
Một số học sinh có bố mẹ ly hơn, một số học sinh mất bố hoặc mẹ, một số
học sinh bố mẹ đi làm ăn xa phải sống với ông bà.
Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng thiếu tập trung trong học tập ở lớp
tôi phụ trách là học sinh lớp Một do mới ở bậc mầm non lên còn nhiều bỡ ngỡ,
lứa tuổi còn nhỏ, tư duy độc lập còn hạn chế nên khả năng tự học chưa cao và
chưa bền vững.
Qua q trình dạy học tơi nhận thấy chất lượng dạy học môn Tiếng Việt
của lớp Một đạt hiệu quả chưa cao có rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên
nhân chủ yếu mà một số học sinh lớp Một đến cuối năm đọc, viết vẫn còn chậm
tập trung vào những nguyên nhân sau đây:
* Đối với học sinh: Bị bệnh lý bẩm sinh, học hay quên; lười học; do hoàn
cảnh gia đình.
* Đối với phụ huynh: Một số gia đình phụ huynh chưa thực sự quan tâm
đến con em mình, phó mặc khốn trắng cho giáo viên.
Học sinh lớp Một khi mới vào trường tiểu học các em còn rất bỡ ngỡ và
mọi thứ còn rất mới lạ, trong thời gian đầu các em được học những gì và được
dạy gì phụ thuộc phần lớn vào thầy cơ ở trường nên để dạy cho các em học các
mơn học nói chung và mơn Tiếng Việt nói riêng có hiệu quả ngay từ năm đầu
cấp đòi hỏi người giáo viên phải ln tìm hiểu và nghiên cứu những phương
pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, hiểu được hoàn cảnh của
học sinh, hiểu được tâm lý các em và địi hỏi phải có sự nhiệt tình tâm huyết của
người thầy.
c) Kết quả thực hiện khảo sát đánh giá năng môn Tiếng Việt đầu năm
học 2020 – 2021


5


Chính vì những lý do đó mà ngay từ đầu nhận lớp tôi đã phân loại đối tượng
học sinh như sau :
Mơn

Tổng số

Tiếng Việt

học sinh
29

Hồn thành tốt
SL
%
8

27,6

Hồn thành
SL
%
14

48,3

Cần cố gắng
SL

%
7

24,1

Từ những số liệu cụ thể tôi chủ động đưa ra các giải pháp và tiến hành
ngay để làm sao nâng dần chất lượng dạy môn Tiếng Việt cho các em học sinh.
2.2. Một số biện pháp Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy
học môn Tiếng Việt lớp Một
2.2.1. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh; giáo viên cần nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ học sinh.
a) Phương pháp dạy học theo nhóm đối tượng:
Tơi phân loại học sinh trong lớp thành những nhóm đối tượng 4 mức theo
Thơng tư 27 như sau:
 Nhóm 1: Gồm những học sinh giỏi
 Nhóm 2: Gồm những học sinh khá
 Nhóm 3: Gồm những học sinh trung bình
 Nhóm 4: Gồm những học sinh chậm, yếu
Giáo viên có thể thay tên nhóm 1,2,3,4 thành tên khác như nhóm A, B, C,
D…Trong q trình dạy t«i vẫn phải lấy chuẩn để làm thước đo nhưng ở các tiết
ôn tập, các giờ ôn của buổi chiều tôi luôn yêu cầu các em thực hiện nhiệm vụ
với 4 mức khác nhau trong cùng một giờ học.
Ví dụ: Nhóm 4 các em đọc nhiều lần hơn, viết ít hơn so với nhóm 1 và 2.
Các dạng bài đọc và viết về vần đều có thể vận dụng phương pháp này. Chẳng
hạn bài 8C vần en, ên, un các em chỉ cần viết en, ên, un, dế mèn, con sên, con
giun, mỗi vần, mỗi từ chỉ một dòng, trong khi đó các em ở nhóm 1, 2 viết nhiều
6


hơn mỗi loại như trên từ 2 đến 3 dòng. Các em ở nhóm 2 chỉ cần viết theo yêu

cầu chuẩn.
b) Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật
thật….cho học sinh học chậm
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu
tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mơ hình vật thật, tranh ảnh, do
vậy trong các giờ học việc giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể
thiếu kể cả đồ dùng do giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển
tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ
năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh
học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học
đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong q trình
dạy mơn Tiếng Việt cho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm.
Ví dụ: Ở những bài học về âm. Chẳng hạn như Bài 3B trang 32 Sách giáo
khoa Tiếng Việt 1 Tập 1: Quan sát tranh để hỏi đáp về các loại quả và tìm ra từ
khố sau khi các em đã nhận diện âm n và nh ở phần đầu tiết học nhưng tôi đã
thay thế tranh bằng vật thật. Từ những hình ảnh như thế các em sẽ dễ nhớ và
nhớ chính xác hơn các vần và các từ được học bởi các em có sự liên tưởng từ vật
thật đến vần của bài học.
Vậy dùng tranh, ảnh, vật thật trong các giờ Tiếng Việt giúp học sinh nhớ
vần và từ tốt hơn.
Ngồi ra dùng tranh, ảnh có vai trị rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết
học vần mơn Tiếng Việt lớp 1 – Học kì I.
Như vậy rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo
tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh khá giỏi lại
vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm.
c) Người giáo viên cần có lịng nhiệt tình, ln quan tâm giúp đỡ học
sinh
7



Là giáo viên lớp Một nên tôi luôn hiểu rằng các em học sinh lớp Một mới
từ mẫu giáo chuyển lên nên việc tiếp thu kiến thức thơng qua hình thức: “Học
mà chơi, chơi mà học”. Vì vậy tơi ln nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em, tạo
khơng khí thoải mái, vui vẻ trong giờ học, lời nhận xét và những câu động viên
giúp các em thấy tự tin và phấn khởi, sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết,
tránh quát mắng các em khi các em làm sai hay chưa làm được. Đặc biệt không
được ngồi một chỗ bảo các em đọc đi, viết đi mà giáo viên phải đi xuống bên
học sinh xem em nào đã làm được còn em nào làm chưa được nhắc nhở các em,
chỉ cụ thể cho các em nhất là với các em học chậm cần nhắc lại hay cầm tay các
em để các em viết cho đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một
ngày vui. Giáo viên phải gần gũi với học sinh thì mới hiểu được về học sinh của
mình, để hình ảnh ân cần của cơ ln là hình ảnh đẹp trong ánh mắt của các em,
bản thân các em cũng thấy cô giáo như người thân trong gia đình sẵn sàng kể
cho cơ nghe những niềm vui hoặc những khó khăn của mình trong học tập hay
trong sinh hoạt hàng ngày mà cần cơ giúp đỡ.
Qua q trình dạy học tơi nhận thấy nếu người giáo viên biết lựa chọn
phương pháp dạy học thích hợp với từng trình độ học sinh của lớp mình cùng
với lịng nhiệt tình, quan tâm giúp đỡ học sinh học chậm thì chất lượng học sinh
ngày một được nâng lên.
2.2.2. Người giáo viên phải làm gì để học sinh nhận thức chậm, hay
qn; học sinh có hồn cảnh gia đình học tốt hơn
Có lẽ ngun nhân này là nguyên nhân lớn làm giảm chất lượng học tập,
qua giảng dạy nhiều năm, nhưng tôi thực sự băn khoăn và trăn trở bởi số học
sinh này không phải chỉ có 1 hay 2 em, nên tơi nghĩ cần có kế hoạch cụ thể để
gióp các em học sinh này học như thế nào cho đạt kết quả tốt, không phải trong
một tháng mà trong cả một năm học, có khi cả trong hè.
a) Đối với học sinh nhận thức chậm, hay quên
Là giáo viên chủ nhiệm tôi phải phân loại và nắm được số lượng học sinh
này, tôi luôn cã một phương pháp dạy và dạy một lượng kiến thức phù hợp cho

8


các em. Tuy nhiên với học sinh cả lớp tôi vẫn lấy chuẩn để làm mục tiêu phấn
đấu, còn những em này nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các
em khơng thể theo kịp, vì thế trước hết tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù
hợp và có tác dụng thúc đẩy.
Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ
bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói,
được các bạn nhắc nhở ln với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em
hoạt động nhóm đơi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi
cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em học tốt để các em biết phát huy
những ưu điểm của bạn
Dạy các em lượng kiến thức phù hợp như: Về viết chỉ yêu cầu các em viết
một số dòng nếu như những học sinh bình thường có thể viết nhiều dịng trở lên.
Ví dụ: Tiết tập chép bài: Bồ câu và kiến vàng - Trang 60 Tiếng Việt 1 Tập 2, yêu cầu chuẩn học sinh chép đoạn 2(26 chữ), trong khoảng 15 phút
nhưng đối với học sinh chậm yêu cầu các em chép 15-20 chữ, trong khoảng 15
phút bên cạnh đó giáo viên phải theo dõi sát các em, uốn nắn và hướng dẫn cụ
thể cho các em.
Về đọc tăng cường gọi các em đọc lại nhiều lần nếu là vần, đọc nhiều lần
nếu là câu ứng dụng hay một đoạn văn, đoạn thơ.
Ngồi ra tơi có kế hoạch về thời gian để kèm cặp, phụ đạo học sinh này,
phải sắp xếp thời gian cho phù hợp và phụ đạo cho học sinh có chất lượng, cụ
thể các tiết ơn tập buổi chiều các em học giỏi, khá tự làm các yêu cầu giáo viên
giao và các em ngồi cùng bàn theo dõi lẫn nhau, khi đó giáo viên phải quan tâm
đặc biệt tới những em học chậm theo dõi sát khi các em đọc, viết, cho các em
đọc nhiều hơn, động viên các em mỗi khi các em đọc tốt.
b) Đối với những học sinh có hồn cảnh gia đình như mồ cơi, cha mẹ
bất hồ, cuộc sống khó khăn
Ngun nhân này cũng là yếu tố làm giảm chất lượng học sinh, trong quá

trình tìm hiểu thực tế cho thấy nhiều em đến lớp không viết bài, ngồi ngơ ngác
9


có khi cịn ngủ gật, khơng chú ý cơ giảng bài… Đối tượng học sinh này cần
được quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy muốn các học sinh này
học tốt giáo viên phải nắm được hồn cảnh thực tế của các em từ đó mới có biện
pháp cụ thể để dạy các em.
Để giúp các em có điều kiện tốt trong học tập. Mặc dù điều kiện kinh tế
của tơi cịn nhiều khó khăn. Song tơi cũng đã dành một phần lương nhỏ bé của
mình mua tặng cho các em một cuốn vở, hay cái bút chì, một cái thướ kẻ.....Để
động viên các em trong mọi hoạt động nhất là với những em có hồn cảnh khó
khăn, tơi ln gần gũi quan tâm các em khi các em bị bệnh, ốm, tạo khơng khí
thoải mái trong học tập, để các em thấy cô giáo là người mẹ thứ hai thực sự của
mình, các em khơng cịn thấy cơ đơn khi tới trường.
Đối với học sinh có hồn cảnh đặc biệt, giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ,
động viên các em giúp các em tự tin trong học tập và hoà nhập với cộng đồng,
cần giúp đỡ các em cả vật chất và tinh thần
2.2.3. Làm thế nào để phụ huynh quan tâm tới con em mình khơng
khốn trắng cho cơ giáo và thấy được sự phối hợp giữa nhà trường và gia
dình là rất cần thiết.
Từ thực tế cho thấy nhiều cha mẹ học sinh cho con đến trường là xong
nhiệm vụ còn trách nhiệm dạy, giáo dục con mình là phần thầy cơ giáo, có
những em bị bệnh nhưng cha mẹ khơng hề biết vẫn cho con đi học có khi các
em đi học cả buổi mà vẫn chưa ăn gì, ngay cả khi các em bị ốm mà phụ huynh
cũng không quan tâm tới các em. Với các trường hợp này tôi phải thường xuyên
liên lạc với phụ huynh, trao đổi với phụ huynh để họ hiểu rằng kết quả học tập
của các em có tốt là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường.
Yêu cầu quan tâm tối thiểu như cha mẹ các em cần kiểm tra bài vở của các em
sau mỗi buổi học ở trường xem con mình đã học những mơn nào, các em có ghi

chép đủ khơng, giúp các em soạn sách vở trong thời gian đầu và theo dõi kiểm
tra nhắc nhở các em việc soạn sách vở khi cho các em đã tự làm, hướng dẫn các
em đọc bài nhiều lần ở nhà, chuẩn bị cho bài mới. Ngoài họp phụ huynh theo kế
hoạch chỉ đạo định kì chung năm học,tơi luôn phải thường xuyên liên lạc với
10


phụ huynh học sinh bằng sổ liên lạc hay trực tiếp trao đổi với phụ huynh khi cần
thiết. Bên cạnh đó tơi ln phối hợp với hội phụ huynh của lớp nhờ hội trưởng
của lớp giúp đỡ.
Tôi luôn giữ mối liên hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, cần nhiệt
tình, mềm dẻo trước những phụ huynh khó tính, phải thường xuyên trao đổi và
cả tư vấn cho phụ huynh hiểu được quá trình học tập của các em tốt phải có sự
hỗ trợ quan tâm từ phía gia đình.
2.3. Kết quả đạt được
a) Kết quả thực hiện Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy
học môn Tiếng Việt lớp Một cuối học kỳ I - Năm học 2020 - 2021
Sau một học kỳ của năm học vận dụng những kinh nghiệm trên vào giảng
dạy môn Tiếng Việt, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được nâng
lên, kết quả cuối học kỳ 1 (tháng 12/2020), cụ thể như sau:

Mơn

Tổng số

Tiếng Việt

học sinh
29


Hồn thành tốt
SL
%
11

37,9

Hồn thành
SL
%
15

51,7

Cần cố gắng
SL
%
3

10.4

b) Kết quả thực hiện Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học
môn Tiếng Việt lớp Một cuối học kỳ II - Năm học 2020 - 2021
Qua một năm học vận dụng những kinh nghiệm trên vào giảng dạy môn
Tiếng Việt, tôi nhận thấy chất lượng dạy môn Tiếng Việt đã được nâng lên thấy
rõ, kết quả cuối học kỳ 2 (tháng 5/2021), cụ thể như sau:

Môn

Tổng số


Tiếng Việt

học sinh
29

Hoàn thành tốt
SL
%
11

37,9

Hoàn thành
SL
%
15

51,7

Cần cố gắng
SL
%
3

10.4

11



Qua kết quả trước và sau tác động đã cho thấy rằng những kinh nghiệm
mà tơi áp dụng đã có hiệu quả. Các em đã và đang hình thành kỹ năng đọc, nghe
- viết rất tốt, ý thức tự giác, tự học mơn Tiếng Việt một cách tích cực từ đó các
em thích và ham học hơn khơng những mơn Tiếng Việt mà cịn những mơn học
khác. Bên cạnh đó các năng lực , phẩm chất cũng được nâng lên.

3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
12


Tôi đã vận dụng khéo léo và linh hoạt các phương pháp dạy học cho phù
hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình.
Tìm hiểu rõ được nguyên nhân và hoàn cảnh của các em, chủ động sẵn
sàng nhiệt tình giúp đỡ các em .
Học sinh có sự chuyển biến tích cực trong học tập, tự giác học và có rất
nhiều cố gắng nhất là các em có hồn cảnh đặc biệt, các em có bệnh lí đồng thời
các em còn cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương của thầy cơ, biết hồ đồng
cùng các bạn, biết chia sẻ những vui, buồn, khó khăn với bạn bè, thầy cô. Các
em tự tin trong học tập và thực sự thấy mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Làm nền móng tốt cho các em học lên lớp trên, tạo đà để chất lượng học
tập ngày một tốt hơn.
Một số phụ huynh nhận thấy rõ vai trị của gia đình trong quá trình giáo
dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn, thường
xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự kết hợp
giữa nhà trường và gia đình.
Với kết quả đạt được ở trên, bản thân tôi rút ra bài học sau:
Là một giáo viên phải chuyên tâm, say sưa, nhiệt tình trong cơng việc,
khơng ngừng học tập để nâng cao kiến thức và năng lực sư phạm trong việc
giảng dạy giáo dục trong nhà trường.

Cần mềm mỏng, khéo léo, trong giảng dạy
Biết lắng nghe và thu nhận thông tin phản hồi từ phô huynh trong quá
giảng dạy .
Giữ mối liên hệ tốt giữa nhà trường – gia đình – xã hội.
Giáo viên nên quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt
những em nhút nhát, lúng túng khi trả lời... Ngoài ra, địi hỏi người giáo viên
phải kiên trì, vượt khó, tìm tịi sáng tạo và phải có tinh thần trách nhiệm cao,
lịng say mê với cơng việc.

13


Mặt khác, giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, phương pháp giảng dạy bộ
môn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, cải tiến sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ
thể để học sinh nào cũng có thể hiểu bài, nắm chắc nội dung bài.
Giáo viên cần khéo léo, khuyến khích động viên khen thưởng kịp thời đối
với những học sinh có tiến bộ, phát huy được khả năng phát triển tư duy tạo cho
khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng. Có như vậy thì giờ học mới đạt hiệu quả
cao.
Giáo viên cần kết hợp chặt chẽ giữa ba mơi trường giáo dục đó là: Nhà
trường, gia đình, xã hội để tạo điều kiện cho học sinh có điều kiện thuận lợi
phục vụ cho việc học tập. Giáo viên cũng thường xuyên trao đổi với cha mẹ học
sinh để khắc phục những nhược điểm mà học sinh còn mắc phải trong việc rèn
kĩ năng đọc hiểu.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong cơng tác trồng người.
Vì thế, bản thân ln cố gắng học hỏi cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy
của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn xứng đáng là tấm gương sáng
cho học sinh noi theo. Vì vậy, tơi xin đưa ra một số đề xuất sau:
- Đối với nhà trường:

+ Cần xây dựng nguồn kinh phí hỗ trợ kịp thời cho những học sinh gặp
hồn cảnh khó khăn.
+ Tạo mọi điều kiện cho giáo viên trong công tác bồi dưỡng giáo dục học
sinh.
+ Tổ chức phong trào đỡ đầu cho những học sinh gặp hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn.
+ Tổ chức các hoạt động trải nghiệm để giúp học sinh có cơ hội được cọ
xát thực tế.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ mơn:
+ Cần bình tĩnh, khéo léo, nhiệt huyết, nhân ái, yêu thương, gần gũi… đối
với những học sinh cịn hạn chế về mơn Tiếng Việt.
14


+ Giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến những học sinh có hồn cảnh khó
khăn, động viên thăm hỏi thường xuyên.
+ Trao đổi kết hợp kịp thời với phụ huynh khi học sinh có biểu hiện chậm
tiến khơng tập trung, không tự giác học tập.
- Đối với phụ huynh:
+ Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc học của con em mình.
+ Tạo một chỗ dựa vững chắc để con em chia sẻ, bày tỏ ý kiến.
+ Luôn phối kết hợp với giáo viên, nhà trường trong việc giáo dục và rèn
luyện cho các em.
+ Theo dõi mọi biểu hiện của con em để có sự giáo dục cho phù hợp.
- Đối với địa phương:
+ Cần có hình thức tổ chức mới để thu hút học sinh tham gia, nhất là trong
dịp nghỉ hè.
Đó là những suy nghĩ của bản thân tôi về việc nghiên cứu “Một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp Một”. Bản thân tôi
đã cố gắng mạnh dạn áp dụng những kinh nghiệm trên nhằm nâng cao chất

lượng cho học sinh lớp Một. Từ môi trường giáo dục đó xây dựng cho các em có
học lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc
sống. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban giám hiệu nhà
trường, các cấp quản lý giáo dục và các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến của
bản thân có được những kinh nghiệm bổ ích và có thể áp dụng cho những năm
học tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn !

15



×