Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện tuy phước tỉnh bình định từ năm 2015 đến năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 68 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, phòng chống suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em là mối quan
tâm hàng đầu của Liên Hợp Quốc (UN) trong các Mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ (MDGs) 2000-2015 [47] và lộ trình hướng đến Mục tiêu phát triển
bền vững (SDGs) 2016-2030 [46]. Ở Việt Nam, Chiến lược quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn 2030 [4] khơng chỉ đáp ứng yêu cầu
hòa nhập thế giới mà còn gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước nhằm tiếp tục cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em góp phần nâng
cao tầm vóc, thể lực và trí tuệ của người Việt Nam trên trường quốc tế [21].
Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng cơ thể thiếu protein-nǎng lượng và
vi chất dinh dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển
của trẻ em, giảm năng lực trí tuệ, học lực làm bệnh tật dễ phát sinh hay mắc
bệnh lâu khỏi và diễn biến nặng hơn[3][8]. Đặc biệt, trẻ em dưới 5 tuổi là thời
kỳ phát triển quan trọng và tăng trọng lượng nhanh nhất, nhiều hệ thống cơ
quan trong cơ thể được hoàn chỉnh, nhất là hệ thống thần kinh trung ương và
hệ vận động do đó đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ trong giai
đoạn này là vấn đề hết sức cần thiết. SDD mẹ và trẻ em đang là vấn đề thời sự
ở các nước nghèo và đang phát triển, theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) [48]
và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) [45] đến năm 2011 cịn 36 nước
có tỷ lệ trẻ SDD thấp cịi cao, trong đó có Việt Nam. WHO ước tính mỗi năm
trên khắp tồn cầu hàng triệu bà mẹ và trẻ em tử vong do các nguyên nhân
liên quan đến dinh dưỡng và kém phát triển thể chất, tinh thần do bị SDD từ
nhỏ; các bằng chứng khoa học cho thấy những năm đầu đời (từ trong bụng mẹ
đến 2 tuổi) nếu trẻ bị SDD có thể để lại những hậu quả về thể chất và tinh
thần không phục hồi được sang thế hệ sau, ảnh hưởng đến phát triển của trẻ


2
và hậu quả giống nịi như tầm vóc người trưởng thành thấp bé, học lực kém,


năng suất lao động giảm tác động đến nền kinh tế quốc dân [49].
Theo Viện Dinh dưỡng quốc gia (2016) [32], tình trạng SDD trẻ em Việt
Nam những năm gần đây tuy có giảm đi nhưng vẫn ở mức cao với 24,6% trẻ
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp cịi và có sự khác biệt khá lớn giữa các
vùng miền ảnh hưởng đến thể chất người Việt Nam. Theo Chiến lược quốc
gia về dinh dưỡng (2012) [4], nước ta cịn 12 tỉnh có tỷ lệ SDD thể thấp còi
rất cao (> 35%) tập trung chủ yếu ở 3 khu vực Tây nguyên, bắc Trung bộ và
miền núi phía Bắc; tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng của cộng đồng vẫn còn
cao đặc biệt là bà mẹ và trẻ em: tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai
là 36,5% và ở trẻ em dưới 5 tuổi là 29,2%. Thiếu vitamin A tiền lâm sàng,
thiếu Iốt vẫn cịn ở mức có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, nhất là ở các vùng
Tây Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Tình trạng SDD thể nhẹ cân theo chỉ số
giữa cân nặng với tuổi giảm 0,4% vào năm 2015 so với 2014, SDD thể thấp
còi theo chỉ số giữa chiều cao và tuổi giảm là 0,3% có sự khác biệt giữa các
vùng miền, cao nhất là Tây Nguyên, tiếp đến là trung du và miền núi phía
Bắc. Kết quả điều tra dinh dưỡng quốc gia [34] cho thấy 9,1% trẻ em bị thiếu
máu, 12,9% thiếu sắt và 51,9% thiếu kẽm. Tỷ lệ thiếu năng lượng ở bà mẹ có
con dưới 5 tuổi giảm nhưng vẫn ở mức cao (15,1%). Tăng cường vi chất dinh
dưỡng từ thực phẩm thiết yếu là biện pháp đơn giản, hiệu quả và bền vững để
giảm thiểu sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trong bữa ăn hàng ngày.
Tuy Phước là một huyện nơng thơn thuộc tỉnh Bình Định, đời sống kinh
tế khó khăn, tỷ lệ SDD cịn cao cần được quan tâm nghiên cứu để có cơ sở đề
xuất biện pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm tỷ lệ SDD trẻ em dưới
5 tuổi. Từ những lý do này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá
tình trạng suy dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi tại
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2016”.


3
2. Mục tiêu của đề tài

- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2016.
- Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ
dưới 5 tuổi tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2016.
3. Cấu trúc của đề tài luận văn
Nội dung luận văn gồm 78 trang: ngoài các phần mở đầu (3 trang), kết
luận và kiến nghị (3 trang), tài liệu tham khảo (6 trang), phụ lục (10 trang),
luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan tài liệu 21 trang (trang 4 đến 24).
- Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu 9 trang
(trang 25 đến 33).
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu và bàn luận 26 trang (trang 34 đến 59).
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được thực trạng SDD ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định.
- Xác định được một số yếu tố liên quan đến SDD qua nhận thức và
thực hành của bà mẹ trong quá trình nuôi con.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung những dẫn liệu khoa học có
giá trị thực tiễn, góp phần đề xuất biện pháp phịng chống SDD ở huyện Tuy
Phước nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung.


4
Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm chung
1.1.1. Tình trạng dinh dưỡng

Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm về chức phận, cấu trúc
và hóa sinh về mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Tình trạng dinh
dưỡng tốt phản ánh sự cân bằng giữa thức ăn và tình trạng sức khỏe, khi dinh
dưỡng khơng tốt (thiếu hoặc thừa dinh dưỡng) là thể hiện có vấn đề sức khỏe
hoặc dinh dưỡng hoặc cả hai [21] [50].
1.1.2. Suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi chế độ ăn nghèo
protein-năng lượng thường kèm theo tác động của nhiễm trùng do nhu cầu
dinh dưỡng bình thường của cơ thể khơng được đáp ứng đầy đủ, trong đó
“SDD tiên phát” là do thiếu về chất lượng hay số lượng thực phẩm cung ứng
và “SDD thứ phát” xảy ra khi thực phẩm cung ứng đủ về chất và lượng nhưng
người bệnh không muốn ăn do rối loạn hấp thu hoặc do tăng chuyển hóa bất
thường hoặc sai lạc về chuyển hóa khiến nhu cầu dinh dưỡng bên trong vẫn bị
thiếu hụt [3] [8] [39].
Từ lâu suy dinh dưỡng trẻ em đã được đề cập do tình trạng thiếu
lương thực hoặc cung cấp thức ăn khơng đủ dẫn đến gầy còm, sút cân và
chậm phát triển về thể lực và giảm sút trí tuệ hậu quả đến tử vong [30]. Năm
1926, bác sĩ người Pháp Normet đã mô tả rất sớm căn bệnh này với tên gọi
Bouffisure (bệnh sưng phù Annam) làm mặt trẻ bị phù trông bạnh ra gặp
nhiều ở Trung Nam Bộ Việt Nam. Năm 1930, bác sĩ người Anh Cicely
Williams đã dùng thuật ngữ “Kwashiorkor” từ một bộ lạc ở Ghana, nghĩa là
“bệnh của đứa trẻ bị bỏ rơi” để mô tả hội chứng mà trước đó thường lầm với
bệnh Pellagra [3] [8] [51]. Năm 1959, một số tác giả dùng thuật ngữ “Suy


5
dinh dưỡng protein calo” để chỉ những đứa trẻ vừa đói protein, vừa đói năng
lượng. Năm 1962, trong bảng phúc trình tại khóa họp thứ 6, Tiểu ban dinh
dưỡng FAO/WHO đã chọn từ “Suy dinh dưỡng protein - calo”. Năm 1966,
Jellife D.B đã đề nghị tên gọi “Suy dinh dưỡng protetin - năng lượng (protein

energy malnutrion_PEM)” để chỉ suy dinh dưỡng ở mức độ nặng hơn và từ đó
thuật ngữ này được dùng cho đến nay [1], [22].
1.1.3. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến suy dinh dưỡng trẻ dưới 5
tuổi
1.1.3.1. Nguyên nhân
Các nguyên nhân của SDD là phức hợp của nhiều yếu tố, trong đó
nguyên nhân trực tiếp và quan trọng nhất là chế độ ǎn nghèo về số lượng và
kém về chất lượng; các bệnh nhiễm trùng, thường là ký sinh trùng đường ruột,
sởi, tiêu chảy, viêm đường hô hấp gây kém ăn, tăng nhu cầu và khả năng hấp
thu giảm. Tình trạng đói nghèo là một trong những nguyên nhân gốc rễ, tuy
nhiên SDD cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như thiếu lương thực thực
phẩm và chǎm sóc sức khỏe kém [30] [38] [40]. Những điều này là hậu quả
của mất an ninh lương thực, thiếu chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, các
dịch vụ y tế nghèo nàn, cấu trúc xã hội, sự phân phối kinh tế, nguồn dự trữ, sự
bất ổn chính trị… tạo nên một phức hợp các nguyên nhân trực tiếp và gián
tiếp gây SDD tác động qua lại lẫn nhau. Ngoài ra, mức độ tác động của các
yếu tố khác nhau theo vùng: vùng Trung bộ, Tây nguyên và miền núi phía
Bắc, vấn đề an ninh lương thực nổi lên hàng đầu; vùng đồng bằng và nơng
thơn khác, vấn đề chǎm sóc (trong đó có cách ni dưỡng trẻ) là ngun nhân
chính yếu; vùng đơ thị lớn thì vấn đề bệnh tật từ nhỏ dẫn tới SDD là quan
trọng [36]. Sở dĩ như vậy là vì ở thành thị vấn đề thiếu ǎn khơng cịn phổ biến
và chất lượng chǎm sóc trẻ tốt hơn, trong khi nhiều địa phương ở khu vực
nơng thơn thì vấn đề chǎm sóc, ni dưỡng trẻ cịn nhiều hạn chế đòi hỏi các


6
chiến lược tác động khác nhau theo từng khu vực và từng giai đoạn. Gần đây,
tổng kết của Viện Nghiên cứu chính sách thực phẩm quốc tế (IFPRI) cho thấy
học vấn của phụ nữ đóng góp 43% đối với SDD, trong khi an ninh thực phẩm
đóng góp 26,1% đối với SDD chứng tỏ cách ni dưỡng, cách chǎm sóc (thể

hiện qua trình độ học vấn của người phụ nữ) có vai trị quan trọng đối với
SDD [37].
Nhìn chung có 2 nguyên nhân cơ bản gây SDD protein-năng lượng [3]
[8] bao gồm:
- Sai lầm về ni dưỡng: Mẹ khơng có sữa hoặc thiếu sữa phải ni
bằng sữa bị pha lỗng hay nước cháo có đường, ăn bổ sung quá sớm hoặc
quá muộn, cai sữa sớm.
- Nhiễm khuẩn: SDD gặp ở trẻ em sau nhiễm khuẩn ký sinh trùng
đường ruột (giun sán), viêm phổi, ỉa chảy, lao… SDD và nhiễm khuẩn có mối
liên quan nhân-quả, SDD làm tăng tính cảm thụ với nhiễm khuẩn và nhiễm
khuẩn làm cho SDD nặng hơn.
1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng
- Trẻ đẻ thiếu cân, dị tật bẩm sinh (sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm
sinh…).
- Kinh tế khó khăn, gia đình đơng con.
- Dịch vụ chăm sóc y tế kém.
1.1.3.3

Mơ hình ngun nhân SDD và tử vong của UNICEF


7
Mơ hình ngun nhân SDD và tử vong của UNICEF
SDD và tử
vong

Thiếu ăn

Biểu
Hiện


Bệnh tật

An ninh thực
phẩm hộ gia đình
khơng đảm bảo

Chăm sóc bà
mẹ, trẻ em
chưa tốt

Dịch vụ chăm
sóc Y tế,vệ sinh
môi trường kém

Nguyên
nhân
trực tiếp

Nguyên
nhân
quan
trọng

Các cơ quan nhà nước
và tổ chức xã hội

Thượng tầng chính trị và tư tưởng
Cơ cấu kinh tế


Nguồn tiềm
năng
Sơ đồ 1.1. Nguyên nhân SDD và tử vong của UNICEF [45]

1.2. Các thời kỳ phát triển và đặc điểm sinh học của trẻ dưới 5 tuổi
1.2.1. Cách phân chia các thời kỳ

Nguyên
nhân cơ
bản


8
Quá trình phát triển và lớn lên của trẻ em cũng tuân theo quy luật tiến
hóa chung của sinh vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mỗi lứa
tuổi có đặc điểm sinh học riêng chi phối quá trình phát triển bình thường cũng
như quá trình bệnh lý của trẻ. Sự phân chia các thời kỳ (giai đoạn) của trẻ em
là một thực tế khách quan nhưng ranh giới giữa các giai đoạn khơng rõ ràng
và có sự khác biệt đối với từng đứa trẻ, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn
sau. WHO [50] phân chia các thời kỳ phát triển trẻ em từ 0 - 18 tuổi như sau:
- Sơ sinh (Newborn): từ lúc sinh đến 1 tháng
- Trẻ bú mẹ (Infant): 1 đến 23 tháng
- Trẻ tiền học đường (Preschool child): 2 đến 5 tuổi
- Trẻ em nhi đồng (Child): 6 đến 12 tuổi
- Trẻ vị thành niên (Adolescent): 13 đến 18 tuổi
1.2.2 Đặc điểm sinh học của trẻ dưới 5 tuổi
- Tốc độ tăng trưởng nhanh, nhất là trong 3 tháng đầu do đó nhu cầu
dinh dưỡng cao, q trình đồng hóa mạnh hơn q trình dị hóa.
- Chức năng các bộ phận phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện đặc
biệt là chức năng tiêu hóa, tình trạng miễn dịch thụ động (IgG từ mẹ truyền

sang giảm nhanh trong khi khả năng tạo Globulin miễn dịch còn yếu).
- Đặc điểm bệnh lý thời kỳ này hay gặp là các bệnh dinh dưỡng và
chuyển hóa (SDD, thiếu máu, cịi xương, tiêu chảy cấp) và các bệnh nhiễm
khuẩn (viêm phổi, viêm đường hô hấp trên, viêm màng não mủ…).
1.2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi
Trong 5 năm đầu tiên trẻ phát triển nhanh, sau sinh 6 tháng trung bình
cân nặng trẻ tăng lên gấp đôi, đến 12 tháng cân nặng của trẻ tăng lên gấp 3 so
với cân nặng lúc sinh. Nhu cầu các chất dinh dưỡng cũng như năng lượng đáp
ứng tốc độ phát triển trong năm đầu của trẻ đều rất cao, Viện DDD (2012)
[33] khuyến nghị nhu cầu năng lượng và protein của trẻ như sau.


9
Bảng 1.1. Nhu cầu năng lượng và nhu cầu protein của trẻ
theo khuyến nghị của Viện Dinh dưỡng (2012)

Tuổi

Nhu cầu năng lượng

Nhu cầu Protein

3-6 tháng

620 Kcal/ngày

21g/ngày

6-12 tháng


820 Kcal/ngày

23g/ngày

1-3 tuổi

1300 Kcal/ngày

28g/ngày

4-6 tuổi

1600 kcal/ngày

34g/ngày

Nhu cầu lipit ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng và các acid béo
cần thiết (acid linoleic và acid α linoleic) hỗ trợ cho việc hấp thu các vitamin
tan trong dầu (A,D,E,K). Năng lượng do lipid tạo ra chiếm khoảng 25 đến
30% tổng năng lượng một ngày.
Nhu cầu glucid của trẻ bú mẹ hoàn toàn được cung cấp từ nguồn sữa mẹ,
8% trong sữa mẹ là lactose, cứ 100ml sữa mẹ cung cấp 7g glucid. Năng lượng
do glucid tạo ra chiếm 60-65% tổng năng lượng một ngày.
Vitamin và khống chất có vai trị quan trọng trong các q trình chuyển
hóa của cơ thể.
1.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em đã
được các tác giả trong và ngồi nước đề cập đến như tình trạng kinh tế xã hội,
tình trạng giàu nghèo, chăm sóc sức khỏe bà mẹ khi mang thai,…Trong đó sự
thiếu kiến thức và thực hành của bà mẹ trong nuôi dưỡng trẻ được đề cập đến

nhiều nhất chính. Trong nghiên cứu này, chúng tơi chỉ có thể quan tâm tới
một số yếu tố chính tác động đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em [23] [24].
1.2.4.1. Chăm sóc bà mẹ khi có thai và cho con bú
Khi mang thai, dinh dưỡng và thói quen dinh dưỡng tốt sẽ cung cấp đầy
đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho thời kỳ mang thai, cho sự phát triển và
lớn lên của thai nhi. Nhiều nghiên cứu thấy rằng các yếu tố nguy cơ dẫn đến


10
trẻ sơ sinh có cân nặng thấp trước tiên là tình trạng dinh dưỡng kém của
người mẹ trước khi có thai và chế độ ăn không cân đối, không đủ năng lượng,
không đủ chất dinh dưỡng khi mang thai. Mặt khác, việc khám thai thường
xuyên sẽ giúp cho việc theo dõi cân nặng của bà mẹ, quá trình phát triển và
hoạt động của thai nhi,… từ đó phát hiện những bất thường xảy ra trong thời
kỳ mang thai, góp phần hạn chế các tai biến sản khoa.
Trong suốt thời kì mang thai bà mẹ mang thai cần đến cơ sở y tế khám
thai ít nhất 3 lần trong tam cá nguyệt (3 tháng đầu, 3 tháng giữa và 3 tháng
cuối) của thời gian mang thai, cần uống viên sắt/acid folic để phòng chống
thiếu máu dinh dưỡng, tiêm phòng uốn ván theo lịch, cần được nghỉ ngơi,
tránh mang vác và làm việc gắng sức, tinh thần thoải mái, ăn uống hợp lý,
tăng cân từ 10 - 12 kg trong thời gian có thai, sinh con tại cơ sở y tế để đảm
bảo an toàn cho cả mẹ và con [29]. Những thực phẩm tốt cho bà mẹ mang thai
và cho con bú là những thực phẩm có sẵn ở địa phương giàu chất dinh dưỡng
đều tốt cho bà mẹ. Nên ăn đa dạng thực phẩm, tăng thêm các loại thực phẩm
giàu chất đạm (thịt, cá, trứng, tôm cua, sữa, đậu đỗ), chất béo (vừng, lạc), các
loại trong xanh hoa quả chín. Ngồi ra cần bổ sung các chất khống, vì các
chất khoáng và vi chất là các chất dinh dưỡng tuy chỉ cần một lượng nhỏ
nhưng lại có vai trị quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn cơ thể có nhu cầu
cao về các chất dinh dưỡng cho phát triển như thời kỳ có thai. Bổ sung các
vitamin, đặc biệt chú ý đến vitamin A, vitamin D, và vitamin B1. Người phụ

nữ có thai cần được đảm bảo đủ vitamin A trong suốt thời gian mang thai.
Sau khi sinh, người mẹ cũng cần đủ vitamin A để cung cấp cho sữa nuôi con.
Vitamin D giúp cho sự hấp thu các chất khoáng như canxi, phospho vào cơ
thể, khi mang thai nếu cơ thể thiếu vitamin D dễ gây các hậu quả như trẻ cịi
xương ngay trong bụng mẹ vì chỉ khoảng 20% lượng canxi trong thức ăn ăn
vào được hấp thụ. Vitamin B1 là yếu tố cần thiết để chuyển hóa gluxit. Ngũ


11
cốc và các hạt họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Để có đủ vitamin B1
nên ăn gạo khơng giã trắng quá, không bị mục, mốc, ăn nhiều đậu đỗ là cách
tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu của cơ thể và chống được bệnh tê
phù. Ngoài ra, một số vitamin khác như vitamin C làm tăng sức đề kháng của
cơ thể, hỗ trợ hấp thu sắt từ bữa ăn góp phần phịng chống thiếu máu do thiếu
sắt. Acid folic tham gia tạo máu cũng là những chất cần thiết trong quá trình
phát triển của thai. Trong quá trình mang thai, các mẹ cần ăn nhiều hơn bình
thường, khơng nên kiêng khem q mức, chú ý vệ sinh an toàn thực phẩm,
lựa chọn và sử dụng các thức ăn, đồ uống sạch và an toàn, uống đủ nước (1,5
- 2 lít/ngày) [5] [6]. Trong chế độ ăn, người mẹ nên hạn chế rượu, cà phê,
nước chè đặc, thuốc lá và giảm ăn các loại gia vị gây kích thích như ớt, hạt
tiêu, dấm, tỏi. Các bà mẹ nên ăn nhạt (bớt muối), nhất là các bà mẹ bị phù
thận để giảm và tránh tai biến khi đẻ [7]. Tránh dùng tùy tiện và nên hạn chế
đến mức thấp nhất việc sử dụng thuốc kháng sinh vì có thể gây hại cho trẻ
như Tetraxyclin làm hỏng răng, Streptomyxin gây ù tai, nghễnh ngãng…
Trong quá trình mang thai có một số người mẹ bị nghén nên chỉ ăn một vài
loại thức ăn và ăn quá nhiều thức ăn chua hoặc cay… vừa có hại cho sức khỏe
vừa thiếu chất dinh dưỡng để nuôi thai. Trong trường hợp bị nghén nhẹ như
buồn nôn hoặc nôn hay sợ ăn một số thức ăn, người mẹ cố gắng thay thế sang
một số thức ăn khác hoặc đồ uống khác để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng
khi có thai [35].

Theo số liệu điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1998 của Tổng cục
thống kê, số phụ nữ có thai được quản lý thai nghén đạt khoảng 60% đến
2001 tăng lên 81%, khám thai 3 lần 80% và số lần khám thai trung bình là 2,7
lần, tuy nhiên tỷ lệ phụ nữ được khám thai và được khám đủ 3 lần có sự khác
biệt giữa các khu vực, các vùng và nhóm chỉ tiêu [36].


12
Theo kết quả điều tra đánh giá mục tiêu thập kỷ về trẻ em do Tổng cục
thống kê tiến hành năm 2000 [37] tính chung trong cả nước có 67% phụ nữ có
thai được tiêm phịng uốn ván 2 lần trước sinh. Tỷ lệ được tiêm phịng uốn
ván khơng đồng đều giữa các khu vực và các vùng. Trong khi tại khu vực
thành thị có 82% phụ nữ có thai được tiêm phịng uốn ván, thì tỷ lệ khu vực
nơng thơn chỉ là 64%. Vùng đồng bằng sơng Hồng có tỷ lệ tiêm phịng uốn
ván là 81%, trong khi đó ở vùng Tây Bắc là 45% và Tây Nguyên là 56%. Tỷ
lệ tiêm phòng uốn ván còn tăng dần theo trình độ văn hóa, ở những phụ nữ
khơng bằng cấp chỉ có 30% được tiêm phịng uốn ván, trong khi đó 98% phụ
nữ trình độ đại học, cao đẳng được tiêm phòng đủ 2 mũi uốn ván trước khi
sinh. Một thực tế là, phụ nữ có thai được tiêm phịng uốn ván đạt cao nhưng
tỷ lệ được cung cấp viên sắt chỉ đạt 15-20% trên phạm vi trên toàn quốc [35].
Mặc dù đây là một cố gắng của ngành y tế song rõ ràng việc giải quyết tình
trạng thiếu máu do thiếu sắt cho phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là phụ nữ
có thai vẫn chưa đạt hiệu quả cao và đây là tình trạng tương đối và phổ biến ở
nước ta không chỉ làm sức khỏe người mẹ giảm sút mà còn ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe của thai nhi.
1.2.4.2. Nuôi con bằng sữa mẹ và cho ăn bổ sung đến tình trạng dinh dưỡng
của trẻ
- Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) [48]: sữa mẹ là chất dinh dưỡng
hồn hảo nhất, dễ tiêu hóa, dễ hấp thu (đủ acid amin cần thiết với tỉ lệ cân đối,
acid béo cần thiết như acid linoleic, acid linolenic và dễ tiêu hóa hơn vì có

men lipase, đường lactose, hàm lượng vitamin A cao và muối khoáng dễ hấp
thu). Sữa mẹ có chất kháng khuẩn (chứa nhiều IgA tiết, đặc biệt là trong sữa
non, lactoferin, tế bào miễn dịch lympho, yếu tố kích thích sự phát triển của
lacto bacillus bifilus). Sữa mẹ có khả năng chống bệnh dị ứng, tăng tình cảm
mẹ con, giúp mẹ chống được bệnh tật (giúp co hồi tử cung tốt giảm mất máu


13
sau đẻ, giảm nguy cơ ung thư tử cung và ung thư vú, giúp mẹ kế hoạch hóa
gia đình), rẻ tiền. Cách cho trẻ bú: bú càng sớm càng tốt sau khi sinh tốt nhất
trong vòng nửa giờ đầu giúp trẻ tận dụng được sữa non, là loại sữa tốt, hồn
hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ thể non nớt của trẻ.
Bú mẹ hoàn tồn trong 6 tháng đầu, khơng ăn thêm bất cứ các thức ăn khác.
Trong vòng 6 tháng đầu đời trẻ cần được ni dưỡng hồn tồn bằng sữa mẹ
mà khơng ăn thêm thức ăn gì khác kể cả nước uống vì người mẹ, bản thân
người mẹ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng mà đứa trẻ cần, mọi thức
ăn thêm khác trong giai đoạn này đều có thể mang đến cho trẻ các rủi ro về
sức khỏe. Bú theo nhu cầu của trẻ, ít nhất 8 lần trong một ngày, bú cả ngày và
đêm. Thời gian cho trẻ bú kéo dài trung bình 18 - 24 tháng hoặc lâu hơn nếu
có thể, trẻ cần được bú hết cả sữa đầu và sữa cuối.
- Cho trẻ ăn bổ sung (ABS) [3] [23] còn gọi là ăn sam, ăn thêm ở miền
bắc hay ăn dặm ở miền nam. Theo nhiều tác giả thời gian bắt đầu cho trẻ ăn
bổ sung có thể khác nhau ở từng bà mẹ nhưng khuyến cáo chung là trong
vòng 4–6 tháng. Tuy nhiên, gần đây WHO khuyến cáo cần cho trẻ bú mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên của cuộc đời. Trẻ cần được ăn bổ sung từ sáu
tháng tuổi trở đi. Vì sao trẻ cần ăn bổ sung? Các nghiên cứu của WHO trên
22,857 trẻ thuộc 9 nước đang phát triển cho thấy bằng chứng khoa học sữa mẹ
chỉ có xu hướng thỏa mãn nhu cầu của trẻ trong vòng 6 tháng đầu do vậy để
đáp ứng nhu cầu tăng lên không ngừng của trẻ về thể chất, đến một giai đoạn
nhất định, trẻ cần được ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ để cùng sữa

mẹ thỏa mãn nhu cầu ấy. Ngoài ra, khi trẻ được 6 tháng tuổi là lứa tuổi thần
kinh và cơ nhai phát triển đầy đủ cho phép trẻ nhai và cắn thức ăn. Các thực
phẩm sử dụng với mục đích bổ sung sữa mẹ để thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng
của trẻ gọi là thực phẩm bổ sung. Các thực phẩm này được xếp vào 4 nhóm
chính: nhóm thức ăn giàu glucid: gồm các loại ngũ cốc như: gạo, ngô, lúa


14
mì...; nhóm thức ăn giàu protid: thịt gia súc, gia cầm, cá và các loại thủy
sản...; nhóm thức ăn giàu lipid: mỡ động vật, dầu thực vật...; nhóm cung cấp
Vitamin và muối khống: rau, quả ... Trong đó một bữa ăn bổ sung hợp lý cho
trẻ phải có sự phối hợp đầy đủ giữa 4 nhóm thực phẩm trên.
1.2.4.3. Một số yếu tố khác
Ngoài ra, một số yếu tố khác tác động đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
em như điều kiện kinh tế của gia đình, tình trạng thiếu ăn, trình độ văn hố
của bà mẹ, các yếu tố về vệ sinh mơi trường, đặc biệt là tình trạng bệnh tật
của trẻ. Ỉa chảy và nhiễm khuẩn hô hấp cấp là hai trong số các bệnh được xếp
hàng đầu thường gặp ở trẻ em [12]. Số lần mắc trung bình của trẻ em Việt
Nam trong 1 năm đối với ỉa chảy là 2,2 lần, viêm phổi là 1,6 lần. Nhiễm
khuẩn dễ đưa đến SDD do rối loạn tiêu hoá và ngược lại, SDD dễ dẫn tới
nhiễm khuẩn do đề kháng giảm. Khi trẻ bị bệnh cơ thể tiêu hao nhiều năng
lượng và các chất dinh dưỡng, cảm giác thèm ăn giảm, tiêu hoá, hấp thu kém,
mức cung cấp chất dinh dưỡng giảm, không đủ đáp ứng nhu cầu của cơ thể,
do đó bệnh tật trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em [23] [51].
1.3. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em
1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em
Có 4 nhóm chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em bao gồm điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống; thăm khám thực
thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có liên quan đến ăn uống;
các chỉ tiêu nhân trắc; các xét nghiệm hóa sinh. Trong đó 2 nhóm chỉ tiêu

được sử dụng nhiều nhất là nhân trắc và điều tra khẩu phần ăn mà các số đo
nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp tình trạng dinh dưỡng. WHO (2005)
[50] đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân nặng theo tuổi, cân
nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi, cụ thể như sau:


15
- Cân nặng theo tuổi (CN/T): là chỉ số được dùng sớm nhất và phổ biến
nhất. Chỉ số này được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cá thể hay
cộng đồng. Cân nặng theo tuổi thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng hiện tại.
Chỉ số cân nặng theo tuổi nhạy có thể quan sát trong 1 thời gian ngắn.
- Chiều cao theo tuổi (CC/T): phản ánh tiền sử dinh dưỡng, chiều cao
theo tuổi thấp do tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về quá khứ
làm cho đứa trẻ bị còi.
- Cân nặng theo chiều cao (CN/CC): là chỉ số đánh giá tình trạng dinh
dưỡng hiện tại phản ánh tình trạng SDD cấp hay cịn gọi “Wasting”. Cân nặng
theo chiều cao thấp phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với
trẻ có cùng chiều cao, chính là mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai ngun
nhân chính dẫn đến tình trạng này.
1.3.2. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
Trẻ em dưới 5 tuổi nếu được nuôi dưỡng hợp lý và điều kiện sống hợp vệ
sinh thì khả năng phát triển khơng khác nhau giữa các chủng tộc. Theo kiến
nghị của WHO, các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là
cân nặng theo tuổi (CN/T), chiều cao theo tuổi (CC/T), cân nặng theo chiều cao
(CN/CC). Thiếu dinh dưỡng được ghi nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn
độ lệch chuẩn (dưới – 2SD) so với quẩn thể tham chiếu NCSH (National
Center For Health Statistic) của Hoa Kỳ [45].
*Đánh giá kết quả:
+ Cân nặng theo tuổi thấp dưới – 2SD: phản ánh tình trạng suy dinh
dưỡng thể nhẹ cân (Underweight). Đây là chỉ tiêu được dùng sớm nhất, phổ

biến nhất và tiện dụng cho phép nhận định tình trạng dinh dưỡng nói chung,
song có nhược điểm là khơng phân biệt được suy dinh dưỡng mới xảy ra hay
kéo dài đã lâu.


16
+ Chỉ tiêu chiều cao theo tuổi thấp dưới – 2SD: phản ánh tình trạng
thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc SDD trong quá khứ làm cho đứa trẻ còi cọc
(thể thấp còi – Stunting).
+ Cân nặng theo chiều cao thấp so với điểm ngưỡng dưới – 2SD: theo
quần thể tham khảo NCHS phản ánh SDD ở thời điểm hiện tại, mới xảy ra
làm cho đứa trẻ bị ngừng lên cân, tụt cân, trở nên gầy cịm (Wasting).
Gần đây, tình trạng thừa cân ở trẻ em đang là vấn đề được quan tâm ở
nhiều nước. Trong đó, điều tra sàng lọc giới hạn “ngưỡng” để coi là thừa cân
khi số cân nặng theo chiều cao trên +2SD. Để xác định là thừa cân, cần đo
thêm bề dày lớp mỡ dưới da. Tuy nhiên, trong các điều tra cộng đồng, chỉ tiêu
cân nặng theo chiều cao là đủ đánh giá, vì đa số các thể có cân nặng cao theo
chiều cao đều béo phì [20].
1.3.3. Cách phân loại suy dinh dưỡng
1.3.3.1 Phân loại theo Gomez (1956) [3] [22]
Là phương pháp phân loại được dùng sớm nhất nó dựa trên chỉ số cân
nặng theo tuổi và sử dụng quần thể tham chiếu (NCSH).
Bảng 1.2. Phân loại suy dinh dưỡng theo Gomez (1956)

Tiêu chuẩn

Mức độ SDD

Từ 70% - 80% của cân nặng chuẩn


SDD độ I

Từ 60% - 70% của cân nặng chuẩn

SDD độ II

Từ dưới 60% của cân nặng chuẩn

SDD độ III

Cách phân loại này đơn giản nhưng không phân biệt được SDD cấp hay
SDD đã lâu.
1.3.3.2. Phân loại theo Wellcome (1970) [3] [22]
Phân loại này phù hợp để phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorko.


17
Bảng 1.3. Phân loại suy dinh dưỡng theo Wellcome (1970)

Cân nặng (%) so
với chuẩn

Phù


Khơng

60% - 80%

Kwashiorkor


Thiếu cân

<60%

Marasmus - Kwashiorkor

Marasmus

1.3.3.3. Phân loại theo Waterlow (1972) [3] [22]
Để khắc phục nhược điểm phân loại Wellcome là không phân biệt được
SDD hiện tại hay quá khứ.
Bảng 1.4. Phân loại suy dinh dưỡng theo Waterlow (1972)

Chiều cao theo tuổi

Trên

Cân nặng theo chiều cao
(80% hay -2SD)
Trên
Dưới
Bình thường
SDD gầy cịm

(90% hay – 2SD)

Dưới

SDD cịi cọc


Chỉ tiêu phân loại

SDD nặng kéo dài

Suy dinh dưỡng gầy còm là SDD cấp tính. SDD cịi cọc là biểu hiện
SDD trường diễn và đã chịu SDD từ lâu.
1.3.3.4. Phân loại theo WHO (2005) [50]
Suy dinh dưỡng trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân,
SDD thấp còi và SDD gầy còm. Theo khuyến nghị của WHO, các chỉ tiêu
thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cân nặng theo tuổi (CN/T),
chiều cao theo tuổi (CC/T), cân nặng theo chiều cao (CN/CC), chỉ số khối cơ
thể (BMI - Body Mass Index) theo tuổi (BMI/T). Thiếu dinh dưỡng được ghi
nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn hai độ lệch chuẩn (< -2SD) so với quần
thể tham chiếu NCHS (National Center For Health Statistics) của Hoa Kỳ.
Đây là cách phân loại đơn giản cho phép đánh giá nhanh các mức độ SDD và
có thể áp dụng rộng rãi trong cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng
quần thể tham chiếu NCHS để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
khơng phù hợp với thực tế vì vậy để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ


18
năm 2006 WHO đưa ra “chuẩn tăng trưởng mới ở trẻ em” và đề nghị áp dụng
trên toàn thế giới [50]. WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng < 2 độ lệch chuẩn (< 2SD) so với quần thể WHO 2005 để đánh giá trẻ bị SDD. Dựa vào Z- Score
(điểm –Z), tính theo cơng thức:
Chỉ số đo được – Số trung bình của quần thể tham chiếu
Z- Score =
Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu
- Khi CN/T Z-score < - 2, SDD thể thiếu cân mức độ vừa.
- Khi CN/T Z-score < - 3, SDD thể thiếu cân mức độ nặng.

- Khi CC/T Z-score <- 2, SDD thể thấp còi mức độ vừa.
- Khi CC/T Z-score <- 3, SDD thể thấp còi mức độ nặng.
- Khi CN/CC Z-score <- 2, SDD thể gầy còm mức độ vừa.
- Khi CN/CC Z-score <- 3, SDD thể gầy còm mức độ nặng.
- Khi BMI/T Z-score <- 2, SDD thể gầy còm mức độ vừa.
- Khi BMI/T Z-score <- 2, SDD thể gầy cịm mức độ nặng.
1.4. Tình hình SDD Protein năng lượng ở trẻ em
Ở những quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, tình trạng thiếu
dinh dưỡng của phụ nữ và trẻ em đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan
trọng được quan tâm đặc biệt [4]. Trong Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDGs) của Liên hiệp quốc (2000) [47], vấn đề giảm tỷ lệ SDD trẻ em là một
trong các mục tiêu quan trọng cần phải đạt được đến năm 2015 [48].
1.4.1. Tình hình suy dinh dưỡng protein năng lượng trên thế giới
Theo báo cáo của UNICEF (2006) [45], hơn 1/4 trẻ em dưới 5 tuổi tại
các nước đang phát triển ở tình trạng SDD thể nhẹ cân. Dinh dưỡng không
đầy đủ vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn đến hơn một nửa số trường hợp tử vong
trẻ em với 5,6 triệu trẻ tử vong mỗi năm có liên quan đến SDD. Giảm tỷ lệ
SDD là một trong những chỉ tiêu quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển


19
thiên niên kỷ. Thế nhưng từ 1990 tỷ lệ trẻ em SDD dưới 5 tuổi giảm khơng
đáng kể. Chỉ có 2 khu vực trên thế giới đáp ứng mục tiêu giảm ½ số trẻ em
SDD là Châu Mỹ La tinh và Đơng Á Thái Bình Dương với tỷ lệ SDD là 7%
và 15% [44]; tuy nhiên ở đây có sự chênh lệch giữa các cộng đồng dân cư, trẻ
SDD chủ yếu ở các cộng đồng nghèo và ở nhóm dân tộc thiểu số. Tại các
quốc gia đang phát triển trung bình chỉ giảm 5% trong 15 năm qua. Gần 3/4
trẻ em thiếu cân trên toàn thế giới đang sống ở 10 quốc gia và hơn một nửa số
đó ở 3 nước Bangladesh (48%), Ấn độ (47%), Pakistan (38%). Đối với khu
vực Đơng Nam Á, các nước có tỷ lệ SDD cao và khơng có khả năng đạt được

mục tiêu phát triển thiên niên kỷ bao gồm: Lào (40%), Campuchia (36%),
Myanmar (32%) và Đông Timor (46%). Các nước đã đạt được tiến bộ trong
giảm SDD cấp độ quốc gia song một bộ phận dân cư vẫn phải đối mặt với
điều kiện CSSK và dinh dưỡng kém là Indonesia (28%), philippines (28%) và
Việt Nam (21%) [48].
1.4.2. Tình hình suy dinh dưỡng protein năng lượng tại Việt Nam
Trong 15 năm thực hiện các mục tiêu MDGs (2000-2015) với những
giải pháp can thiệp và huy động xã hội hiệu quả, chương trình phịng chống
suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta đạt những kết quả quan trọng được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực liên
tục đạt mức giảm SDD từ 1,8 đến 2%/năm góp phần đạt MDG về giảm tỷ lệ
SDD trẻ em vào năm 2015. Theo Nguyễn Công Khẩn (2015) [19], suốt một
thời gian dài, SDD ở trẻ em khá nặng nề tới hơn 50% số trẻ bị SDD nhẹ cân
(cân nặng theo tuổi thấp); trẻ bị SDD thể phù và SDD thể teo đét gặp khá phổ
biến trong các bệnh viện; hàng chục nghìn trẻ em bị mù lịa do thiếu vi-ta-min
A. Năm 1990, tỷ lệ SDD trẻ em thể nhẹ cân là 45%. Theo MDG mà Việt Nam
cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh MDG của UN [4], từ năm 2000 đến 2015 tỷ
lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống mức 22,5%. Bằng các


20
giải pháp cụ thể đến năm 2014 tỷ lệ SDD trẻ em thể nhẹ cân ở nước ta giảm
chỉ còn 14,5%, như vậy với chỉ tiêu cam kết Việt Nam đã hoàn thành MDG
với mức giảm vượt chỉ tiêu đề ra được WHO và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF) đánh giá là quốc gia duy nhất trong khu vực liên tục đạt mức giảm
SDD là 1,8 đến 2% một năm [32].

Biểu đồ 1.1. Thống kê tình trạng dinh dưỡng trẻ em (2000-2015) [32]



21
Tại Việt Nam, vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tỷ lệ SDD trên 50%, năm
1995 là 44,9%. Theo kết quả điều tra của Viện Dinh Dưỡng từ năm 1999 tới
năm 2010 [35], tỷ lệ SDD trẻ em đã giảm đi một cách rõ rệt, tốc độ giảm SDD
trong những năm qua khoảng 2% một năm và Việt Nam được coi là một quốc
gia duy nhất trong khu vực đạt tốc độ giảm SDD nhanh theo tiến độ của Tổ
chức Y tế thế giới (WHO) và UNICEF [48]. Tuy nhiên, phân bố SDD ở Việt
Nam không đồng đều, khu vực miền núi, Tây Nguyên, miền Trung tỷ lệ cao
hơn hẳn so với các vùng khác, nông thôn cao hơn thành thị, miền núi cao hơn
đồng bằng, dân tộc thiểu số cao hơn các dân tộc khác, đặc biệt là các vùng
thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt... Theo điều tra dinh dưỡng toàn quốc
năm 2010 [35] cho thấy tỷ lệ SDD cao nhất ở vùng núi như Tây Nguyên
24,7%; miền núi Tây Bắc 22,1%; khu vực phía Bắc miền Trung 19,8%;đồng
bằng sông Cửu Long 16,8%; đồng bằng sông Hồng 14,6% và thấp nhất ở
Đông Nam Bộ 10,7%.
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Y tế (2016) [32], kết quả thực hiện
MDGs của Việt Nam về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trong đó có phịng chống
SDD trẻ em thì tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 41% (năm
1990) xuống còn 16,2% (năm 2012), hoàn thành mục tiêu trước thời hạn 3
năm. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm gần 3 lần, từ 59‰ (năm 1990)
xuống còn 23,2‰ (năm 2012), tiếp cận với mục tiêu đặt ra đến 2015 là
19,3‰. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm mạnh từ 44,4‰ (năm
1990) xuống còn 15,4‰ (năm 2012) gần đạt mục tiêu đề ra cho năm 2015 là
14,8‰.
1.4.3. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan
Các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội: sự lớn lên và phát triển của trẻ chịu
ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như vấn đề cung cấp thực phẩm, trình độ học
vấn của bố mẹ, tình trạng vệ sinh nhà ở và điều kiện sống, điều kiện kinh tế



22
gia đình, vấn đề chăm sóc y tế… Đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới
5 tuổi, tuy nhiên các yếu tố này thay đổi tùy theo vùng và địa phương [17].
1.4.3.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
- Nghiên cứu của Silvia (2007) [43] cho thấy thời gian trung bình cho trẻ
ăn thức ăn đặc là 22,2 tuần sau sinh; 60,9% trẻ thôi bú mẹ trước 4 tháng;
18,0% trẻ sơ sinh cân nặng dưới 5 kg vào thời điểm dừng bú mẹ. Trong các
yếu tố liên quan đến người mẹ, chỉ có tuổi của người mẹ là có ảnh hưởng đến
thời gian cho con bú. Thức ăn dặm đầu tiên để nuôi trẻ là nước nghiền khoai
tây (48,6% trường hợp). Thịt và chất tinh bột được dùng cho trẻ ăn trung bình
5-7 tuần sau khi thơi bú.
- Nghiên cứu tại quốc gia láng giềng Trung Quốc [41] chỉ ra sự khác biệt
về thực hành nuôi con là rất khác nhau giữa các vùng, các dân tộc, các nền
văn hóa và phụ thuộc vào nguồn thực phẩm. Ở vùng nơng thơn phía Bắc của
Trung Quốc, trứng, đậu là nguồn thức ăn phổ biến để cung cấp đạm cho trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ, trong khi cá và thịt là rất hiếm ở đây. Sau khi điều chỉnh chế
độ ăn cho trẻ dựa vào nguồn thức ăn phổ biến tại địa phương thì đã có sự thay
đổi đáng kể về thực hành ni dưỡng trẻ của các bà mẹ [42].
1.4.3.2. Một số nghiên cứu ở trong nước
- Tác giả Chu Quang Tuyến, Nguyễn Xuân Ninh [42] đã tiến hành
nghiên cứu tại xã Đông Phong, Yên Phong, Bắc Ninh trên 540 trẻ <5tuổi và
180 cặp mẹ con (90 cặp trẻ không suy dinh dưỡng (SDD), 90 cặp có trẻ SDD)
năm 2005. Kết quả cho thấy tỷ lệ SDD cao, thể nhẹ cân là 31,7%, thể thấp cịi
là 32,8%, thể gầy cịm) là 10,2%, có ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng; SDD tăng
nhanh ở nhóm tuổi 12-24 tháng và đạt cao nhất ở nhóm48-59 tháng (SDD
nhẹ cân 39%, SDD thấp còi 46,6%). Tỷ lệ cao nhất ở thể SDD gầy cịm là
nhóm trẻ 12-23 tháng tuổi (14,2%). Mẹ cho con bú muộn >30 phút sau khi



23
sinh, ăn kiêng trong thời gian cho con bú, mẹ dành ít thời gian chăm sóc con
là những yếu tố nguy cơ gây SDD cho con (p<0,05). Trẻ không được ăn đủ 4
nhóm thực phẩm hàng ngày, khơng được ăn thường xun cá, tơm, cua ... có
nguy cơ SDD (p < 0,05). Gia đình có từ 3 con trở lên, nhà xí khơng hợp vệ
sinh, trẻ có nguy cơ SDD (p<0,05) [5].
- Tác giả Lê Thị Hợp và cộng sự (2011) [17] tiến hành nghiên cứu về
liệu cho ăn bổ sung sớm có liên quan đến sự kém phát triển của trẻ em Việt
Nam không, kết quả cho thấy mặc dù 87,1% bà mẹ ni con bằng sữa mẹ
trong ít nhất một năm nhưng chỉ có 4,3% trẻ được ni sữa mẹ hoàn toàn
trong 4 tháng đầu. Tác giả cũng nhận thấy việc ni con bằng sữa mẹ khơng
hồn tồn và trẻ cai sữa sớm sẽ lớn chậm hơn những trẻ được ni bằng sữa
mẹ hồn tồn. Từ 1-3 tháng, trẻ ni bằng sữa mẹ hồn tồn sẽ phát triển tốt
cả về cân nặng và chiều cao.Từ 3 - 6 tháng, trẻ ni sữa mẹ hồn tồn cũng sẽ
có sự phát triển về cân nặng nhanh hơn và từ 6 - 12 tháng có sự phát triển về
chiều cao nhanh hơn so với nhóm bà mẹ khơng ni con bằng sữa mẹ hoàn
toàn hoặc cai sữa sớm.
- Nghiên cứu của Lê Thị Thanh Hoa, Lê Thị Hương, Nguyễn Thị Thanh
Tâm [11] về tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của phụ nữ
mang thai huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam năm 2014 có 47,9% phụ nữ mang
thai (PNMT) chưa đạt mức tăng cân, có mối liên quan giữa BMI trước khi
mang thai, mức đáp ứng năng lượng khẩu phần và mức độ tăng cân của
PNMT theo khuyến nghị của WHO [50].
1.5. Đặc điểm khu vực nghiên cứu huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
Tuy Phước là huyện đồng bằng lớn phía nam tỉnh Bình Định có diện tích
217,12 km2 nằm bên đầm Thị Nại, có sơng Kơn, sơng Hà Thanh chảy qua và
là đầu mối giao thông giữa quốc lộ 1A, QL 19, đường sắt Bắc - Nam. Phía
bắc và tây bắc huyện Tuy Phước giáp các huyện Phù Cát, An Nhơn; đông



24
giáp biển; nam giáp TP Quy Nhơn; tây giáp huyện Vân Canh. Phân bố hành
chính hiện nay gồm 13 xã/thị trấn là xã Phước Nghĩa, Phước Hòa, Phước
Thắng, Phước Quang, Phước Hưng, Phước Hiệp, Phước Thuận, Phước Sơn,
Phước Lộc, Phước An, Phước Thành, thị trấn Tuy Phước và thị trấn Diêu Trì.
Theo số liệu thống kê năm 2015 dân số Tuy Phước là 226.300 người là
huyện thuần nông, trồng lúa, màu, rau câu, mía, cây ăn quả, chăn ni bị, gia
cầm, cá, tôm, đánh bắt và chế biến hải sản. Công nghiệp kém phát triển, chủ
yếu là sản xuất xi măng, đá xây dựng, khai thác cao lanh. Kinh tế Tuy Phước
chia thành 3 khu vực rõ rệt: các xã phía Tây Nam (gồm Phước Thành, Phước
An) có tiềm năng rất lớn về đất sản xuất cây công nghiệp nhưng chưa được
khai thác hết; các xã khu Đơng (Phước Hịa, Phước Thắng, Phước Thuận,
Phước Sơn) với thế mạnh về cây lúa và thủy sản, là khu vực đầy tiềm năng
kinh tế của huyện và các xã còn lại là vùng chuyên canh cây lúa.


25
Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định từ tháng 2
năm 2016 đến tháng 4 năm 2016.
- Bà mẹ có con dưới 5 tuổi (mẹ của những trẻ đã được chọn) đang có
mặt tại địa bàn trong thời gian nghiên cứu.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Trẻ dưới 5 tuổi có mặt tại thời điểm và trên địa bàn nghiên cứu được
chọn, không bị mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính hoặc cấp tính.
- Mẹ của các trẻ được chọn hợp tác nghiên cứu, khơng bị tâm thần và rối
loạn trí nhớ.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ mắc các bệnh bẩm sinh, bệnh mạn tính hoặc cấp tính và bà mẹ bị
bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ.
- Nếu trẻ vắng nhà trong ngày thì đợi, nếu vắng nhà lâu ngày thì bỏ qua.
- Nếu trẻ có nhà, nhưng mẹ đi vắng lâu ngày mà người hiện nay đang
chăm sóc trẻ khơng biết gì về tiền sử ni dưỡng và bệnh tật của trẻ thì bỏ
qua. Ngược lại, nếu người đang chăm sóc trẻ hiện nay biết rõ tiền sử ni
dưỡng và bệnh tật thì vẫn chọn vào mẫu nghiên cứu.
2.1.3. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
2.1.3.1. Cỡ mẫu
- Cỡ mẫu cho một nghiên cứu mô tả cắt ngang tại cộng đồng được tính
theo cơng thức sau:
p (1 – p)
n = Z2(1-a/2)
e2


×