Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.89 KB, 18 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG
NHU CẦU TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương1.

1
2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

2

1.2.
1.3.
1.4.



Minh về đảng viên
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng viên
Quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI

2
2
3
5

Chương 2.

NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG NHU CẦU TRONG

1.1.

2.1.
2.2.

TÌNH HÌNH MỚI
Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và những vấn đề đặt

9

ra trong nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay
Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp

9


ứng nhu cầu trong tình hình mới

11

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15
16


MỞ ĐẦU
Đảng viên là tế bào cơ bản cấu thành tổ chức đảng; số lượng, chất lượng
đội ngũ đảng viên trực tiếp quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín
và danh dự của tổ chức đảng và tồn Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc của Đảng
đều do đảng viên làm. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến
quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng
thực hiện” [4, tr.235-236]. Trong hệ thống chính trị, đảng viên là hạt nhân lãnh
đạo, nguồn bổ sung cán bộ cho bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đồn thể, là
lực lượng nịng cốt trong các phong trào cách mạng của các tổ chức và quần
chúng. Vì vậy, Người cũng thường xuyên căn dặn: chi bộ tốt là do có nhiều đảng
viên tốt, đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh, Đảng có mạnh thì Đảng mới làm trịn
nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, từ
yêu cầu của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn ở người đảng viên. Nếu Đảng không tự
đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, không chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên

vững mạnh thì Đảng khơng thể lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong
tình hình mới. Do đó, nghiên cứu vấn đề “Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng
viên đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
Chương1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng viên
C.Mác, PhĂngghen đã chỉ ra đặc trưng cơ bản nhất của người đảng viên
cộng sản: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất
trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào
tiến lên; về mặt lý luận họ khác bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ họ hiểu
rõ những điều kiện và tiến trình và kết quả của phong trào” [2, tr.343]. Quan điểm
của C.Mác, PhĂngghen đã chỉ ra rằng, đảng viên cộng sản phải là người tiên
phong trong hoạt động thực tiễn cách mạng và tư tưởng lý luận. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: “Mỗi đảng viên tốt, mỗi chi bộ tốt là đảng được mạnh thêm
một phần; đảng viên kém, chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng” [5, tr.166].
Xuất phát từ quan điểm đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng
vấn đề cốt lõi của việc tạo dựng tổ chức là phải xây dựng đội ngũ đảng viên. Mọi
biểu hiện coi nhẹ, thái độ không nghiêm túc, không khoa học trong xây dựng đội
ngũ đảng viên là nguồn gốc làm cho Đảng lỏng lẽo về tổ chức, giảm sút năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, dẫn đến làm biến chất, tan rã Đảng.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng viên
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về người đảng viên cộng sản và trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên,

Đảng ta đặc biệt coi trọng chất lượng đảng viên, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó Đảng ta đã xây dựng được
một đội ngũ đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức lối sống
cách mạng, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, luôn vững vàng trước
mọi khó khăn, thử thách. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Đảng viên là
chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam suốt
đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
2


chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, các nghị quyết của Đảng và pháp luật Nhà
nước, có lao động, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng,
giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng”.
1.3. Quan niệm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Trong đời sống, thuật ngữ “nâng cao” được hiểu là hoạt động của chủ thể tác
động vào đối tượng nào đó làm cho chúng cao hơn, phát triển hơn trước đây để đáp
ứng nhu cầu của đời sống xã hội, cá nhân [7, tr.128]. Thuật ngữ này cũng còn biểu
đạt sự tự thân vận động, tự thân phát triển của một chủ thể nào đó để phẩm chất,
năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Khi nghiên cứu nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải nắm vững quan điểm hệ thống, tính chỉnh
thể của hoạt động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội. Bất cứ một hoạt
động nào đó của con người cũng đều có mục đích, đối tượng tác động, nội dung,
phương thức, phương tiện và được diễn ra trong thời gian, không gian cụ thể. Nếu
một khâu, một cơng việc nào đó trục trặc, hoạt động kém kết quả, lập tức sẽ làm
ảnh hưởng đến các khâu khác, mặt khác mà do đó kết quả hoạt động sẽ rất hạn chế,
thậm chí thất bại, khơng đạt được mục đích đề ra.
Mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhằm phát triển đội
ngũ về số lượng, với cơ cấu phù hợp, có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực

đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên thời kỳ mới; không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Nội dung, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên có nội dung
tồn diện, biểu hiện tập trung vào các nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận chất lượng các mặt công tác xây dựng đội ngũ
đảng viên: thể hiện ở chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên, công
tác quản lý đảng viên, công tác phát triển đảng viên và công tác sàng lọc đội ngũ
đảng viên. Chất lượng đội ngũ chỉ phát triển vững chắc khi trình độ giác ngộ
chính trị, bản lĩnh chính trị của đảng viên được nâng cao; các mặt công tác quản
lý đảng viên được tăng cường, số lượng đảng viên mới được bổ sung bảo đảm
chất lượng, tiêu chuẩn và làm tốt công tác sàng lọc đảng viên, bảo đảm sự trong
3


sạch, vững mạnh của từng người và cả đội ngũ đáp ứng yêu cầu gai đoạn mới.
Hai là, đánh giá nâng cao chất lượng thực hiện tiêu chuẩn đảng viên.
Tiêu chuẩn đảng viên là yếu tố quy định chất lượng đội ngũ đảng viên. Vì vậy,
đánh giá nâng cao chất lượng đảng viên phải được thể hiện ở việc đánh giá nâng
cao chất lượng thực hiện tiêu chuẩn đảng viên. Tiêu chuẩn đảng viên ngày càng
cao, thể hiện sự bổ sung, phát triển yêu cầu về phẩm chất, năng lực, nhiệm vụ
mà người đảng viên phải đáp ứng. Điều đó biểu hiện ở việc đánh giá nâng cao
chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn đối với đảng viên mới được kết nạp; việc tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống của đội ngũ đảng viên
được giao giữ những trọng trách trong bộ máy Đảng, chính quyền, hệ thống
chính trị. Trên cơ sở củng cố, giữ gìn, mẫu mực về đạo đức cách mạng, lối sống
có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đó chính là u cầu, điều kiện bảo đảm sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, trong các tổ chức chính trị-xã hội, thắt chặt quan hệ
gắn bó với nhân dân, tuyên truyền, phát động quần chúng thực hiện thắng lợi các
chủ trương, biện pháp lãnh đạo của Đảng.
Ba là, nâng cao chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đảng viên.

Chất lượng của đội ngũ được biểu hiện ở kết quả (chất lượng) thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, đánh giá nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên, thể hiện ở việc đánh giá việc nâng cao chất lượng thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao trên từng cương vị công tác của đảng viên. Chất lượng, hiệu
quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đảng viên thấp thì khơng thể đánh giá
người đảng viên đó có phẩm chất, năng lực tốt được và đánh giá mức độ, hiệu
quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đảng viên, đó chính là thước đo để đánh
giá nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Hình thức, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên bao gồm
tổng hợp những hình thức biện pháp cơng tác tư tưởng, cơng tác tổ chức, chính
sách tác động, nhằm không ngừng phát triển các yếu tố quy định chất lượng một
cách vững chắc. Các biện pháp cơng tác tổ chức, chính sách được sử dụng tập
trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng như:
thông qua sinh hoạt, hoạt động của các tổ chức mà đảng viên là thành viên (tổ
4


chức đồn, hội cựu chiến binh, hội nơng dân, tổ chức cơng đồn...); thơng qua
các hoạt động thực tiễn chính trị ở địa phương, trong đó coi trọng rèn luyện đảng
viên qua thực tiễn các phong trào hành động cách mạng của địa phương.
1.4. Thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay
* Những ưu điểm
Phẩm chất năng lực, phong cách của đội ngũ đảng viên về cơ bản đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Số lượng đảng viên về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ. Về
cơ cấu, nhìn chung tương đối hợp lý trong các lĩnh vực hoạt động của, bảo đảm
lĩnh vực hoạt động nào cũng có đảng viên. Tuyệt đại bộ phận đội ngũ đảng viên
đã phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trong sản xuất, cơng tác và đời sống,
được nhân dân tín nhiệm. Các đảng viên mới đều phấn đấu đạt tiêu chuẩn đảng
viên theo Quy định của Điều lệ Đảng. Đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đảng viên
trong thời gian dự bị và chuyển thành đảng viên chính thức.

Tuyệt đại đa số đảng viên xác định tốt trách nhiệm chính trị với chức
trách, nhiệm vụ được giao, không dao động trước những khó khăn, thử thách, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, có trình độ nhận
thức và niềm tin sâu sắc vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự là
tấm gương tiêu biểu cho lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo
vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nắm vững và triệt để chấp hành đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ vững nguyên tắc
lãnh đạo, nhạy bén, sắc sảo về chính trị, bình tĩnh, sáng tạo, quyết đốn trong giải
quyết cơng việc; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, tích cực, chủ động trong
đấu tranh bảo vệ trận địa chính trị tư tưởng của Đảng, tĩnh táo trước mọi luận điệu
của các thế lực thù địch, không sa ngã trước sự cám dỗ vật chất, sáng suốt trước
những dư luận khơng lành mạnh trên địa bàn địa phương mình.
Đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng và lối sống trong
sạch lành mạnh, trung thực, chân thành, khiêm tốn giản dị, thực sự cần, kiệm,
5


liêm, chính, chí cơng vơ tư, tận tuỵ với cơng việc, có tinh thần khắc phục khó
khăn, có tinh thần cầu thị, ý chí phấn đấu vươn lên. Trong cơng tác, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ. Phần đơng có tác phong cơng tác sâu sát, tỉ mỉ, lời nói đi
đơi với việc làm, phát huy được tính tiền phong gương mẫu trong công việc và
cuộc sống đời thường. Hầu hết đội ngũ đảng viên hiện nay nhận thức tốt vai trò
của việc rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức với q trình cơng tác và sự tiến
bộ trưởng thành của mình, có thái độ kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện
sai trái, tiêu cực, lạc hậu. Là người trực tiếp lãnh đạo nhân dân, tuyệt đại đa số
đảng viên hiện nay đều gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, ít có
trường hợp vi phạm kỷ luật phải xử lý.

Về phong cách làm việc, phần lớn đảng viên có phương pháp, tác phong
cơng tác của người cán bộ lãnh đạo. Đó là, sự thống nhất cao giữa tính Đảng,
tính khoa học trong chỉ đạo, tổ chức hướng dẫn công tác; đề cao trách nhiệm cá
nhân, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo.
Gương mẫu trong chấp hành các chế độ, nguyên tắc, nhạy bén, linh hoạt trong
xem xét tình hình, khiêm tốn, giản dị, tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân.
Trong mọi hoạt động đã gắn chặt lý luận với thực tiễn, vận dụng đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước một cách đúng đắn, sáng tạo, không rập khn,
máy móc, khơng qua loa, chiếu lệ.
Có phương pháp xem xét khoa học, bảo đảm khách quan, toàn diện, không
chủ quan một chiều trong đánh giá, xem xét các vấn đề về chính trị, xã hội. Có
phong cách dân chủ và đồn kết thống nhất cao, ln dựa vào cấp ủy, tổ chức
đảng, phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể cấp ủy để hoàn thành nhiệm vụ, học
hỏi quần chúng, phát huy mọi tài lực, trí tuệ, kinh nghiệm của quần chúng thành
sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ; khơng độc đốn, chun quyền, quan
liêu, đứng trên tập thể, trên tổ chức.
Có tính chủ động, sáng tạo, quyết đốn, dám chịu trách nhiệm, khơng né
tránh khuyết điểm; thường xuyên nghiên cứu, quán triệt đường lối, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên,
đánh giá đúng tình hình mọi mặt của đơn vị để chủ động đề xuất chủ trương,
6


biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo để cấp ủy, thảo luận, quyết định. Có tinh thần
trách nhiệm trong việc triển khai, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nghị quyết; kịp thời đề xuất với cấp ủy, tổ chức đảng bổ sung, hoàn
thiện chủ trương, biện pháp lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm
vụ. Trong hoạt động cũng như trong sinh hoạt hàng ngày ln cụ thể, sâu sát
và có tác phong quần chúng, có khả năng giáo dục, thuyết phục, nêu gương,
nói đi đơi với làm. Tác phong làm việc có kế hoạch, khoa học, chính xác, cẩn

thận tỉ mỉ, chu đáo trong cơng việc, ln nhận thức và giải quyết hài hồ các
mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, giữa cấp trên và cấp dưới.
* Những hạn chế, khuyết điểm
Phẩm chất năng lực, phong cách làm việc của một bộ phận đảng viên có
mặt chưa phát triển kịp yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo. Một bộ phận đảng viên
hiện nay về năng lực trí tuệ, tư duy lý luận chưa thật đúng tầm. Việc tổ chức
hoạt động công tác đảng, năng lực tổ chức thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển của tình hình, nhiệm vụ. Một số đảng viên chưa nắm bắt kịp thời
những vấn đề lý luận, thực tiễn mới dẫn đến lạc hậu về nhận thức, khơng
phân tích sâu sắc hết những vấn đề nảy sinh trong xã hội. Việc nắm bắt kiến
thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ và thiếu
vững chắc. Một số đồng chí khơng đủ trình độ và kinh nghiệm thực tiễn để
xem xét, giải quyết đúng đắn các vấn đề phức tạp trong thực tiễn. Cá biệt, có
một số đồng chí ít được thử thách, rèn luyện thường có những hạn chế về tư
duy lý luận, việc phân tích, luận giải thơng tin mới có những khó khăn [3,
tr.190].
Khơng ít người giữ thái độ thụ động, giản đơn khi tiếp thu, lĩnh hội nội
dung chính trị - xã hội. Trong đội ngũ đảng viên hiện nay, cịn có đồng chí
chưa thực sự tận tụy, tích cực, sáng tạo trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Sự hứng thú nghề nghiệp thiếu cơ sở vững chắc, còn biểu hiện tư tưởng tự ti.
Năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của một số đồng chí cịn hạn chế,
cịn biểu hiện nể nang, né tránh, nhất là những vấn đề “nóng”. Cịn một bộ
7


phận trong đội ngũ đảng viên thiếu ý chí phấn đấu vươn lên, chưa tích cực
học tập lý luận, chính trị; thiếu sự nhạy cảm chính trị và sắc sảo trong đấu
tranh bảo vệ quan điểm, tư tưởng của Đảng.
Phong cách làm việc của một số đảng viên chậm đổi mới, chưa chú ý

đến các vấn đề cụ thể, chưa sâu sát quần chúng, ít chú ý đến hiệu quả trên
thực tế cả trước mắt và lâu dài. Một bộ phận đảng viên còn lúng túng trong
xem xét và giải quyết các vấn đề về chính trị, tư tưởng nảy sinh. Việc quán
triệt các quan điểm, đường lối của Đảng chưa đầy đủ, sâu sắc, vận dụng vào
tình hình cụ thể còn kém hiệu quả. Chưa linh hoạt và chủ động trong giải
quyết các mối quan hệ nội bộ các ban ngành, đồn thể, chính quyền và nhân
dân địa phương. Tinh thần tìm tịi và ủng hộ cái mới, dám làm, dám chịu trách
nhiệm của một số đảng viên chưa được khẳng định vững chắc, có đồng chí
cịn thiếu nhạy bén và chưa kiên quyết trong phát hiện và đấu tranh với những
tư tưởng lệch lạc và dư luận không tốt. Có nơi đảng viên chưa thực sự là hạt
nhân đồn kết, sức quy tụ, thuyết phục quần chúng cịn hạn chế, chưa thực sự
trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân.
Một bộ phận đảng viên khả năng hoàn thành nhiệm vụ hạn chế. Một
trong những hạn chế khá phổ biến hiện nay ở đội ngũ đảng viên là thực hiện
các nhiệm vụ cơng tác cịn thụ động, lúng túng trong việc nắm bắt và giải
quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Công tác giáo dục, quản lý tình hình tư
tưởng có những thời điểm chưa thật chặt chẽ. Kiến thức về kinh tế, văn hoá xã hội cịn hạn chế. Kỹ năng tiến hành cơng tác xây dựng Đảng chưa thật chặt
chẽ, toàn diện. Nền nếp sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng chưa thật sự phát huy
đầy đủ tinh thần dân chủ, đấu tranh tự phê bình và phê bình cịn hạn chế. Kỹ
năng phân tích, tổng hợp tình hình tư tưởng của một số đảng viên cịn có hạn
chế nhất định, có những vụ việc xảy ra giải quyết cịn thụ động, cứng nhắc
khơng sát thực tiễn. Một số người còn biểu hiện thiếu tự tin, trông chờ, ỷ lại
vào tập thể trong quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ. Thiếu chủ động
phối hợp chặt chẽ trong công tác; chưa thực sự thống nhất cao, tôn trọng, tin
cậy lẫn nhau trong công tác…
8


Chương 2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG NHU CẦU TRONG TÌNH HÌNH MỚI

2.1. Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và những vấn đề đặt ra
trong nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay
Một là, tình hình thế giới, khu vực tác động đến công tác xây dựng đội
ngũ đảng viên. Tình hình thế giới và khu vực hiện nay đang có những diễn biến
rất phức tạp và khó lường. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tiếp tục tồn
tại và sâu sắc hơn. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra gay gắt,
quyết liệt hơn với những nội dung và hình thức mới, tiềm ẩn nhiều nguy cơ ở
các quy mơ, hình thức khác nhau. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt dẫn đến các cuộc cách mạng trên mọi lĩnh
vực. Kinh tế tri thức ngày càng có vai trị nổi bật trong q trình phát triển lực
lượng sản xuất. Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan của thời đại, song
dưới tác động và sự chi phối của chủ nghĩa tư bản và các nước lớn đang chứa
đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa thúc đẩy,
vừa kìm hãm sự phát triển và tiến bộ, văn minh của nhân loại.
Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á đang là khu vực phát triển
năng động nhưng có nhiều lợi ích chiến lược tạo nên sự tranh chấp và thoả hiệp,
nhượng bộ rất phức tạp giữa các nước lớn nên vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây
mất ổn định, đặc biệt tranh chấp lãnh thổ, vùng biển đảo ngày càng gay gắt,
quyết liệt, diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường làm ảnh hưởng đến hịa
bình, ổn định của mỗi quốc gia và cả khu vưc. Khối ASEAN đã trở thành một
Cộng đồng, song chưa có sự đồng thuận cao do sự chi phối của các nước lớn và
lợi ích của mỗi quốc gia nên chưa có khả năng giải quyết nhiều vấn đề nội bộ,
nhất là trong giải quyết tranh chấp biển, đảo ở biển Đông hiện nay.
Đặc biệt, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động không ngừng chống
phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng, hịng xố bỏ chủ nghĩa xã hội
trên tồn thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm và mũi
nhọn để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xố bỏ vai trị
lãnh đạo của Đảng, xố bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đưa nước ta theo
9



quỹ đạo của chúng. Đối với đội ngũ đảng viên, chúng tìm mọi cách phá hoại về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm cho đảng viên mất phương hướng
chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Hai là, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được những thành
tựu to lớn nhưng cũng đang gặp phải khó khăn, thách thức khơng nhỏ tác động
đến nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Qua hơn 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân ta đã
thu được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng và ổn định.
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ trên nhiều mặt. Quốc phòng - an ninh ngày
càng được củng cố. Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật
tự an tồn xã hội được giữ vững. Đời sống nhân dân đã có bước cải thiện đáng
kể, lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng vững chắc.
Tuy nhiên, hiện nay dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
cùng với những hạn chế yếu kém trong nước làm cho tình hình kinh tế - xã hội
đất nước gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế nước ta đang đối mặt với nhiều thách
thức lớn, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn đang tồn tại. Bên cạnh đó, sự tác
động của mặt trái của cơ chế thị trường đến mọi mặt đời sống xã hội đang tạo ra
sự phân cực, phân hóa xã hội; sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, tệ quan liêu, tham nhũng; sự yếu kém về trình độ, năng lực và nghiệp vụ
chuyên môn ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tất cả những điều này
đang là những nhân tố tác động tiêu cực đến tinh thần, tâm lý, tình cảm, trách
nhiệm và tâm tư của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, yêu cầu nhiệm vụ cơng tác xây dựng Đảng địi hỏi phải nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên. Hiện nay, toàn Đảng tiếp tục quán triệt và thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về xây dựng Đảng. Đây là sự khẳng
định những vấn đề thuộc về bản chất cách mạng của Đảng, nhằm xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Song điều đặt ra là cần phải
chú trọng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo nên sự nhất trí cao trong đảng bộ và

từng cơ quan, đơn vị, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp về công tác xây
10


dựng Đảng trong tình hình mới.
Đội ngũ đảng viên nhìn chung còn yếu và thiếu, hẫng hụt cả kiến thức và
năng lực, kinh nghiệm thực tiễn; cơ chế, chính sách không đồng bộ chưa tạo
động lực để phát triển, một số chủ trương chưa phù hợp, chưa sát với thực tiễn,
thiếu tính khả thi làm cho hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gặp
khơng ít khó khăn. Do vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong điều
kiện mới phải có các chủ trương, giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu
kém đó trong đội ngũ đảng viên; có nhiều biện pháp thiết thực, hiệu quả để nâng
cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ đảng viên.
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng nhu
cầu trong tình hình mới
Một là, thường xuyên giáo dục để các chủ thể quán triệt sâu sắc và chấp
hành nghiêm túc các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng về công tác
xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong thời kỳ mới.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và của cơng tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới, đòi hỏi từ Trung ương xuống đến cấp ủy, chính quyền địa
phương, cơ sở, các cơ quan chức năng cần có sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng
bộ, sâu sắc và thống nhất hơn về nhận thức trong xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên. Với tinh thần ấy, cấp ủy và các cơ quan cần tiếp tục
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và tuyên truyền sâu rộng đến các đối tượng, lực
lượng mà quan trọng hơn cả là đến đội ngũ lãnh đạo chủ chốt các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ; yêu cầu xây
dựng đội ngũ đảng viên theo nghị quyết của Đảng. Qua đó, tạo sự chuyển biến
sâu sắc, vững chắc trong nhận thức và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng
về công tác xây dựng Đảng.
Đi đôi với việc giáo dục, quán triệt, định hướng nhận thức, cấp ủy và các

cơ quan chức năng cần phải tăng cường khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra, uốn
nắn, điều chỉnh nhận thức. Trong kiểm tra cần phải đánh giá đúng thực trạng,
sớm phát hiện được những sai lầm, lệch lạc trong nhận thức của các đối tượng
để kịp thời uốn nắn, điều chỉnh cho phù hợp, nhất là những hạn chế, bất cập
11


trong nhận thức của các tổ chức và mọi cán bộ, đảng viên để kịp thời tìm biện
pháp điều chỉnh. Kiên quyết đấu tranh, khắc phục những khuynh hướng sai lầm,
lệch lạc trong nhận thức như xem nhẹ vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên dẫn
đến hiện tượng thờ ơ, thiếu quan tâm đúng mức, thiếu trách nhiệm, thiếu chủ
động, sáng tạo trong nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay. Thông qua
hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành
đối với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Quá trình tổ chức các hoạt động
thực tiễn nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải vừa chủ động, tích cực vừa
kiên trì, biết lựa chọn phương pháp, kênh tác động cho phù hợp như thông qua
tổ chức quán triệt, học tập chính trị; tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ
chuyên môn và nghiệp vụ công tác đảng; thơng qua sinh hoạt đảng, sinh hoạt
chính quyền...
Hai là, nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Thực
hiện tốt việc giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm giúp cho đảng viên củng cố lập
trường chính trị, tình cảm, niềm tin, thái độ, nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ của địa phương cơ sở, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, tạo nên sự thống nhất ý chí, hành động của tồn Đảng. Mỗi đảng viên
phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu
trong lao động, cơng tác. Đồng thời, cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng phải
kịp thời phát hiện những tư tưởng lệch lạc, hoặc những nhận thức mơ hồ để có
biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên khắc phục, không để lây lan làm
ảnh hưởng đến nhận thức chung của chi bộ, đảng bộ. Trong điều kiện hiện nay,

khi sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều vấn
đề mới nảy sinh càng cần có sự thống nhất về tư tưởng chính trị. Các thế lực thù
địch đã và đang tăng cường phá hoại về tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên
với những âm mưu, thủ đoạn cực kỳ thâm độc, xảo quyệt, đòi hỏi càng cần phải
nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Thực hiện nghiêm
túc đảng viên nói và làm theo nghị quyết của Đảng.
12


Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu
dưỡng về đạo đức lối sống thực hiện tốt tư tưởng của Hồ Chủ tịch cần kiệm,
liêm chính, chí cơng, vơ tư. Chấp hành nghiêm túc điều lệ Đảng, pháp luật nhà
nước, gương mẫu giữ gìn phẩm chất đạo đức người đảng viên cộng sản trong
điều kiện và môi trường mới. Đồng thời các tổ chức Đảng, trước hết là mỗi chi
bộ đảng phải phát huy năng lực lãnh đạo của mình, tăng cường cơng tác giáo
dục, kiểm tra, quản lý cán bộ đảng viên về đạo đức lối sống với những hình
thức và phương pháp phù hợp trong điều kiện mới. Đây là biện pháp đầu tiên
nhằm tăng cường sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, lấy lại niềm tin
trong nhân dân, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Chỉ có
làm tốt nội dung này, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng mới thấm nhuần sâu sắc
tư tưởng cuả Bác Hồ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [6, tr.208]. Cán bộ, đảng viên
phải học tập toàn diện, trong đó phải đặc biệt coi trọng học lý luận Mác Lênin. Vì “có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới
làm tốt cơng tác Đảng giao phó cho mình” [6, tr.209].
Để tự rèn luyện tự tu dưỡng đạo đức lối sống một cách có kết quả, một
mặt địi hỏi mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải tự giác, phải bền bỉ, phải kiên trì và
nhẫn nại ... khơng nao núng tinh thần, phải lấy tiêu chuẩn cán bộ và đức tính
của con người Việt Nam trong giai đoạn mới để phấn đấu rèn luyện; mặt khác,

tổ chức đảng trước hết là chi bộ phải có trách nhiệm giúp cán bộ đảng viên rèn
luyện trau rồi đaọ đức, lối sống lành mạnh thông qua giáo dục, thông quản lý
và kiểm tra đảng viên.
Bốn là, thực hiện tốt việc sàng lọc đảng viên, đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ đảng viên
hiện nay. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn và bồi dưỡng, nâng cao
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng ngày
càng trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn dân thực hiện đường lối,
13


nhiệm vụ cách mạng. Chính vì vậy, từ trước đến nay, đa số cán bộ, đảng viên có
ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục
vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới là thành
quả của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau,
ngày càng nghiêm trọng. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
của Đảng thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy
tiện, vơ ngun tắc…” [1,tr.22]. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên diễn ra từ chỗ trước đây chỉ có ở “khơng ít”
hoặc “một bộ phận” thì hiện nay đã và đang diễn ra ở “một bộ phận không nhỏ”,
diễn ra ở “những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp”. Những hiện tượng này nếu khơng được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ có tác hại rất

nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng và do đó, quyết định đến sự tồn vong
của Đảng và chế độ.
Vì vậy, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm, phương châm,
chủ trương, giải pháp của Đảng về đấu tranh khắc phục tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên hiện nay. Đấu tranh khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên, liên tục, kiên quyết, triệt để, nghiêm túc, thận trọng trên cơ sở những quy
định của Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương. Kết
hợp chặt chẽ đấu tranh khắc phục tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên với cuộc đấu tranh phòng, chống âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị tư tưởng,
đạo đức, lối sống.
14


KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội
ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp cơng nhân. Đảng chỉ có
thể làm trịn vai trị của đội tiên phong nếu trong Đảng bao gồm những chiến sĩ
tiên phong. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người giác ngộ nhất,
ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Suy cho cùng mọi
thành công hay những sai lầm khuyết điểm đều bắt nguồn từ đội ngũ đảng viên.
Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng là nhân tố có tầm quan
trọng đặc biệt, trực tiếp liên quan đến sự tồn vong của Đảng. Nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề bức xúc đang đặt ra cho
công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Trong những năm tới nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên bên cạnh
những thuận lợi cũng cịn những khó khăn thách thức. Vì vậy cần nhận thức rõ

những yếu tố tác động tích cực, thuận lợi và cả những khó khăn, thách thức đặt
ra đối với công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở đó xác
định đúng phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh , tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh , tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh , tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
7. Trung tâm ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1994.

16



×