Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.5 KB, 90 trang )












LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong
giai đoạn hiện nay













Mở ĐầU
1.Tính cấp thiết của đề tài


Đội ngũ đảng viên (ĐNĐV) là nhân tố chính, cơ bản, chủ yếu nhất cấu thành tổ
chức của Đảng. Cho nên, một khi đã xây dựng được ĐNĐV thật sự trong sạch, vững
mạnh sẽ là điều kiện, tiền đề đặc biệt quan trọng, góp phần quyết định làm cho từng tổ
chức đảng vững mạnh, theo đó, cả hệ thống tổ chức Đảng và toàn Đảng vững mạnh.
Khẳng định nội dung tư tưởng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một cách cô đọng:
“Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [62, tr. 92].
Hiện nay, cả nước đã và đang thực hiện “nhiệm vụ trọng tâm” là phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hóa (HĐH, HĐH) đất nước, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ mới đang đặt ra hàng loạt các vấn đề rất mới mẻ, vừa
có những thời cơ, thuận lợi lớn, đồng thời, cũng xuất hiện không ít những khó khăn và
phức tạp, đòi hỏi ĐNĐV của Đảng phải được chỉnh đốn, nâng cao cả về phẩm chất,
năng lực trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hoạt động thực tiễn. Trong khi đó
những năm qua, công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng ĐNĐV nói riêng, tuy
có đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, song cho đến nay vẫn còn nhiều
vấn đề yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng kịp những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng trong thời kỳ mới. Tổng kết thực tiễn công tác xây dựng Đảng nhiều năm qua,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng đã xác định:
Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm đang nổi lên một số
mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn
luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái
về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống” [41,tr.138].
Kiểm điểm nửa nhiệm kỳ Đại hội IX, Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khoá IX
còn tiếp tục chỉ thêm rằng:
Nhiều tổ chức cơ sở đảng sinh hoạt lỏng lẻo, sức chiến đấu yếu, vai trò lãnh đạo
giảm sút, mờ nhạt. Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc
nhất hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư

tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên còn rất nghiêm trọng; kỷ cương phép nước trong nhiều việc, nhiều lúc

chưa nghiêm”[43,tr. 188].
Chính vì những lẽ đó, nên để đảm bảo cho Đảng ta vững mạnh về mọi mặt,
xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân (GCCN), của nhân dân
lao động và của cả dân tộc, đủ sức lãnh đạo xã hội, đất nước phát triển một cách toàn
diện, vững chắc, Đảng đã chỉ đạo một cách kiên quyết: phải tiếp tục thực hiện mạnh
mẽ hơn nữa các nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khoá VIII, tinh thần của Nghị quyết Đại hội IX và các Nghị quyết
Trung ương tiếp theo của khóa IX, đặc biệt là những nội dung về xây dựng Đảng của
Nghị quyết Trung ương 9, khoá IX mới đây. Trong đó, công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, làm trong sạch, nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên (NCCLĐNĐV) là một trong những nội dung xây
dựng, chỉnh đốn Đảng vừa mang tính bức thiết, cấp bách đồng thời cũng vừa có ý
nghĩa chiến lược lâu dài.
An Giang là một tỉnh trọng điểm nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long,
thuộc khu vực biên giới Tây Nam Bộ, với địa hình khá phong phú, đa dạng và phức
tạp. Một mặt, An Giang là tỉnh có đồng bằng với những sông ngòi chằng chịt, mang
đầy phù sa, mầu mỡ, rất thuận lợi cho việc phát triển nhiều mặt kinh tế-xã hội của tỉnh,
thuận tiện trong việc giao thông, quan hệ giao lưu nhiều chiều với các nước bạn Lào
và Campuchia láng giềng. Đồng thời mặt khác, An Giang lại có cả những vùng núi,
vùng dân tộc, khu biên giới, cửa khẩu, khu kháng chiến cũ, vùng sâu, vùng xa với điều
kiện thiên nhiên kém ưu đãi, đã và đang thực sự là những trở ngại, gây không ít những
khó khăn cho sự cố gắng và nỗ lực của cả Đảng bộ và nhân dân An Giang trong công
cuộc phát triển mọi mặt kinh tế-xã hội của tỉnh nhà. Nơi đây, tại các đảng bộ xã thuộc
tỉnh An Giang, ĐNĐV đang hoạt động, cũng đang rất cấp thiết và cấp bách trong việc
xây dựng, NCCLĐNĐV đáp ứng yêu cầu đòi hỏi bức xúc của nhiệm vụ chính trị
(NVCT) chung của cả nước và nhiệm vụ cụ thể, do đặc thù của tỉnh đang đặt ra. Với
nhận thức ý nghĩa của việc xây dựng, NCCLĐNĐV nói chung và xây dựng
NCCLĐNĐV ở các đảng bộ xã thuộc tỉnh An Giang nói riêng như vậy, nên tác giả
quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã


tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sỹ khoa học chính trị
chuyên ngành Xây dựng Đảng.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu với những cấp độ
và cách tiếp cận khác nhau. Đặc biệt, gần đây có nhiều công trình khoa học của các
học viên, các nghiên cứu sinh, các nhà khoa học nghiên cứu một số vấn đề có liên
quan đến đề tài như: “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn đồng bằng
sông Hồng”, luận án Phó tiến sỹ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh (CTQG) Hồ chí Minh (1995) của Đỗ Ngọc Ninh; “ Khắc phục sự thoái hoá,
biến chất của đảng viên trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” luận án Phó
tiến sỹ khoa học lịch sử, Học viện CTQG Hồ chí Minh (1996) của Ngô Kim Ngân;
“Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường và xã
ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay”, luận án Phó tiến sỹ khoa học lịch sử, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh (1996) của Đặng Đình Phú; “Nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”, luận án Tiến sỹ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện
CTQG Hồ Chí Minh (2002) của Cao Thị Thanh Vân; “Nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên vùng có đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc bộ trong
giai đoạn hiện nay”, luận án Tiến sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện CTQG
Hồ Chí Minh (2003) của Nguyễn Văn Giang; “Làm người cộng sản trong giai đoạn
hiện nay”(2000), do Phó giáo sư, Tiến sỹ Tô Huy Rứa và Phó giáo sư, Tiến sỹ Trần
Khắc Việt đồng chủ biên Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu khá sâu sắc,
toàn diện những vấn đề liên quan đến đảng viên và tổ chức cơ sở đảng ở một số vùng,
miền trọng điểm của đất nước.
Tuy nhiên, trong số các đề tài đã nghiên cứu và công bố đó, chưa có đề tài nào
nghiên cứu chất lượng ĐNĐV hoạt động ở các đảng bộ xã thuộc tỉnh An Giang, một
tỉnh biên giới Tây Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long với địa hình khá phong phú, đa
dạng và phức tạp như đã nêu. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả
của các công trình nói trên, tác giả đi sâu nghiên cứu việc NCCLĐNĐV tại các đảng
bộ xã thuộc tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng chất lượng ĐNĐV
đang hoạt động ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang, qua đó xác định phương hướng và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm NCCLĐNĐV ở các đảng bộ của các xã này trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Phân tích vai trò, đặc điểm của ĐNĐV hoạt động ở các đảng bộ xã tỉnh An
Giang hiện nay, đánh giá đúng thực trạng chất lượng ĐNĐV và chỉ ra những yêu cầu
mới về chất lượng ĐNĐV này. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm NCCLĐNĐV
ở các đảng bộ xã đó trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu chất lượng ĐNĐV và hoạt động NCCLĐNĐV
ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng ĐNĐV hoạt
động ở tất cả các đảng bộ xã thuộc tỉnh An Giang thời gian từ 1996 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin (CNMLN), tư
tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)
về xây dựng Đảng nói chung và xây dựng ĐNĐV của Đảng nói riêng.
- Luận văn dựa trên hoạt động thực tiễn sinh động của ĐNĐV sinh hoạt ở các
đảng bộ xã thuộc tỉnh An Giang hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp luận duy vật mác-xít, luận
văn chủ yếu sử dụng các phương pháp như: gắn lý luận với thực tiễn; lôgic với lịch sử;
kết hợp giữa điều tra và khảo sát, phân tích và tổng hợp, trong đó đặc biệt chú trọng
tổng kết thực tiễn.

6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá đúng thực trạng chất
lượng ĐNĐV hoạt động ở các đảng bộ xã thuộc tỉnh An Giang hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm NCCLĐNĐV hoạt động ở các đảng
bộ xã thuộc tỉnh An Giang đến năm 2010.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
NCCLĐNĐV hoạt động ở các đảng bộ xã, nông thôn An Giang hiện nay. Do đó có thể
làm tài liệu tham khảo cho các cấp bộ đảng, các cơ sở nghiên cứu, các nhà trường của
tỉnh An Giang trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn và đào tạo cán bộ.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có bố cục gồm 3 chương 6 tiết.

























Chương 1
NÂNG CAO CHấT LƯợNG ĐộI NGũ ĐảNG VIÊN ở
CáC ĐảNG Bộ Xã TỉNH AN GIANG HIệN NAY- NHữNG VấN Đề Lý LUậN Và
THựC tiễn

1.1. Vị trí, vai trò và đặc điểm của đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh
An Giang trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Đảng viên và đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang hiện
nay
Qua nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm của CNMLN, TTHCM và
Đảng ta về xây dựng Đảng nói chung và xây dựng, NCCLĐNĐV nói riêng, chúng ta
nhận thức một cách sâu sắc rằng: những đặc trưng cơ bản, bản chất vốn có của người
đảng viên cộng sản chân chính và cơ sở hình thành những đặc trưng, bản chất đó;
những hệ thống các tiêu chuẩn, nguyên tắc, quy định về điều kiện, thủ tục, những biện
pháp căn bản, chủ yếu để lựa chọn kết nạp người vào Đảng, đã được C. Mác và Ph.
Ăngghen xác lập, đặt nền móng tư tưởng vững chắc ngay trong quá trình hai ông trực
tiếp viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và soạn thảo Điều lệ Liên đoàn của những
người cộng sản vào những năm 1847, 1848. Chính dựa trên nền tảng tư tưởng vững
chắc này, các chính đảng vô sản đã tiếp thu, bảo vệ, vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo phù hợp điều kiện, thực tiễn sinh động của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi thời kỳ
và giai đoạn cách mạng khác nhau, xây dựng, củng cố Đảng mình ngày càng vững
mạnh, tiến lên theo tiến trình cách mạng cho đến ngày nay.
Chúng ta đều biết, đảng viên ĐCSVN hay đảng viên của bất kỳ một Đảng

Mác-Lênin chân chính nào cũng đều là những chiến sỹ cách mạng trong đội tiên
phong có tổ chức chặt chẽ nhất của GCCN- còn gọi là giai cấp vô sản (GCVS). Nghĩa
là, những đảng viên cộng sản và GCCN có cùng bản chất là bản chất GCCN, đồng thời
họ có lợi ích thống nhất không tách biệt, đối lập nhau. Đây là một trong những đặc
trưng căn bản, chủ yếu nhất của các Đảng Cộng sản đã sớm được C. Mác và Ph.
Ăngghen phát hiện, xác lập khi hai ông viết Tuyên ngôn Đảng Cộng sản: “Những
người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân

khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách rời khỏi lợi ích của toàn thể giai
cấp vô sản” [59, tr.557].
Trước tiên chúng ta thấy rằng, chính sự thống nhất không tách rời về mặt lợi
ích giữa những đảng viên cộng sản trong đội tiên phong của GCVS với GCVS là cội
nguồn, gốc rễ chủ yếu xác lập nên lập trường cách mạng kiên định, triệt để, phẩm chất
chính trị chân chính, trong sáng đặc thù riêng có của người chiến sỹ cộng sản. Càng
hiểu rõ bản chất đảng viên cộng sản, chúng ta càng hiểu và tin tưởng rằng: trong toàn
bộ quá trình hoạt động của mình, Đảng và ĐNĐV của Đảng ngoài mục đích, lợi ích
thống nhất chung với GCVS họ tuyệt nhiên không có bất kỳ mục đích, lợi ích nào
khác. Bản chất cách mạng chân chính, trong sáng đó trước hết được thể hiện bằng việc
cả mục đích trước mắt, mục đích lâu dài và mục đích cuối cùng của Đảng đều được
trang trọng, công khai rõ ràng, không giấu giếm tại điều 1 Điều lệ của Liên đoàn
những người cộng sản do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo, được Đại hội II của Liên
đoàn thông qua, công bố vào cuối mùa thu năm 1847 ở Luân Đôn: “Mục đích của Liên
đoàn là: Lật đổ giai cấp tư sản, lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội
cũ, tư sản, dựa trên sự đối kháng giai cấp, và xây dựng một xã hội mới không có giai
cấp và không có chế độ tư hữu”[60, tr. 691].
Đó cũng là lý do làm cho GCCN và ĐNĐV tiên phong của nó luôn đoàn kết
gắn bó một cách bền chặt, không tách rời nhau trong suốt tiến trình thực tiễn đấu tranh
cách mạng. Tuy nhiên, trong khi khẳng định ĐNĐV là bộ phận của GCCN, mang bản
chất GCCN, đứng vững trên lập trường GCCN, mọi chủ trương, chiến lược, sách lược
và hoạt động của Đảng và ĐNĐV đều xuất phát từ lợi ích của GCCN, điều đó hoàn

toàn không có nghĩa Đảng và ĐNĐV của Đảng chỉ là Người đại biểu cho quyền lợi
cục bộ, riêng tư của GCCN, tách biệt Đảng, ĐNĐV của Đảng và GCCN ra khỏi quần
chúng lao động khác, đối lập lợi ích của Đảng và GCCN với lợi ích của quần chúng
lao động còn lại, mà trái lại chính là để chỉ rõ rằng, Đảng và ĐNĐV của Đảng một khi
đã thực sự đứng vững trên lập trường GCCN, họ sẽ đấu tranh một cách kiên định, triệt
để cho sự nghiệp cách mạng chung của toàn thể nhân dân lao động. Nghĩa là, Đảng và
ĐNĐV của Đảng không những là đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, mà họ
còn đồng thời là đại biểu đích thực cho quyền lợi của mọi tầng lớp quần chúng nhân
dân lao động. Đây mới chính là bản chất cách mạng đầy đủ nhất, thể hiện phẩm chất

đạo đức cao cả, trong sáng, lập trường tư tưởng tiên tiến, nhân văn vượt thời đại, riêng
có ở những người đảng viên cộng sản chân chính. C. Mác và Ph. Ănghen đã phân tích
rất sâu sắc và đi đến kết luận chính xác rằng, xã hội tư sản vận động và phát triển dựa
trên sự đối kháng giai cấp mà trước hết và chủ yếu là giữa GCVS và giai cấp tư sản.
Nền đại công nghiệp càng phát triển sẽ càng đẩy tất cả các tầng lớp lao động trung
gian khác, thậm chí kể cả một bộ phận nhỏ của giai cấp tư sản, bộ phận của giai cấp
thống trị, cũng đứng về cùng một phía, chung chiến hào với GCVS, bởi mục đích lợi
ích, mục tiêu cách mạng căn bản của tất cả họ với GCVS ngày càng thống nhất làm
một:
Những nhà tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương và người thực lợi nhỏ, thợ thủ
công và nông dân, tất cả tầng lớp dưới của giai cấp trung gian xưa kia, đều rơi xuống
hàng ngũ của giai cấp vô sản [59,tr.550-551] Hơn nữa như chúng ta vừa thấy, từng
bộ phận trọn vẹn của giai cấp thống trị bị sự tiến bộ của công nghiệp đẩy vào hàng ngũ
giai cấp vô sản lúc mà đấu tranh giai cấp tiến gần đến giờ quyết định đến nỗi bộ
phận nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp cách
mạng [59, tr, 553-554].
Giai cấp thống trị tư sản không chỉ là kẻ thù riêng của GCVS mà là kẻ thù chung
của tất cả các tầng lớp lao động: “Các tầng lớp trung đẳng, những nhà tiểu công
nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản
vì giai cấp này là một nguy cơ cho sự sống còn của họ ”[59,tr.554]. Như vậy, mục

tiêu của cuộc cách mạng nhằm xoá bỏ chế độ cũ, chế độ tư sản áp bức, bóc lột, bất
công, để xây dựng một chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiến nhất từ
trước tới nay, chính là sự nghiệp chung của mọi tầng lớp lao động bị áp bức, của một
lực lượng cách mạng đông đảo, hùng hậu trong toàn thể quần chúng có chung mục
đích lợi ích và kẻ thù mà trong đó Đảng và GCVS của nó chỉ là một lực lượng thiểu
số. Chỉ với nhận thức này cũng đủ để ta có thể tin tưởng một cách sâu sắc rằng, Đảng
và GCVS của họ sẽ không thể tự giải phóng được mình nếu họ không đồng thời cùng
giải phóng cho tất cả các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội thoát khỏi ách áp
bức, bóc lột. Điều đó sẽ càng có ý nghĩa gấp bội trong điều kiện những nước nông
nghiệp chậm phát triển, quần chúng lao động chủ yếu là nông dân, tỉ lệ công nhân nhỏ
bé, không đáng kể, mà Việt Nam ta là một điển hình. Có nhận thức vấn đề một cách

thấu đáo, đầy đủ từ cội nguồn, gốc rễ như vậy, chúng ta mới có đủ tri thức và niềm tin
để khẳng định bản chất cách mạng chân chính và trong sáng của Đảng ta, mới hiểu rõ
hết ý nghĩa vì sao trong các văn kiện của Đảng luôn khẳng định lập trường tư tưởng,
chỉ rõ bản chất cách mạng tiên phong của Đảng ngay từ buổi đầu thành lập cho đến
nay: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”[40, tr. 3]. Do
lợi ích của GCCN và lợi ích của cả dân tộc luôn thống nhất nhau, nên Đảng ta thường
nhấn mạnh bản chất GCCN của Đảng không có gì khác hơn là để cho Đảng một khi
đứng vững trên lập trường tư tưởng của GCCN thì sẽ đấu tranh một cách kiên quyết,
triệt để cho sự nghiệp cách mạng chung, phục vụ cho lợi ích của toàn thể nhân dân dân
lao động, cho cả dân tộc được nhiều nhất, tốt nhất. Nói cách khác, đứng về mặt tư
tưởng mà xét thì Đảng ta chỉ có thể là đảng của GCCN chứ không thể là đảng của bất
kỳ một giai cấp nào khác, nhưng nếu đứng ở góc độ về mối liên hệ lợi ích của GCCN,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc thì Đảng không những là Người đại biểu cho
lợi ích của GCCN mà còn là Người đại biểu cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động
và cho cả dân tộc.
Mặt khác, trong khi khẳng định Đảng và ĐNĐV của Đảng luôn gắn bó chặt chẽ
với GCVS mà họ là một bộ phận, điều đó cũng không có nghĩa Đảng và ĐNĐV của

Đảng với giai cấp của nó là một khối hỗn độn phức hợp không rõ ràng, mà ngược lại,
giữa họ có một ranh giới phân biệt rất rành mạch không thể lẫn lộn được. Ranh giới để
phân biệt giữa Đảng và ĐNĐV của Đảng với toàn bộ giai cấp vô sản chính là vai trò
tiên phong riêng có của mình trên cả hai lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Trên lĩnh vực lý
luận, lĩnh vực đặc thù của Đảng và ĐNĐV của Đảng, do được vũ trang bởi hệ thống lý
luận tiên tiến của chủ nghĩa xã hội mác-xít, nên Đảng và ĐNĐV có đủ kiến thức, trình
độ và khả năng nắm vững quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, nhận thức một
cách rõ ràng, căn bản toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng: “Về mặt lý luận, họ hơn
bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản”[58, tr.554]. Chính có được năng lực tư duy và
trình độ hiểu biết như vậy, nên đã dần xác lập cho người đảng viên cộng sản một trình
độ giác ngộ cách mạng rất cao, ý thức lợi ích giai cấp rất rõ ràng, và họ tự ý thức sâu
sắc rằng, chính họ chứ không phải ai khác có trách nhiệm luôn đặt lên hàng đầu và bảo

vệ lợi ích chung cho toàn thể GCVS ở bất kỳ giai đoạn nào của tiến trình cách mạng
mà không phân biệt cả biên giới, cả quốc gia và dân tộc:
Trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ
đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và
chung cho toàn thể giai cấp vô sản…trong các giai đoạn khác nhau của cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của
toàn bộ phong trào [59,tr.557].
Cũng chính nhờ được trang bị thế giới quan khoa học và phương pháp luận duy
vật mác-xít với trình độ giác ngộ cách mạng rất cao, ý thức giai cấp rõ ràng như vậy,
nên trong hành động thực tiễn, Đảng và ĐNĐV của Đảng luôn tỏ ra rất kiên quyết,
luôn gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào hành động cách mạng của quần chúng,
nhất là không ngừng chủ động nỗ lực và sáng tạo để luôn tìm được cho mình những
phương pháp, cách thức hợp lý, tối ưu trong việc vận động, cổ vũ, giáo dục, thức tỉnh
quần chúng, nâng nhận thức của các tầng lớp quần chúng lao động lên trình độ tiên
tiến, lôi cuốn và tổ chức họ cùng hành động đấu tranh vì sự nghiệp cách mạng chung:
“Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng

công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả bộ phận khác”[59, tr.558].
Từ những cơ sở có tính đắp nền xây móng của C.Mác và Ph.Ăngghen, các vị
lónh tụ vĩ đai tiếp sau như V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã bảo vệ, kế thừa, vận
dụng và phát triển ngày một hoàn thiện, phù hợp đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của mỗi giai
đoạn cách mạng, phù hợp thực tiễn sinh động truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia,
dân tộc cho đến nay.
Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong các thời kỳ đã qua và căn cứ vào yêu
cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước ngày nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó xác định tiêu chuẩn đảng viên ĐCSVN
như sau:
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước nước;

có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và
lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật
của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng [40,tr.6].
Trước tiên ta thấy, Điều lệ Đảng xác định: đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
là chiến sỹ trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nghĩa là, đảng viên
của Đảng phải là những người thuộc thành phần GCCN, mang bản chất GCCN và
đứng vững trên lập trường tư tưởng của GCCN. Điều đó cũng có nghĩa, đảng viên phải
là những người có đầy đủ những đặc trưng, bản chất vốn có của một giai cấp lao động.
Tức, họ phải có nhận thức tiên tiến nhất, hành động cách mạng triệt để nhất, có ý thức
tổ chức kỷ luật cao nhất và có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của GCCN.
Như vậy một mặt, do đảng viên mang bản chất GCCN cho nên, trong mọi suy
nghĩ và hành động của họ đều xuất phát từ lợi ích của GCCN, đại biếu trung thành lợi
ích của GCCN. Nhưng măt khác, do “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả

dân tộc”[38,tr.3], cho nên, trong cả nhận thức cũng như hành động, đảng viên của
Đảng không chỉ xuất phát từ lợi ích riêng của GCCN, chỉ đại biểu đại biểu cho lợi ích
của GCCN mà họ còn phải vì công cuộc đấu tranh kiên quyết, triệt để cho sự nghiệp
cách mạng chung của toàn thể nhân dân lao động, cho cả dân tôc. Nghĩa là, họ cũng
chính là lại đại biểu trung thành cho lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân lao động và cho
cả dân tộc.
Bên cạnh khẳng định đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của
GCCN Việt Nam nên họ là bộ phận của GCCN, nhưng trong khẳng định đó cũng cho
phép ta hiểu được rằng, họ không những không lẫn lộn và phân biệt với toàn bộ giai
cấp, với đông đảo quần chúng lao động mà trái lại, họ còn phải được phân biệt một
cách rành mạch, rạch ròi với bộ phận còn lại của giai cấp, với tất cả quần chúng lao
động ngoài Đảng. Ranh giới phân biệt giữa Đảng và ĐNĐV của Đảng với GCCN và
tất cả quần chúng lao động khác chính tính tiên phong của Đảng, tiên phong cả trong
nhận thức lý luận và trong hành động thực tiễn, mà bất cứ quần chúng lao động nào,
dù những quần chúng đó có ưu tú, tích cực đến mấy cũng chưa thể có được. Từ đó, ta
có thể khẳng định rằng, nếu có ai đó đã mang danh hiệu đảng viên mà thiếu, thậm chí

không có tính tiên phong như đã nói thì không thể coi là một đảng viên cộng sản thực
chất được.
Theo quan điểm C.Mác và Ph. Ăngghen như đã phân tích các phần trên đây cho
thấy, đảng viên cộng sản do được trang bị lý luận cách mạng tiên phong của chủ nghĩa
xã hôi khoa học, nên họ đã tự xác lập được một trình độ giác ngộ cao về lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa với ý thức giai cấp rõ ràng, họ có đủ kiến thức và trình độ để nắm vững
quy luật khách quan, thấu hiểu đầy đủ tiến trình của cách mạng, nên trong thực tiễn họ
hành động rất kiên quyết, họ luôn ra sức tuyên truyền, vận động, cỗ vũ, lôi cuốn, thức
tĩnh và tổ chức đông đảo quần chúng công nhân và toàn thể nhân dân lao động cùng
nhận thức và hành động vì sự nghiệp cách mạng chung.
Do vậy, đã là đảng viên cộng sản thì trước tiên họ phải là những người tiên
phong về lý luận. Chính điều này mà V.I.Lênin, Người bảo vệ, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác, sáng lập nên đảng vô sản kiễu mới của GCCN, đã đặc biệt

quan tâm vấn đề lý luận trước khi thành lập Đảng, V.I.Lênin viết: “Không có lý luận
cách mạng thì cũng không có phong trào cách mạng”[46,tr.30]. “Chỉ đảng nào được
một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền
phong”[46,tr.32]. Chỉ khi đảng viên có đủ trình độ lý luận tiên phong, có giác ngộ lý
tưởng cách mạng thật sự thì họ mới có khả năng và quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cao
cả, họ mới có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín vận động, cổ vũ, thức tỉnh, lôi cuốn và
lãnh đạo được quần chúng, và khi đó họ mới có thể “Phổ biến trong quần chúng công
nhân cái ý nghĩa ngày càng sáng rõ đã đạt được bằng cách đó”[46,tr.34].
Đảng viên thiếu lý luận tiên phong sẽ không đủ sức vận động, giáo dục thức tỉnh
quần chúng và sự nghiệp cách mạng cũng sẽ không đi đến đâu. Bởi lẽ, quần chúng khi
chưa được tuyên truyền, giáo dục, thức tĩnh từ những người đảng viên cộng sản tiên
phong thì họ không thể tự ý thức, hiểu biết và cùng quyết tâm thực hiện nhiện vụ cách
mạng mà Đảng đề ra được. V.I.Lênin đã tổng kết: “Lịch sử tất cả các nước chứng thực
rằng, chỉ do lực lượng của độc bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi
đến ý thức công liên chủ nghĩa”[46,tr.38]. Nghĩa là, muốn cho sự nghiệp cách mạng đi
đến đích phải được tuyệt đại bộ phận quần chúng lao động đồng tình ủng hộ và đi đến
thống nhát ý chí và quyết tâm cùng với Đảng hành động cách mạng. Muốn được vậy,
không cách nào khác là đảng viên của Đảng “Phải chú ý đến việc nâng cao trình độ

công nhân lên trình độ những người cách mạng”[46,tr.173]. “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa
dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm
vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau gữa đội tiên phong và tất cả quần chúng
hướng theo đội tiên phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiên phong có nghĩa vụ
thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến
ấy”[48,tr.289, 290].
Từ những trình bày trên đây đủ cho thấy, điểm đầu tiên trong tiêu chuẩn đảng
viên mà Điều lệ Đảng xác định: đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách
mạng trong đội tiên phong của GCCN Việt Nam đã xác định một cách rõ ràng, đầy đủ
những yêu cầu căn bản cả về phẩm chất và năng lực cần hội đủ của người đảng viên
ĐCSVN hiện nay: họ phải vừa đứng vững trong lập trường GCCN, mang bản chất

GCCN, đại biểu trung thành cho lợi ích GCCN, nhân dân lao động và cho cả dân tộc;
đồng thời, họ “không được lẫn lộn…với toàn bộ giai cấp”, với đông đảo các tầng lớp
quần chúng lao động, họ phải được phân biêt một cách rõ ràng bằng chính vai trò tiên
phong của mình trên cả lĩnh vực nhận thức lý luận và hành động thực tiễn. Họ phải là
những người có đủ lý luận tiên tiến nhất, giác ngộ lý tưởng cách mạng cao nhất và ý
thức giai cấp thật rõ ràng; trong hành đồng thực tiễn họ phải luôn chứng tỏ là những
người đi đầu và kiên quyết nhất; họ có trách nhiệm lôi cuốn và tổ chức quần chúng
cùng hành động vì sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.
Cho nên, đây cũng chính là tiêu chí căn bản, chung nhất làm căn cứ phân biệt
đảng viên với tất cả quần chúng lao động ưu tú ngoài Đảng và cũng là căn cứ chủ yếu,
làm cơ sở khoa học để các tổ chức đảng tiến hành các mặt công tác đảng viên như:
kiểm tra, đánh giá, phân loại, phân tích chất lượng từng đảng viên và cả ĐNĐV; làm
mục tiêu, phương hướng bồi dưỡng, giáo duc, rèn luyện, sàng lọc và phát triển đảng
viên mới; đó còn là chuẩn mực để cho từng đảng viên của Đảng làm mục tiêu tự phấn
đấu, tự bồi dưỡng, rèn luyện sao cho xứng đáng danh hiệu đảng viên; ngoài ra đây
cũng chính là mục tiêu, phương hướng để quần chúng ưu tú, tích cực ngoài Đảng tự
phấn đấu và rèn luyện để có thể được các tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng.
Qua tất cả những điều vừa phân tích và trình bày cùng với sự nghiên cứu đầy đủ,
thấu đáo tất cả các nội dung cụ thể còn lại được xác định trong tiêu chuẩn đảng viên
cho ta hiểu rằng, tất cả các nội dung yêu cầu cụ thể của tiêu chuẩn đảng viên có mối

quan hệ ràng buộc, phụ thuộc, tác động lẫn nhau thành một hệ thống thống nhất không
tách rời và không thể thiếu bất cứ nội dung cụ thể nào. Trong đó, điều đặc biệt quan
trọng chính là ta đã xác định được rằng, trong tổng thể hệ thống các nội dung yêu cầu
của tiêu chuẩn đảng viên, nội dung đầu tiên vừa phân tích đầy đủ, kỹ càng trên đây
chính là nội dung yêu cầu vừa có tính chất tiền đề đồng thời cũng chính là nội dung cốt
lõi, trọng tâm nhất trong hệ thống các nội dung của tiêu chuẩn đảng viên. Đây chính là
nội dung có tính quyết định, chi phối tất cả các nội dung yêu cầu còn lại trong toàn bộ
hệ thống các nội dung của tiêu chuẩn đảng viên.
Chúng ta có thể chứng minh những điều vừa khẳng định trên đây bằng một

phương pháp suy loại rất đơn giản. Chẳng hạn, chúng ta sẽ không thể tìm đâu ra được
bất cứ người nào mang danh hiệu đảng viên của Đảng khi mà họ chưa có được trình độ
nhận thức lý luận nhất định về CNMLN, TTHCM và Đảng ta; chưa có một mức độ
giác ngộ chính trị, ý thức giai cấp rõ ràng và thiếu niềm tin vào mục đích lý tưởng của
Đảng, nghĩa là chưa xác định được ở họ một tính tiên phong rõ rệt cả về nhận thức lý
luận và hành động thực tiễn, mà lại có thể là những người thực sự tự giác, tự nguyện
và tự ý thức “suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân” được.
Theo đó, họ cũng không thể là người có ý thức tốt trong việc “chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước”; và đương nhiên, họ cũng sẽ không thể là những người có tinh thần, ý thức và
trách nhiệm cao trong việc họ phải là người tự thấy có trách nhiệm phải: hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, là người có đạo đức và lối sống lành mạnh, luôn gắn bó mật
thiết với nhân dân và đặc biệt họ cũng sẽ không thể là những người nghiêm chỉnh
“phục tùng tổ chức kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng” đúng
như yêu cầu mà các nội dung cụ thể của tiêu chuẩn đảng viên đã xác định. Nói cách
khác, hệ thống các yêu cầu căn bản, đầy đủ trong tiêu chuẩn đảng viên chỉ có thể được
đảm bảo ở mức độ nhất định trước hết đối với những đảng viên thực sự tiên phong,
thực sự giác ngộ chính trị và thực sự có niềm tin vào mục đích lý tưởng của Đảng. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không được quên rằng, chỉ riêng có nhận thức lý luận, dù có tiên
phong mấy đi nữa thì đó cũng chỉ có ý nghĩa làm tiền đề, làm điều kiện cần để có thể
tạo ra cho người đảng viên của Đảng tự hình thành và xác lập cho mình một trình độ

giác ngộ cách mạng. Nó còn phải được thể hiện chính bằng hành động cách mạng
trong thực tiễn của mỗi đảng viên, qua đó chứng tỏ đã thực sự giác ngộ chính trị, ý
thức giai cấp, lòng trung thành vì mục đích lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của toàn
dân. Chỉ khi nào đảng viên đã thực sự giác ngộ chính trị, thực sự tin tưởng và có ý
thức phấn đấu suốt đời vì mục đích lý tưởng của Đảng thì khi đó mới có thể khẳng
định đảng viên đã hoàn toàn đáp ứng đầy đủ tư cách và xứng với danh hiệu đảng viên
cao quý.

Cũng tại điều 1 Điều lệ Đảng này, Đảng ta không quên xác định điều kiện cơ
bản cần phải hội đủ của một quần chúng tích cực có thể được xét công nhận là đảng
viên ĐCSVN, Điều lệ Đảng ghi rõ:
Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: Thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú,
được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét kết nạp vào Đảng [40,tr.7].
Theo quy định này, tổng thể các điều kiện mà quần chúng có thể được xét kết
nạp vào ĐCSVN phải bao gồm:
- Một là, người đang phấn đấu vào Đảng phải là: Công dân Việt Nam từ mười
tám tuổi trở lên. Nghĩa là những người phải có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một
công dân Việt Nam được hiến pháp Việt Nam hiện hành công nhận; có quốc tịch Việt
Nam và tại thời điểm chi bộ xét kết nạp họ ít nhất phải tròn mười tám tuổi đúng như
tinh thần hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương:
1.1 -"Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên"
a) Công dân Việt Nam: là những người có quốc tịch Việt Nam.
b) Từ mười tám tuổi trở lên: là những người tại thời diểm chi bộ xét kết nạp
đã tròn mười tám tuổi trở lên (tính theo tháng, năm sinh)
[13,tr.97]
- Hai là, người đang phấn đấu vào Đảng phải: Thừa nhận và tự nguyện: Thực
niện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó có nghĩa hiện nay, những người có thể được xét
kết nạp vào Đảng: một mặt, họ phải am hiểu một cách thấu đáo, tường tận; quán triệt
một cách đầy đủ, chuẩn xác và đi đến hoàn toàn nhất trí với những nội dung, yêu cầu

của Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên được xác
định trong các văn kiện và Điều lệ của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX;
đồng thời một mặt khác, trên cơ sở nhận thức, sự nhất trí đồng tình và thừa nhận đó,
họ còn phải chứng tỏ sự tự nguyện, quyết tâm phấn đấu để thực hiện nghiêm chỉnh,
đúng yêu cầu, nội dung của Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ, tiêu chuẩn

đảng viên, mà sự thể hiện trước tiên chính ngay trong qúa trình phấn đấu thực hiện các
NVCT tại địa phương, đơn vị mà họ đang được các tổ chức chính trị-xã hôị giao cho,
sự thể hiện cụ thể như mức độ tích cực, làm nồng cốt trong các phong trào hành động
cách mạng của quần chúng ở địa phương, đơn vị, trong công tác xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền và các tổ chức Mặt trận, đoàn thể ở cơ sở và nhất là tỏ rõ sự tự
nguyện, tự giác ra sức phấn đấu rèn luyện mọi mặt để nhanh chóng có đủ điều kiên,
tiêu chuẩn, qua đó được các tổ chức đảng xem xét và công nhận đảng viên.
- Ba là, qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.
Trong điều kiện này, ta thấy nội dung trước tiên mà người đang phấn đấu vào
Đảng phải đảm bảo đó là: Toàn bộ quá trình rèn luyện, phấn đấu của họ phải được
biểu hiện thực chất thông qua hoạt động thực tiễn, được kiểm nghiệm trong thực tiễn,
bởi vì thực tiễn chính là thước đo duy nhất đúng của chân lý. Chỉ khi sự rèn luyên,
phấn đấu của họ được thực tiễn kiểm nghiệm mới có thể khẳng định một cách chính
xác người đang phấn đấu vào Đảng là đã thực sự ưu tú và có đầy đủ những điều kiện
chưa, theo đó mới có thể xác định được mức độ về sự nhận thức, tự giác và tự nguyện
của họ một cách thực chất được.
Tuy nhiên, nếu chỉ được khẳng định trong thực tiễn là người ưu tú cho dù rất ưu
tú đi chăng nữa, nhưng nếu họ chưa được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ,
chưa đến mức được nhân dân thực sự tín nhiệm thì tổ chức đảng cũng chưa vội xét kết
nạp họ vào Đảng. Bởi lẽ, khi họ chưa được quần chúng, nhất là những quần chúng
sống gần gũi, hiểu biết họ đầy đủ, thực chất nhất mà chưa tín nhiệm họ thì điều đó
cũng đủ khẳng định: ít nhất quá trình phấn đấu vào Đảng của họ là chưa thể xác định
được tính đúng đắn một cách hoàn toàn và thực chất, nhất là chưa thể xác định chính
xác về động cơ, mục đích phấn đấu của họ là đã thật sự rõ ràng, theo đó, cũng chưa thể
nói họ phấn đấu vào Đảng là hoàn toàn vì mục đích lý tưởng cao cả của Đảng, vì lợi
ích chính đáng của tuyệt đại quần chúng lao động, vì hạnh phúc của toàn dân được.

Cho nên, nếu kết nạp họ vào Đảng ngay lúc này thì việc lợi cho Đảng chưa thấy rõ
nhưng điều bất lợi, thậm chí có hại cho Đảng là trông thấy, là tất yếu. Nghĩa là, ít nhất
sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tạo ra khả năng làm giảm sức mạnh

của từng tổ chức đảng và nếu xảy ra một cách phổ biến trên diện rộng sẽ có thể dẫn
đến làm giảm sức mạnh cuả toàn Đảng. Bởi lẽ rất dễ hiểu là, khi được quần chúng ủng
hộ, tín nhiệm thì Đảng mới mạnh, nếu ngược lại, đương nhiên không thể tránh khỏi
làm cho Đảng suy yếu. Cũng chính lý do này mà V.I.Lênin thường nhắc nhở: “Quần
chúng lao động ủng hộ chúng ta. Sức mạnh của chúng ta là ở đó. Nguồn gốc khiến cho
chủ nghĩa cộng sản vô địch cũng là ở đó”[54,tr.258].
Từ tổng thể những phân tích và trình bày trên đây có thể cho phép ta khẳng định
rằng: ĐNĐV của Đảng Cộng sản chân chính nói chung và ĐNĐV của ĐCSVN nói
riêng, là tập hợp những chiến sỹ cách mạng tiên tiến, ưu tú nhất, giác ngộ nhất và kiên
quyết nhất trong đội tiên phong có tổ chức chặt chẽ nhất của GCCN, đứng vững trên
lập trường GCCN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN và toàn thể nhân dân lao
động. Suốt đời phấn đấu, hy sinh cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, lý tưởng của Đảng,
vì hạnh phúc của nhân dân. Họ là những tấm gương sáng, tiêu biểu trước quần chúng
trong các phong trào hành động cách mạng, họ có trách nhiệm vận động, thuyết phục,
giáo dục, cổ vũ, thức tĩnh, lôi cuốn và tổ chức quần chúng cùng hành động vì sự
nghiệp cách mạng chung, đấu tranh xoá bỏ chế độ xã hội cũ tư sản dựa trên sự đối
kháng giai cấp, sự áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mới tự do, ấm no,
hạnh phúc, không còn áp bức, bất công và đối kháng giai cấp.
Từ nhận thức đó, liên hệ đến các đảng bộ các xã ở An Giang ta sẽ dễ dàng có thể
hiểu được rằng, ĐNĐV đang hoạt động tại các đảng bộ cơ sở ở các xã này cũng chính
là những chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong chính trị có tổ chức chặt chẽ nhất
của GCCN Việt Nam, họ là những đại biểu tiên tiến, ưu tú nhất được tuyển lựa chủ
yếu từ các tầng lớp quần chúng lao động của các xã trong tỉnh An Giang mà đa số là
nông dân. Họ đã được giác ngộ lý tưởng cộng sản, thế giới quan và phương pháp luận
khoa học của CNMLN, TTHCM và Đảng ta; họ đã được quán triệt và có ý thức chấp
hành nghiêm chỉnh những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, tự rời bỏ lập trường giai cấp xuất thân, nguyện đứng vào hàng
ngũ của Đảng; có ý thức, trách nhiệm trong việc giữ vững và kiên định lập trường

GCCN; chịu sự quản lý, giám sát của các tổ chức đảng ở cơ sở, quyết tâm phấn đấu

suốt đời vì mục đích, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Hiện nay, họ đã và đang có trách nhiệm, ra sức phấn đấu hết mình thực hiện
nhiệm vụ mà tổ chức, đơn vị phân công, ra sức tuyên truyền giáo dục, thuyết phục cổ
vũ, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các đảng bộ, chi bộ xã, ấp mình quyết tâm “Đẩy
nhanh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nông nghiệp, nông thôn”, góp
phần xứng đáng vào sự thành công CNH, HĐH toàn diện tỉnh An Giang, hoà vào sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH cả nước, hy vọng đến năm 2020 nước ta trở
thành nước công nghiệp phát triển cất cánh như nhận định của Đảng trong các nghị
quyết gần đây.
Như vậy một mặt, ĐNĐV ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang phải luôn có trách
nhiệm giữ vững và kiên định lập trường GCCN, phấn đấu để xứng đáng là đại biểu
trung thành lợi ích của công nhân, nông dân và toàn thể nhân dân lao động ở các xã
đó. Mặt khác, họ có trách nhiệm phải ra sức rèn luyện mọi mặt để có thể đảm bảo
phân biệt và không lẫn lộn với quần chúng cả về nhận thức và hành động. Trước hết
họ phải là những người luôn có ý thức phấn đấu, tự bồi dưỡng, rèn luyện mọi mặt để
luôn có được nhận thức lý luân tiên phong nhất, ý thức giác ngộ cao về giai cấp, về lý
tưởng cộng sản và hành động gương mẫu, kiên quyết nhất, qua đó có đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín tuyên truyền, vận động, giáo dục, thức tỉnh, lôi cuốn, tổ chức và
lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động tại đơn vị, cơ sở xã, ấp mình cùng quyết tâm
thống nhất một lòng ra sức thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tại
các xã ở An Giang. Đồng thời, họ không để hạ thấp trình độ của Đảng, của người đảng
viên xuống ngang trình độ quần chúng bình thường mà phải làm ngược lại như lãnh tụ
V. I. Lênin đã từng nhắc nhở “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp” và “đội tiên phong có nghĩa vụ thường xuyên
phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến” [48].


1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang
hiện nay


Trước tiên ta cần nhận thức rằng, tất cả các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) cấp xã
nói chung và từng đảng bộ cơ sở ở các xã tỉnh An Giang nói riêng đều có vị trí là
những tổ chức nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị, là đơn vị chiến đấu trực tiếp
của Đảng, có trách nhiệm làm chiếc cầu nối liền giữa Đảng và quần chúng nhân dân
của các xã ở đó. Nghĩa là, các tổ chức đảng này được Đảng mà cụ thể là Đảng bộ tỉnh
An Giang giao trách nhiệm thay mặt Đảng bộ trực tiếp liên hệ với đông đảo quần
chúng nông dân trong toàn tỉnh. Theo đó, các TCCSĐ ở đây có vai trò là những đơn vị
cơ sở có trách nhiệm trực tiếp tiếp thu tất cả những thông tin về những tâm lý, tình
cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của tuyệt đại bộ phận quần chúng nhân dân ở các
xã, trực tiếp nghiên cứu, khảo sát tiếp thu, nắm bắt thực trạng tình hình mọi mặt đời
sống kinh tế-xã hội tại các địa bàn nông thôn của tỉnh. Qua đó, họ có vai trò là những
đơn vị cơ sở phản ánh kịp thời tất cả những thông tin đã tiếp nhận được lên các cơ
quan lãnh đạo cấp trên của Đảng. Đồng thời, cũng chính các tổ chức dảng này có vai
trò là những người quán triệt, tiếp thu tất cả những quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính
quyền các cấp và biến chúng thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng
tại các cơ sở đó, làm cho chúng được thực thi trong thực tiễn. Cũng đồng thời trong
qúa trình đưa chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước các cấp đi vào
cuộc sống đó, các tổ chức đảng này còn có trách nhiệm trực tiếp truyền đạt đến quần
chúng nhân dân xã mình những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước các cấp. Bên cạnh đó, các tổ chức đảng ở đây còn có
trách nhiệm trực tiếp triển khai, thực hiện tất cả các mặt công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng ĐNĐV tại các đảng bộ xã mình theo chức năng, nhiệm vụ do Điều lệ
Đảng quy định, do các cấp uỷ cấp trên giao cho; các đảng bộ cơ sở này còn là một
trong những nguồn cung cấp quan trọng về đội ngũ cán bộ đã được đào luyện kỹ năng
lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước các cấp.
Trên cơ sở xác định rõ vị trí và vai trò của các đảng bộ các xã tỉnh An Giang như
trên, cho phép ta có thể dễ dàng xác định một cách chuẩn xác vị trí và vai trò cụ thể
của ĐNĐV đang hoạt động ở các đảng bộ xã này như sau:
- Một là, từng đảng viên với tư cách là những người được tổ chức đảng phân

công thực hiện các nhiệm vụ được giao, trực tiếp liên hệ với quần chúng nhân dân,

trực tiếp tiếp thu và xử lý tất cả những thông tin về mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội,
về những nhu cầu bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng và hợp pháp của tuyệt đại
bộ phận nhân dân nơi địa bàn mình phụ trách. Qua đó, họ phản ánh, báo cáo trực tiếp
với chi bộ, đảng bộ cơ sở những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác, từng
đảng viên với tư cách là những người được tổ chức đảng phân công, thay mặt tổ chức
đảng nghiên cứu, tiếp thu và quán triệt toàn bộ những quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Như vậy, tất cả
những công việc cụ thể như: tiếp thu và xử lý những thông tin về thực trạng tình hình
kinh tế xã-hội, về tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và phản ánh đến lãnh đạo Đảng
và Nhà nước các cấp đúng đắn như thế nào; việc quán triệt, tiếp thu tất cả các thông tin
về lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn của Đảng và chính quyền các cấp trên, xử lý và
truyền đạt những tiếp thu đó về địa phương, đơn vị mình có hiệu quả đến mức độ
nào…tất cả những công việc đó đều được quyết định bởi chính năng lực hoạt động
thực tiễn của ĐNĐV ở tại các đảng bộ, chi bộ của các xã đó.
- Hai là, ĐNĐV là người trực tiếp biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước các cấp thành hiện thực.
- Ba là, ĐNĐV ở đây không chỉ có trách nhiệm tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo,
hướng dẫn, tuyên truyền, vận động, cỗ vũ thức tĩnh và lôi cuốn quần chúng tham gia
các hoạt động cách mạng mà còn thể hiện vai trò hành động tiên phong, gương mẫu
của mình trước quần chúng, bằng việc xung kích, đi đầu trong tất cả các phong trào
cách mang của quần chúng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với ĐNĐV hoạt động ở
các xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi, nơi mà đa số quần chúng lao động
đời sống còn rất nhiều khó khăn, trình độ nhiều mặt còn rất thấp, nhận thức các vấn đề
chủ yếu bằng tư duy kinh nghiệm, tư duy cụ thể, bằng cách trực tiếp làm theo người
hướng dẫn.
- Bốn là, ĐNĐV một mặt, có trách nhiệm trực tiếp tham gia tất cả các mặt công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng các đơn vị, cơ sở; ĐNĐV trực tiếp tham gia
sinh hoạt chi bộ, đấu tranh thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của

Đảng như: nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê
bình và phê bình; giữ nghiêm kỷ luật Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng. Mặt khác, họ còn phải có trách nhiệm trực tiếp tham gia các mặt công tác đảng

viên như: phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên; quản lý, kiểm tra, phân
tích chất lượng đảng viên; tham gia xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh;
tổ chức vận động quần chúng đóng góp, tham gia xây Đảng, xây dựng chính quyền và
các tổ chức mặt trận đoàn thể nhân dân. Vận động, tổ chức, tạo mọi điều kiện thuận lợi
để quần chúng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, phát huy đầy
đủ quy chế dân chủ ở cơ sở cấp xã, đấu tranh có hiệu quả với các hiện tượng sai trái,
tiêu cực, lãng phí, quan liêu tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, ĐNĐV, nhất là những
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở cơ sở.
- Năm là, ĐNĐV thay mặt tổ chức đảng, tổ chức chính quyền và nhân dân đề
xuất những ý kiến, đề đạt những nguyện vọng của cơ sở lên các cấp có thẩm quyền.
Căn cứ những ý kiến và nguyện vọng đó, các cơ quan Đảng và Nhà nước cấp trên kịp
thời bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp.
- Sáu là, ĐNĐV ở đây là những người hoạt động ở cơ sở, hằng ngày đối mặt
với những diễn biến sinh động, phức hợp đa chiều của cuộc sống; trực tiếp tiếp xúc với
mọi tầng lớp nhân nhân nên họ nhanh chóng tích lủy được nhiều kinh nghiệm quý giá,
nhất là những kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, kinh nghiệm nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là nông dân. Do vậy, họ là những người giàu kinh
nghiệm lãnh đạo, tổ chức, vận động quần chúng nông dân tham gia các phong trào
cách mạng ở nông thôn An Giang. Mặt khác, do được đào luyện trong thực tiễn công
tác ở cơ sở, nên họ cũng nhanh chóng trưởng thành về nhiều mặt, tạo ra nguồn cán bộ
dồi dào cung cấp cho các cơ quan Đảng và Nhà nước ở cấp trên.
Do ĐNĐV ở các Đảng bộ xã tỉnh An Giang có vị trí và vai trò rất quan trọng
như đã nêu trên, cho nên một trong những nội dung đặc biệt quan trọng công tác xây
dựng Đảng ở các đảng bộ các xã ở đây là xã phải thường xuyên NCCLĐNĐV lên
những tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.1.3. Đặc điểm của đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang

Tổng số đảng viên (ĐV) của toàn tỉnh An Giang vào cuối năm 2003 là 26.344
ĐV, chiếm tỷ lệ 1,238% dân số và đến giữa năm 2004 là 27.151 ĐV chiếm 2,28% dân
số [8]. Đây là một tỉ lệ khá lý tưởng xét về mặt số lượng ĐV đối với một tỉnh nông
nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long, điều kiện tự nhiên vừa có măt thuận lợi lại xen lẫn
không ít những khó khăn, nhất là khu vực nông thôn như trên đã nêu, đặc biệt lượng

ĐV kết nạp từ sau 1975 luôn chiếm gần 90% tổng số ĐV toàn tỉnh (điển hình, năm
1998 đảng viên tuổi đời từ 50 trở lên là 1.935 ĐV, lúc này ĐV toàn tỉnh là 16.586 ĐV
(xem phụ lục 7).).
Năm 3003 An Giang có: 6.111 ĐV nữ, chiếm 23,19% tổng số ĐV của tỉnh, đến
giữa năm 2004 lượng nữ ĐV lên đến 6.411 ĐV, chiếm 23,61% tổng số ĐV của tỉnh.
Tỉ lệ này tuy còn thấp so với mong muốn nhưng cũng không đến nỗi quá ít. Điều đáng
lưu ý là sắp tới rất có thể sẽ không duy trì được mức này, bởi thực tế gần đây cho thấy,
phát triển mới đảng ĐV nữ sẽ khó khăn, có dấu hiệu xu hướng giảm (năm 2003 phát
triển 712 ĐV nữ, trong khi đến đến cuối tháng 6/2004 chỉ phát triển được 226 ĐV nữ)
(xem phụ lục 8).
Về sồ lượng ĐV dân tộc còn khá thấp so với yêu cầu: năm 2003 có 472 ĐV
chỉ chiếm 1,75% tổng số ĐV toàn tỉnh và đến giữa năm 2004 chỉ còn 444 ĐV chiếm
1,6%, bên cạnh đó, phát triển mới giảm một cách rõ rệt (trong năm 3003 phát triển
được 61 ĐV người dân tộc, thì 6 tháng đầu năm 2004 chỉ phát triển mới được 24 ĐV
là người dân tộc mà thôi) (xem phụ lục 8). Riêng ĐV là người Khmer, dân tộc ít người
đông nhất của tỉnh, cũng chỉ chiếm không quá 0,3% dân số của họ.
Đối với lực lượng ĐNĐV ở các xã, phường và thị trấn đầu năm 2003 có tổng
số là12.464 ĐV, chiếm tỉ lệ 47,31% tổng số ĐV toàn tỉnh, đến giữa năm 2004 lên đến
16.078 ĐV, chiếm 59,21% ĐV toàn tỉnh. Đầu quý IV năm 2003 số ĐV của các xã,
phường và thị trấn trong tỉnh đem phân tích chất lượng ĐV là 15.537 ĐV. Trong đó,
số ĐV của các xã là 11.075 chiếm 42,55% so với tổng số ĐV của toàn tỉnh, còn nếu so
với tổng số ĐV của các xã, phường và thị trấn thì tỉ lệ này là 72,28% (xem phụ lục 6).
Năm 2003 còn tới 8.714 ĐV có trình độ cấp II phổ thông trở xuống chiếm
33,07% so tổng số ĐV toàn tỉnh, số đảng viên này chủ yếu sống và làm việc ở các xã

nông thôn. Hiện nay, số ĐV đã được học qua chương trình cao cấp và đại học chính trị
là 2.215 ĐV chiếm 8,40% tổng số ĐV của tỉnh, trong đó đa số họ thuộc diện cán bộ
lãnh đạo chủ chốt đương chức cấp Huyện, cấp Tỉnh và một phần của cấp xã; họ theo
học chủ yếu các dạng lớp thuộc hệ tại chức và đa phần từ mười năm trở lại đây, là con
số vượt trội so với tất cả các tỉnh Đồng bằng sông Cữu Long. Còn về trình độ chuyên
môn: cao đẳng có 1.570 ĐV, chiếm 5,95%, và đại học là 3.532, chiếm 13,36% so tổng
số ĐV của tỉnh (xem phụ lục 7).

Xuất phát từ thực tế đặc thù An Giang là một tỉnh biên giới Tây Nam Bộ thuộc
Đồng bằng sông Cửu Long, khá đa dạng phức tạp về điều kiện tự nhiên, có cả những
mặt thuận lợi lớn, nhưng cũng đan xen trong đó không ít khó khăn. Cho đến nay, dù đã
có nhiều cố gắng, nhưng An Giang vẫn đang là một tỉnh nông nghiệp với trình độ phát
triển trung bình. Tất cả các xã ở đây đều là nông thôn, lao động sản xuất chủ yếu trong
lĩnh vực nông nghiệp. Công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chỉ mới ở giai
đoạn đầu, còn rất nhiều khó khăn đang ở phía trước.
Những năm gần đây, đã xuất hiện một số khá đông nông dân An Giang làm ăn
khấm khá, cá biệt đã có những triệu phú, thậm chí tỷ phú giàu có nổi tiếng cả vùng. Có
được như vậy, là nhờ sự nghiệp đổi mới đã tạo ra cơ hội cho những nông dân này tận
dụng được điều kiện thuận lợi về tự nhiên, tiền vốn, đất đai, và sự cần cù trong lao
động để trở nên giàu có. Do nhạy bén nắm bắt được thời cuộc, nhanh chóng tiếp thu
những chính sách cởi mở, đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhất là những chủ trương
về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vật nuôi, cây trồng và việc áp dụng những tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ sinh học vào đồng ruộng, cho nên đã tạo ra một phong trào thi đua sôi
nổi, làm giàu từ cây lúa, từ con cá, con tôm Hiện nay, làng cá bè ở An Giang phát
triển đến mức đã tận dụng hết những diện tích thuận lợi có thể nuôi được cá ở mặt
nước trên cả hai nhánh sông Tiền và sông Hậu chảy qua địa phận An Giang. Ngoài ra,
nông dân An Giang đã và đang tận dụng diện tích đất bãi bồi ven sông, một lợi thế mới
vừa phát hiện gần đây để đào ao nuôi cá. Đây là một loại hình nuôi cá ao mới xuất
hiện, nhưng phát triển rất nhanh trong vài ba năm trở lại đây. Bởi loại hình nuôi cá này
đang có hiệu quả chẳng những không thua kém loại hình nuôi cá bè truyền thống lâu

nay trên sông Cửu Long, mà thậm chí còn có phần vượt trội hơn, do loại hình sản xuất
này cho chất lượng cá ngon hơn, đạt năng suất cao hơn, bán được gía, chi phí sản xuất
lại thấp, đầu tư vốn ban đầu nhẹ, thuận lợi hơn nhiều so với nuôi cá bè truyền thống,
nên đã tạo ra cơ hội cho nhiều người tuy chỉ có vốn nhỏ nhưng cũng có thể nuôi cá với
quy mô khá lớn và thu lợi nhuận cao.
Trên đây là những biểu hiện phát triễn kinh tế rất quý và đáng mừng đối với
một bộ phận nông dân An Giang. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn khá đông quần chúng
lao động ở các xã đều là người nông dân, kỹ thuật và năng suất lao động thấp, trình độ
dân trí chưa cao, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận khá đông nông dân

còn nhiều hạn chế. Nhìn chung đời sống nông dân An Giang vẫn còn đang khá khiêm
tốn, nhất là đời sống nông dân ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, tôn giáo, khu
biên giới, cửa khẩu, vùng núi và khu kháng chiến cũ.
Với những đặc điểm nổi bật đó của người nông dân An Giang, đã tác động
mạnh vào ĐNĐV thuộc các đảng bộ xã ở đây trên một số điểm chủ yếu như sau:
- Một là, ĐNĐV ở đây hầu hết được rèn luyện và trưởng thành trong phong
trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở, nhất là nông dân các xã của tỉnh An Giang.
Dù họ được phân công công tác trong tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn
thể hay ở các tổ chức kinh tế, văn hoá và xã hội ở cơ sở, nhưng tất cả họ đều có những
điểm rất chung là: đều sinh ra, lớn lên chủ yếu ở nông thôn; cuộc sống của họ gắn bó
chặt chẽ với thôn ấp, bản làng, có sự ràng buộc khá chặt chẽ bởi quan hệ họ hàng
quyến thuộc. Vì vậy, họ là những người nắm rất vững tâm tư nguyện vọng của nhân
dân lao động ở các xã, nhất là nông dân. Thông qua sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ ở
đó, họ thực sự là những chiếc cầu trực tiếp nối liền Đảng với dân, giữa TCCSĐ với các
cấp trên của Đảng. Đó cũng là một trong những cơ sở khách quan để họ có thể thực sự
trở thành những đại biểu trung thành lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động sống ở
nông thôn An Giang.
- Hai là, do họ trưởng thành trực tiếp từ thực tiễn, nhất là ở những vùng, khu
vực đặc biệt khó khăn, nên ít được đào tạo qua trường lớp một cách bài bản và có hệ
thống, và lại do họ xuất thân từ nông dân nên trình độ nhận thức của họ nhìn chung là

thấp; cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề thường không sâu; phương pháp nhận thức và
hành động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, nên hiệu quả công tác không cao, tính thuyêt
phục của công tác tư tưởng thấp. Có thể nói, cả trình độ học vấn, trình độ lý luận chính
trị, chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận khá đông đảng viên ở đây nhìn chung là
hạn chế, còn một khoảng cách khá xa mới có thể đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
- Ba là, ĐNĐV ở đây phần đông vào Đảng từ sau năm 1975. Chỉ còn một số
đảng viên trưởng thành trước năm 1975, còn tham gia sinh hoạt đảng và sinh sống ở
đây. Nếu các đảng bộ xã ở An Giang còn quá ít đảng viên cao tuổi đời, nhiều tuổi đảng
thì ngược lại, ở các đảng bộ thị trấn, phường, ven đô số đảng viên cao tuổi hoặc đã
nghỉ hưu khá đông. Với thực tế đó tạo cho các đảng bộ các xã ở An Giang vừa có

×