Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT LỊCH sử ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM VAI TRÒ của mặt TRẬN VIỆT MINH TRONG đấu TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.4 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta
là Đảng đã xây dựng được khối đoàn kết dân tộc vững chắc trên cơ sở khối
liên minh công nông. Trong CM DTDCND, Mặt trận Việt Minh có vai trị to
lớn trong đấu tranh giành chính quyền tháng 8/1945 và bảo vệ thành quả Cách
mạng Tháng Tám. Thực tiễn xây dựng Mặt trận Việt Minh đã để lại cho ta
những kinh nghiệm quý, nghiên cứu nó là cơ sở để chúng ta phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN hiện nay.
I.
Mục đích yêu cầu:
- Nhằm giúp các đồng chí nắm được quá trình ra đời, phát triển của
MTVM, vai trị trong q trình ĐT giành, giữ CQ những năm 1945 - 1946.
- Hiểu ý nghĩa và những BHKN quá trình XD MTVM, vận dụng vào XD
MTTQ giai đoạn hiện nay.
- Đấu tranh với những nhận thức, QĐ sai trái về thắng lợi của CMT8 và
hoạt động của MT.
II. Nội dung: gồm 2 phần
1. Quá trình hình thành Mặt trận Việt Minh
2. Vai trò của Mặt trận Việt Minh trong đấu tranh giành chính quyền, ý
nghĩa và bài học kinh nghiệm.
III. Thời gian: giảng 4 tiết
IV. Phương pháp:
- Thuyết trình: giảng diễn và giảng giải; kết hợp phương pháp lịch sử
và phương pháp lơgíc
- Phân tích chứng minh làm rõ nội dung
V. Tài liệu tham khảo:
1, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập 1 (1920 - 1954), Nxb
ST, HN,1981, tr 332 - 346.
2, Giáo trình LSĐCSVN, Nxb. CTQG, HN, 2001, tr. 89 – 110.
3, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 6 (1936 - 1939), Nxb CTQG, HN, 2000.


4, Văn kiện Đảng,Toàn tập, tập7 (1940 - 1945), Nxb CTQG, HN, 2000.
5. Hồ Chí Minh về Cơng tác Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb ST, HN,
1972.
6, Nguyễn Thành, Mặt trận Việt Minh, Nxb ST, HN, 1991.


7, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN,
2001.
8, Lịch sử ĐCS Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, HN, 1995, tr. 140 – 169.

NỘI DUNG
I. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH MẶT TRẬN VIỆT MINH
1. Mặt trận Việt Minh ra đời trên cơ sở “Hội phản đế đồng minh”,
hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất
- Trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao
ngọn cờ ĐLDT và CNXH, phù hợp với nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin và
xu thế thời đại đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, mở ra những khả năng rộng
lớn để tập hợp và thống nhất các lực lượng yêu nước của toàn thể dân tộc.
+ Xác định mục tiêu con đường cách mạng Việt Nam phải đạt tới đó là
CNXH, CNCS.
+ Cương lĩnh xác định lực lượng tiến hành cách mạng là phải lấy liên
minh cơng nơng làm động lực chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo: “công
nông là gốc CM, học trị, nhà bn điền chủ nhỏ là bầu bạn của CN”.
+ Ngồi cơng nơng, Đảng cịn phải tranh thủ các giai cấp, tầng lớp có
tinh thần dân tộc, phân hố, cơ lập những phần tử chống cách mạng: “Đảng
phải hết sức liên lạc với TTS, trí thức, trung nơng (Thanh niên, Tân Việt, phái
Nguyễn An Ninh...), để kéo họ về phe vơ sản giai cấp. cịn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà cha rõ mặt phản CM, thì phải
lợi dụng ít nữa làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản CM (Đảng
lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.

>>Cương lĩnh tuy vắn tắt, nhưng cũng đã vạch ra những nguyên tắc về
chiến lược và sách lược xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Những chủ trương của Đảng đã làm dấy lên cao trào cách mạng chưa
từng có: cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xơ viết Nghệ Tĩnh.
+ Khí thế của cơng nông lên cao đã thu hút nhiều tầng lớp nhân dân các
dân tộc đa số và thiểu số kể cả phú nông, địa chủ vừa và nhỏ.
+ Qua đấu tranh nhân dân ta đã khẳng định quyền lãnh đạo và năng lực
cách mạng của giai cấp công nhân, khối liên minh cơng nơng được hình thành
trên thực tế, là cơ sở để xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 đã nhận thấy
tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng Mặt trận thống nhất phản


đế, cùng với việc thơng qua Luận cương chính trị, Hội nghị cịn ra Nghị quyết
về cơng tác Mặt trận (Án nghị quyết về vấn đề phản đế).
Nội dung cở bản của Án nghị quyết về vấn đề phản đế:
+ Việc tổ chức Hội Phản đế là việc cần kíp của Đảng,
+ Phải làm cho Hội ấy có tính chất quần chúng,
+ Mục đích của Hội nhằm:
> Đồn kết lực lựơng cách mạng phản đế lại,
> Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa,
> Mưu toan việc hoàn toàn độc lập cho xứ Đơng Dương
> Bênh vực phong trào giải phóng ở các xứ thuộc địa và bán thuộc địa.
>> Tuy nhiên, đây mới chỉ là những phác hoạ cơ bản nên không tránh
khỏi những hạn chế:
+ Hạn chế:
> Chưa biết phát huy đầy đủ nhân tố dân tộc,
> Chưa đặt vấn đề tranh thủ và phân hoá tầng lớp trên đi theo cách
mạng.
> Lực lượng của Mặt trận mới chỉ bó hẹp trong các hội nơng dân, học

sinh, binh lính, thanh niên, phụ nữ.
- Kết quả: Chỉ chưa đầy một tháng sau khi “Án nghị quyết về vấn đề
phản đế”ra đời. Ngày 18/11/1930 (18 ngày sau Hội nghị TW tháng 10/1930),
Ban TVTW Đảng ra Chỉ thị thành lập “Hội phản đế đồng minh” - Hình thức
đấu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
(Chỉ thị đã quán triệt được tư tưởng đoàn kết dân tộc nêu trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng, nên đã đề ra tương đối toàn diện những nội dung cơ
bản về tình chất, nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể xây dựng Hội phản đế
đồng minh):
+ Về nguyên tắc xây dựng Hội, bản chỉ thị xác định:
> Phải bảo đảm tính chất cơng nơng, đồng thời phải mở rộng tới các
thành phần trong dân tộc để Mặt trận thật sự là của toàn dân.
> Chỉ thị cịn nhấn mạnh: “Giai cấp vơ sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư
sản dân quyền ở Đông Dương mà khơng tổ chức tồn dân lại thành một lực
lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng khó thành công” (VKĐ: Về Mặt
trận dân tộc thống nhất, Nxb ST, HN, 1971, tr 23).


Đặc biệt, Chỉ thị đánh giá đúng đắn sự chuyển biến về thái độ chính trị
của các giai cấp, tầng lớp xã hội đã được thử thách qua cao trào cách mạng
1930 - 1931, cho thấy:
> Ngoài hai giai cấp cơ bản trung kiên là: công nhân và nông dân, cịn có các
tầng lớp xã hội khác có xu hướng cách mạng rõ rệt được thử thách qua khủng bố
trắng của kẻ thù đó là: tầng lớp trí thức, sĩ phu yêu nước, một số trung tiểu địa
chủ, phú nông, trung nông hạng trên, giai cấp tư sản nhỏ tỏ ra kính trọng và ủng
hộ, theo cách mạng.
> Vì vậy, Đảng phải biết tranh thủ các lực lượng đó vào Mặt trận, đứng vào
hàng ngũ chống đế quốc Pháp.
+ Bản chỉ thị ra đời đánh dấu sự trường thành về nhận thức và chỉ đạo
thực tiễn của Đảng trong quá trình xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.

Hạn chế:
> Tuy nhiên, lúc này cách mạng nước ta bước vào thời kỳ thoái trào, bị
địch khủng bố hết sức dã man.
> Do đó, bản chỉ thị này chưa được phổ biến sâu rộng và chưa có điều
kiện triển khai thực hiện trong cả nước.
> Mặt khác, do một số đảng viên chưa nhận thức được sâu sắc tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc … vì thế “Hội phản đế đồng minh” chưa hình thành trên
thực tế.
- Qua thời kỳ đấu tranh khôi phục và phát triển phong trào cách mạng
những năm 1932 - 1935, Đảng ta đã rút được bài học về sự cần thiết phải xây
dựng lực lượng cách mạng rộng rãi hơn. Mặt khác xứ Đông Dương đang
đứng trước những thuận lợi mới cho phong trào cách mạng.
+ Tình hình thế giới và trong nước trong những năm 1936 - 1939: phong
trào chống phátxít, chống chiến tranh sơi nổi, đặc biệt là tình hình Mặt trận
dân chủ chống phátxít ở nước Pháp có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách
mạng nước ta.
+ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7/1936 xác định:
> Mục tiêu chủ yếu và trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu
tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến tranh, địi tự
do dân chủ, cơm áo và hồ bình.
> Đảng quyết định tạm thời khơng nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp
và giai cấp địa chủ, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày.


Để đáp ứng nhiệm vụ trên,
> Đảng chủ trương thành lập: Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương
nhằm: tập hợp đông đảo quần chúng công nông và các tầng lớp nhân dân, tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất là đế quốc Pháp hiếu
chiến phản động, đòi những quyền dân chủ đơn sơ.
> Tuy nhiên, cịn nhiều tầng lớp nhân dân khác chống phátxít vẫn chưa

tranh thủ được, chưa hình thành một tổ chức thống nhất trong toàn quốc.
+ Đến tháng 3/1938, Đảng quyết định:
> Đổi tên Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận
thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
>Thành phần Mặt trận rộng rãi bao gồm: tất cả các tầng lớp, các đảng
phái, tôn giáo tán thành đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai,
kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương và bắt tay với các đảng phái
cải lương nhằm tập hợp rộng rãi lực lượng chống chủ nghĩa phátxít và chính
sách cai trị phát xít của Pháp ở Đơng Dương.
> Đảng sử dụng nhiều hình thức tổ chức như: thanh niên dân chủ, phụ nữ
dân chủ …kể cả những hình thức đơn sơ như: hội cấy, hội cày, hội lợp nhà …
> Hình thức đấu tranh đa dạng, phong phú như: công khai hợp pháp, nửa
cơng khai hợp pháp kết hợp với các hình thức đấu tranh và tổ chức bí mật.
>>Nhờ có chủ trương đúng đắn và cách thức tổ chức phù hợp cho nên
Đảng đã phát động được cao trào cách mạng của quần chúng rộng rãi, mở
rộng địa bàn hoạt động, lực lượng cách mạng được tăng cường, làm cho kẻ
thù bị cơ lập, phân hố và suy yếu.
>Phong trào đấu tranh cơng khai phát triển mạnh dẫn đến hình thành
Mặt trận dân chủ Đông Dương trên thực tế.
. Hạn chế công tác Mặt trận của Đảng như:
>Cách tuyên truyền và ứng dụng chính sách của Đảng cịn nhiều thiếu
sót,
> Xem nhẹ, coi thường bọn Tờrốtxkít và một số đảng viên hợp tác vô
nguyên tắc với chúng,
> Nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hịi, bệnh cơng khai, bệnh say
sưa với thắng lợi bộ phận dẫn tới xao nhãng việc củng cố tổ chức bí mật.
> Đảng chưa giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc
… (Mục tiêu cơ bản của cách mạng).



Tóm lại: Qua những văn kiện của Đảng chỉ đạo trong từng thời kỳ thực
sự là những mốc đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về nhận thức cũng như
khả năng tổ chức xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trên thực tế. Đặt cơ sở
vững chắc cho sự phát triển công tác Mặt trận trong giai đoạn tiếp theo, có tác
dụng rèn luyện lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám sau này.
2. Nhiệm vụ, chính sách và biện pháp tổ chức của Mặt trận Việt Minh
- Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, ảnh hưởng sâu sắc đến cách
mạng nước ta.
+ Những hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh thời kỳ Mặt trận dân
chủ Đơng Dương khơng cịn thích hợp nữa.
+ Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược xác định giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
+ Hội nghị TW 6 tháng 11/1939 và Hội nghị TW 7 tháng 11/1940 chủ
trương:
>Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”,
>Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
nhằm tập hợp các lực lượng chống đế quốc và tay sai, lôi kéo các phần tử tiến
bộ trong giai cấp địa chủ và tư sản dân tộc.
(Nhận rõ sự chuyển biến nhanh chóng của tình thế cách mạng),

+ Hội nghị TW 8 tháng 5/1941 họp dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn
Ái Quốc, hồn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
> Hội nghị đã xem xét lại chính sách của Đảng,
> Xác định cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng giải phóng dân
tộc,
> Để hoàn thành nhiệm vụ chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng
đất”,
>Yêu cầu sách lược vận động phải làm sao có lợi cho cách mạng, phải
vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được

tinh thần dân tộc trong nhân dân.
>> Vì vậy, “Mặt trận” khơng thể gọi như trước mà phải dùng tên khác
cho có tính chất dân tộc hơn, cho có mãnh lực hiệu triệu hơn nhất là thể hiện
được trong tình thế hiện tại.


> Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định
thành lập: Mặt trận dân tộc thống nhất chống phátxít Pháp - Nhật; lấy tên là
“Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là: Mặt trận Việt Minh (BÌNH: ngay
cái tên gọi này chữ “Độc lập” cũng đã làm cho mọi người ai cũng quý và mong mỏi nó từ
lâu, cịn chữ “đồng minh” thì có sức hiệu triệu rất lớn).

> Hội nghị quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ của Việt
Minh, và làm lá cờ toàn quốc khi thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
> Nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh:
= Phải thâu tóm cho hết các lực lượng phản đế chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chính là đế quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai của chúng
= Nhằm giành lại độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Việc cứu
quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải gánh vác một phần trách
nhiệm, thực hiện khẩu hiệu “Dân tộc trên hết!, “Tổ quốc trên hết!”.
= Để cho những người yêu nước có thể tham gia cơng cuộc cứu quốc
một cách dễ dàng:
Trung ương quyết định hạ thấp Điều lệ và Chương trình của Hội, thống
nhất hệ thống tổ chức,
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận bằng cơng tác
đảng, đồn để giữ gìn tính độc lập và không lấn át sáng kiến của Mặt trận.
>Tháng 10/1941, Việt Minh cơng bố “Tun ngơn, Chương trình, Điều
lệ”. Đây là lần đầu tiên, một Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập đã
trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực

lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu quốc của mình. Đó là những văn
kiện cơ bản của Mặt trận.
 Tuyên ngơn của Việt Minh nói rõ: “Nguy cơ diệt vong đã bày ra
trước mắt. Hiện thời chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là
đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật - Pháp trừ khử việt gian.
Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) ra đời, chào các bạn”
(VKĐ, Toàn tập, tập7 (1940 - 1945), Nxb CTQG, HN. 2000, tr.461).
 Chương trình cứu nước của Việt Minh; gồm 14 điểm là một hệ thống
chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa và những chính sách cụ thể
đối với các tầng lớp cơng nhân, nơng dân, binh lính, cơng chức, học


sinh, phụ nữ, thiếu nhi, người già và kẻ tàn tật, tư sản, địa chủ, nhà
buôn. Tinh thần cơ bản của những chính sách ấy là: “Cốt thực hiện
hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước:
1, Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
2, Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”. (Sđd, tr.470).
 Chương trình cứu nước của Việt Minh sau được đúc kết lại thành 10
chính sách lớn đem thực hiện ở khu giải phóng Việt Bắc và được Đại
hội Quốc dân Tân Trào thơng qua tháng 8/1945, trở thành chính sách
cơ bản sau này của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa .(Bài thơ diễn ca
10 chính sách VM)


Bên cạnh đó, cịn có điều lệ cho mỗi đồn thể cứu quốc trong Mặt

trận, thống nhất trong tinh thần chỉ đạo chung và kết hợp với nhau,
đấu tranh cho những mục tiêu chung.
> Ngày 25/1/1942, Báo “Cứu quốc” cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số 1,

phát hành chủ yếu từ Thanh, Nghệ Tĩnh trở ra các tỉnh đồng bằng và trung du
Bắc Bộ. Cơ quan Trung ương đóng tại Cao Bằng, từ đây các tỉnh bộ Việt
Minh ở phía Nam, kể cả trong các nhà tù đế quốc cũng xuất bản báo để đáp
ứng phong trào.
> Từ năm 1942 trở đi thanh thế của Việt Minh ngày càng chiếm được
tình cảm và sự ủng hộ của nhân dân, vì thế mạng lưới của Việt Minh nhanh
chóng lan rộng ra cả nước. Đó là các đồn thể cách mạng:
Hội Cơng nhân cứu quốc,
Hội Nông dân cứu quốc,
Hội Phụ nữ cứu quốc,
Hội Phụ lão cứu quốc,
Hội Nhi đồng cứu quốc,
Hội Quân nhân cứu quốc…
Ở các vùng nông thôn, tổ chức các Hội cứu quốc để thu hút đông đảo
quần chúng tham gia, thường có 3 Hội chính là:
Hội Nơng dân cứu quốc,
Hội Thanh niên cứu quốc,
Hội Phụ nữ cứu quốc.
(QUY ĐỊNH: Nam giới và phụ nữ từ 18 tuổi trở lên được tổ chức vào Hội Nông
dân,


Phụ nữ từ 15 tuổi trở lên được tổ chức vào Hội Phụ nữ.
Thanh niên nam nữ từ 16 - 25 tuổi được tổ chức vào Hội Thanh niên.
Như vậy, Hội Nơng dân có đơng đảo thành viên nhất, là trung tâm cứu nước ở nông
thôn. Các ông, bà từ 50 tuổi trở lên có thể vào Hội Lão nhân, Hội Việt Nam cứu quốc hay
chỉ tham gia Hội Nông dân cứu quốc hoặc Hội Phụ nữ cứu quốc tùy theo tình hình cụ thể
từng nơi và ý nguyện của từng người).

Ở thành thị, cùng với

Hội Thanh niên,
Phụ nữ có Hội Cơng nhân cứu quốc.
(Vai trị của Hội Cơng nhân cứu quốc ở đây tương tự như Hội Nông dân cứu quốc ở nơng
thơn, có cả thanh niên và trên tuổi thanh niên, tập hợp lao động chân tay là công nhân công
nghiệp, thủ công nghiệp và công nhân làm việc trong ngành giao thơng vận tải. Hội Thanh
niên thì có thanh niên nam nữ là cơng nhân, học sinh, buôn bán, viên chức, giáo viên
trường tư …)

Đặc biêt, ở thành thị có các trại lính nên việc giác ngộ và tổ chức những binh
sĩ của địch vào “Hội Quân nhân cứu quốc” giữ một vai trò quan trọng.
>Về cách thức tổ chức:
Các Hội cứu quốc tổ chức theo hệ thống dọc,
Ở mỗi cấp có Ban Chấp hành Hội cứu quốc được dân chủ bầu cử ra.
Hội Cứu quốc mỗi cấp cử đại biểu tham gia Uỷ ban Việt Minh của cấp
mình,
Ban Chấp hành Việt Minh mỗi cấp cử ra Ban Thường vụ đứng đầu là
Chủ nhiệm và phân công các ủy viên phụ trách các Hội cứu quốc.
TÓM LẠI: Bằng các hoạt động tích cực, hiệu quả của mình, Việt Minh
đã thực hiện công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng tạo
ra phong trào cách mạng rộng lớn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
quân sự, thành lập các căn cứ địa cách mạng, đẩy mạnh hoạt động du kích và
làm cơng tác quản lý xã hội về các mặt kinh tế, văn hóa, trị an ở những nơi bộ
máy chính quyền địch bị tê liệt. Tiêu biểu thời kỳ này là khu vực Cao - Bắc Lạng, điển hình trong phong trào xây dựng Mặt trận Việt Minh đánh Pháp,
đuổi Nhật.
II. VAI TRỊ CỦA MẶT TRẬN VIỆT MINH TRONG ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN – Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM


1. Mở rộng Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu
nước, phát động toàn dân đấu tranh giành chính quyền trong cách mạng

Tháng 8/1945
- Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, từ
ngày 25 - 28/2/1943 Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La, Đông Anh
(Phúc Yên) để quyết định những vấn đề cấp bách:
+ Hội nghị chủ trương ra sức phát triển Việt Minh nhằm thực hiện nhiệm
vụ trung tâm là: chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
+ Đi đôi với củng cố và phát triển các tổ chức công nhân, nông dân,
thanh niên, phụ nữ đồng thời phải lôi kéo tư sản, địa chủ, tiểu thương v.v.. để
cho Mặt trận có tính chất tồn dân.
+ Khéo lợi dụng khả năng công khai và nửa công khai để thành lập các
đồn thể có tính chất kinh tế, văn hóa, thể thao…
+ Cử người vào các tổ chức cơng khai, kể cả tổ chức do bọn phátxít lập
ra để cảm hóa quần chúng trong các tổ chức đó.
+ Ngoài ra, để Mặt trận dân tộc thống nhất chống phátxít Nhật - Pháp có
thêm đồng minh, Việt Minh cịn liên kết với các đảng phái chống phátxít ở
nước ngồi theo tinh thần bình đẳng, tương trợ.
Các xứ ủy Trung kỳ và Nam kỳ được giao nhiệm vụ giúp tổ chức “Ai Lao
độc lập đồng minh” và “Cao Miên độc lập đồng minh” để cùng Việt Minh
đánh Pháp, đuổi Nhật trên tồn Đơng Dương.
- Năm 1943, địch bắt đầu khủng bố trắng. Sang năm 1944, tình hình
càng trở nên nghiêm trọng hơn trong cả nước. Cao - Bắc - Lạng là trọng điểm
khủng bố vì cơ sở của Việt Minh phát triển mạnh nhất. Địch tàn phá làng bản,
bắn người không cần xét hỏi, cướp của trắng trợn, truy nã ráo riết những
người cách mạng, ra lệnh giới nghiêm, lập đồn trại bao vây và cho quân sục
sạo không ngừng.
+ Tuy gây cho ta nhiều tổn thất nhưng phong trào Việt Minh càng được
rèn luyện trong lửa đạn, già dặn, vững vàng phát triển cơ sở sang các tỉnh lân
cận.
+ Ở Hà Nội một số văn nghệ sĩ yêu nước được Đảng tập hợp tổ chức vào
“Hội Văn hóa cứu quốc”, triển khai thực hiện “Đề cương văn hóa Việt Nam”

do Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương công bố …


+ Hàng ngũ sinh viên, trí thức phân hóa, trừ một số ít đi theo kẻ thù, cịn
phần đơng chưa tìm được hướng đi thích hợp, Đảng đã giúp họ lập ra Đảng
Dân chủ Việt Nam (6/1944) và Đảng dân chủ đã gia nhập Mặt trận Việt Minh.
- Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra “Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa”,
tích cực chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa.
+ Ngay từ cuối 1942, sau khi ra tù của Quốc dân Đảng (Tưởng Giới
Thạch), Bác Hồ nhân danh đại biểu Việt Minh đã liên hệ với Đảng Cộng sản
Trung Quốc giúp đỡ huấn luyện cán bộ vũ trang trên đất Trung Quốc.
+ Cũng tại Trung Quốc, các cán bộ Việt Minh còn liên hệ đại sứ quán
Mỹ và Pháp yêu cầu họ giúp Việt Minh đánh Nhật bên cạnh Đồng minh để
giành độc lập.
>> Đó là thể hiện rõ chính sách quốc tế của Việt Minh đã đem lại những
kết quả nhất định giúp cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta thêm sức mạnh
chống phátxít Nhật.
- Trên cơ sở lực lượng vũ trang đang hình thành và hoạt động có hiệu
quả, ngày 22/12/1944, Bác Hồ Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân” để gây sức mạnh và ảnh hưởng của Việt Minh khắp toàn
dân.
- Ngày 9/3/1945, Nhật lật đổ Pháp chiếm Đông Dương, Ban Thường vụ
Trung ương ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,
+ Phát động “Cao trào kháng Nhật cứu nước”, sẵn sàng chuyển qua hình
thức Tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
+ Từ đó những cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục diễn ra, xóa bỏ chính
quyền tay sai, lập ra Ủy ban dân tộc giải phóng, đồng bào ngày càng hăng hái
tham gia và ủng hộ Việt Minh.
- Ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ 6 tỉnh
Việt Bắc tun bố chính thức thành lập khu giải phóng (Cao- Bắc- Lạng- HàTuyên- Thái) và vạch rõ Kế hoạch củng cố khu giải phóng thành một căn cứ

kháng Nhật vững chắc.
+ Dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban chỉ huy lâm thời, khu giải phóng được
xây dựng vững chắc về mọi mặt chính trị, qn sự, kinh tế, văn hóa, chính
quyền nhân dân trong tồn khu dược thành lập bằng bầu cử theo phổ thông
đầu phiếu.


+ Nhân dân hăng hái thi đua sản xuất, già trẻ đều tích cực đi học để
thanh tốn nạn mù chữ.
+ Thanh niên nô nức luyện tập quân sự, tham gia tự vệ, du kích và xung
phong gia nhập giải phóng quân …
>> Khu giải phóng đã trở thành căn cứ cách mạng chủ yếu, là ngọn cờ
cách mạng cổ vũ nhân dân trong cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt
Nam mới sau này.
Đó là hậu phương vững chắc của giải phóng quân,
Là địa bàn chiến lược trọng yếu thuận lợi cho cả tiến cơng và phịng ngự.
Trên thực tế khu giải phóng là sự hợp nhất các chiến khu nhỏ thành một chiến khu
lớn, nhưng chỉ có lập khu giải phóng mới nhanh chóng tạo ra thanh thế lớn cho Việt Minh.
Nhân dân trong nước và lực lượng dân chủ thế giới thấy rõ rằng: Việt Minh đã làm
chủ được phần lớn Bắc Bộ, trong đó hơn 1 triệu đồng bào được hưởng cuộc sống mới do
cách mạng đem lại.

- Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh, do chính sách bóc lột, vơ vét
của Nhật - Pháp, nạn đói xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh phía Bắc.
+ Hai triệu người Việt Nam bị chết đói, Việt Minh đã kịp thời đề ra khẩu
hiệu: “Phá kho thóc giải quyết nạn đói” và coi đó là khẩu hiệu chính để phát
động phong trào chống Nhật, cứu nước.
+ Cuộc đấu tranh phá kho thóc diễn ra ở khắp các tỉnh miền Bắc, đưa
hàng triệu quần chúng đi từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hàng ngày đến
giác ngộ chính trị khởi nghĩa giành chính quyền.

- Tháng 8/1945, sau khi quân Nhật bại trận và đấu hàng quân Đồng
Minh:
+ Ngày 13/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh ra thông báo cho các cấp:
> Thời kỳ khởi nghĩa đã đến, chúng ta đang đứng trong tình thế trực tiếp
khởi nghĩa và ngay đêm hơm đó, Ủy ban khởi nghĩa tồn quốc theo chủ
trương của Đảng đã ra Quân lệnh số 1 - Hạ Lệnh Tổng khởi nghĩa.
> Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân trào trong
hai ngày 16 - 17/8/1945:
Đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của
Việt Minh,
Quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do
đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.


Cả nước đứng lên giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa, chỉ
trong vòng 2 tuần lễ chính quyền của Nhật hồn tồn sụp đổ, các Ủy ban nhân dân lâm
thời được thành lập và ra mắt nhân dân trước các cuộc mít tinh lớn.
Ngày 30/8/1945, đoàn đại biểu của Tổng bộ Việt Minh do đồng chí Nguyễn Lương
Bằng dẫn đầu vào Huế chứng kiến vua Bảo Đại thoái vị.
Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của
tồn dân giao phó là giành độc lập dân tộc, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời.
Đại biểu Việt Minh, Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu cả nước.

2. Mặt trận Việt Minh cùng toàn Đảng, toàn dân đưa cách mạng vượt
qua thác ghềnh nguy hiểm (9/1945 - 12/1946)
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng Việt Nam chuyển
sang thời kỳ mới, chính quyền nhân dân được thành lập từ TW đến các địa
phương trong cả nước.
+ Mặt trận Việt Minh khơng cịn làm chức năng chính quyền như trước

nữa.
+ Hoạt động của Việt Minh lúc này nhằm tăng cường khối đoàn kết tồn
dân, làm chỗ dựa cho chính quyền và động viên quần chúng tham gia xây
dựng và bảo vệ đất nước.
- Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, đứng trước những khó
khăn chồng chất.
+ Nạn đói đe dọa tính mạng của hàng triệu đồng bào.
+ Quân Anh được phái vào tước vũ khí quân Nhật ở miền Nam, nhưng
lại giúp cho thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam từ 23/9/1945.
+ Quốc dân Đảng Trung Hoa cũng với danh nghĩa tước vũ khí quân
Nhật, kéo gần 20 vạn quân vào miền Bắc, đem theo bọn phản cách mạng Việt
Nam có vũ trang để thực hiện âm mưu đen tối “tiêu diệt Đảng ta”, “phá tan
Việt Minh”, lật đổ chính quyền cách mạng, để lập một chính phủ phản động
tay sai cho chúng.
+ Các đảng phái và các tổ chức phản động tay sai đế quốc cấu kết với
nhau để khiêu khích, cướp bóc, ám sát và âm mưu làm đảo chính.
- Cách mạng nước ta lúc này gặp mn vàn khó khăn thử thách.


+ Cuộc cách mạng dân tộc giải phóng vẫn đang tiếp diễn vì nước ta chưa
độc lập hồn tồn, kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
+ Chủ trương của ta lúc này là lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
chống thực dân Pháp.
+ Nhiệm vụ củng cố và phát triển Việt Minh được đề ra cụ thể rõ ràng,
mở rộng thêm những đoàn thể cứu quốc mới vào Mặt trận Việt Minh như:
Việt Nam Công giáo cứu quốc Hội, Việt Nam hướng đạo cứu quốc Đoàn.
Giúp cho Đảng dân chủ thu hút vào Mặt trận những tầng lớp tư sản, địa chủ
yêu nước.

- Để làm thất bại âm mưu của bọn quân phiệt Trung Quốc “tiêu diệt
Đảng Cộng sản”, Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật với danh nghĩa tuyên
bố tự giải tán (11/11/1945).
+ Nhưng thực chất vẫn chỉ đạo Mặt trận Việt Minh mở rộng khối đoàn
kết dân tộc, đưa đất nước vượt qua nguy hiểm.
+ Từ đó, vai trị của Việt Minh trong đời sống chính trị ngày càng được
đề cao.
+ Việt Minh đã góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm thất bại mọi âm
mưu đen tối của các loại kẻ thù, đế quốc tay sai.
> Ký thỏa hiệp với “Việt Nam quốc dân Đảng”,
> Ký tuyên ngôn với “Việt Nam cách mạng đồng minh Hội” về việc lấy
chính phủ liên hiệp trên cơ sở giữ vững nguyên tắc ĐLDT và bảo toàn thành
quả cách mạng.
+ Thực hiện triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tránh một
lúc phải đối phó với với nhiều thế lực phản động, phản bội, tranh thủ hịa
hỗn để mở rộng lực lượng trong Mặt trận, cô lập cao độ kẻ thù.
- Mặt trận Việt Minh cịn tích cực tun truyền, vận động quần chúng tự
nguyện hăng hái tham gia phong trào sản xuất cứu đói:
+ Hũ gạo tiết kiệm, tuần lễ vàng, bình dân học vụ …
> Nhằm phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân để vượt qua những
khó khăn thử thách về kinh tế, tài chính …
+ Mặt trận cùng các đồn thể vận động, tổ chức nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng hiến
pháp mới, làm cho chính quyền thực sự là của dân.


>> Vì vậy, tồn dân tin theo Đảng và Việt Minh đem hết tinh thần và
nghị lực quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng, chống thù trong, giặc
ngồi, trực tiếp giúp Nam Bộ kháng chiến, đấu tranh phản đối âm mưu chia
cắt nước ta, vi phạm Hiệp định sơ bộ của thực dân Pháp.

*TÓM LẠI: Vận mệnh đất nước trong những năm 1945 - 1946 đứng
trước thử thách như: “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên chủ trương nhất quán
là tăng cường thực lực cách mạng trên cơ sở mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân được tập hợp trong Mặt trận Việt Minh và các đồn thể cứu quốc. Nhờ
đó, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi thác ghềnh nguy hiểm,
giữ vững chính quyền, chuẩn bị kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm
lược.
3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm xây dựng Mặt trận Việt Minh
a) Ý nghĩa
- Mặt trận Việt Minh là hình ảnh khối đại đồn kết tồn dân của các tầng
lớp, các đảng phái, tơn giáo, dân tộc, bộ tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nên
đã “phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, truyền thống đồn kết của cha ơng ta
trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, là sự vận dụng sáng tạo chiến
lược và sách lược đoàn kết đấu tranh của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta”.
- Góp phần trực tiếp cùng tồn Đảng, tồn dân thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ đánh đế quốc và vua quan phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân,
lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đưa dân tộc ta vào
kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, kỷ nguyên nhân dân ta làm chủ
đất nước, làm chủ cuộc sống.
- Khi chính quyền mới được thành lập, Mặt trận Việt Minh lại cùng tồn
dân tham gia tích cực vào cơng cuộc xây dựng chế độ mới, bảo vệ thành quả
Cách mạng Tháng Tám và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp
xâm lược.
b) Kinh nghiệm
(Qua quá trình xây dựng, củng cố Mặt trận Việt Minh đã để lại cho chúng ta nhiều
kinh nghiệm quý báu):



- KN 1 là: Trên cơ sở đường lối chiến lược, Đảng phải có sách lược phù
hợp nhằm phân hóa kẻ thù và sử dụng đúng đắn bạn đồng minh. (2 điểm cơ
bản)
+ Thứ nhất, Đường lối chiến lược là nhân tố cơ bản đầu tiên bảo đảm
cho cách mạng đi đúng hướng và làm cơ sở để tiến hành chỉ đạo xây dựng lực
lượng, tổ chức đấu tranh nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
trong từng thời kỳ.
> Trung thành với đường lối kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến, Đảng ta đã căn cứ vào tình hình cụ thể trong
những năm 1939 - 1945, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: đặt
nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống
phong kiến tiến hành từng bước phục vụ nhiệm vụ trung tâm trước mắt là
đánh đổ chính quyền của đế quốc tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân,
giành độc lập cho dân tộc.
> Giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ Đảng đã biết kết hợp, giải quyết
đúng đắn quyền lợi dân tộc với quyền lợi dân chủ của quần chúng nhân dân,
thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích của giai cấp. Vì thế, Đảng đã quy tụ
được tuyệt đại đa số các lực lượng yêu nước tập hợp trong Mặt trận Việt
Minh, đoàn kết đấu tranh chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu là Nhật - Pháp,
từng bước làm suy yếu chúng, tạo cho cách mạng có sức mạnh áp đảo, buộc
kẻ thù phải đầu hàng.
+ Thứ hai, trong quá trình tập hợp lực lượng trong khuôn khổ Mặt trận
Việt Minh, Đảng luôn chú ý hai giai cấp cơ bản là công nhân và nông dân, lấy
đó làm nền tảng của Mặt trận và mở rộng lực lượng ra tồn dân tộc theo chủ
trương, chính sách phù hợp với từng đối tượng.
> Để tập trung lực lượng làm cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã
thực hiện sách lược “tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất”, mà chỉ đặt
vấn đề tịch thu và quốc hữu hóa sản nghiệp và ruộng đất của đế quốc thực dân
và tay sai phản bội dân tộc lấy công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng
nông dân.

> Bởi vậy, đã thu hút được cả địa chủ nhỏ, vừa và tư sản dân tộc, trí thức
yêu nước đứng trong Mặt trận Việt Minh tham gia phong trào cách mạng.
Khơng ít con cái và bản thân họ đã từ bỏ lợi ích giai cấp, chuyển hẳn sang lập
trường cách mạng của công - nông.


> Thực tế lịch sử đã chứng minh thành công nổi bật của Mặt trận Việt
Minh là đã tập hợp được lực lượng đông đảo các tầng lớp xã hội, các giai cấp,
các đảng phái, kể cả người nước ngoài đoàn kết đấu tranh dưới ngọn cờ của
Việt Minh.
- KN 2 là, khơng ngừng mở rộng khối đại đồn kết toàn dân tộc phải kết
hợp chặt chẽ với củng cố khối liên minh công nông vững chắc (3 điểm cơ
bản).
+ Thứ nhất, trong tiến trình cách mạng, vấn đề có tính ngun tắc bắt
buộc đối với giai cấp vơ sản là phải biết tập hợp lực lượng to lớn trong dân
tộc, xây dựng cho được lực lượng cách mạng vững chắc làm đội quân chủ lực
của cách mạng là mấu chốt bảo đảm quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng
sản.
> Vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
công tác mặt trận vào điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ xây dựng Mặt
trận Việt Minh đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã tập hợp được đông đảo
các giai cấp, các tầng lớp cho tới các cá nhân có lợi ích trong việc chống đế
quốc và phong kiến, kể cả các tầng lớp trên và tầng lớp trung gian trong xã
hội.
> Chủ trương của Đảng chỉ chống lại những phần tử ngoan cố làm tay
sai cho đế quốc thực dân.
> Vì thế, Mặt trận Việt Minh đã thu hút được hết thảy mọi lực lượng yêu
nước và tiến bộ nhằm tập trung mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chung
của dân tộc.
+ Thứ hai, trong khi nhấn mạnh đoàn kết dân tộc, Đảng luôn coi trọng

nền tảng của khối liên minh cơng - nơng.
> Chỉ có trên cơ sở khối liên minh cơng nơng vững chắc mới có thể mở
rộng được Mặt trận,
> Ngược lại làm tốt công tác Mặt trận càng làm cho nền tảng liên minh
công nông thêm chắc chắn.
> Khi xây dựng Mặt trận Việt Minh, Đảng ln biết kết hợp quan tâm
giải quyết lợi ích của cơng nơng với lợi ích của các giai cấp khác.
> Thực chất đó là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa quyền lợi của các thành phần,
các giai cấp trong Mặt trận Việt Minh.


> Nghị quyết TW 6 (11/1939) đã chi rõ: “Phải làm cho giai cấp tư bản,
địa chủ bổn xứ thấy sự cần thiết vì tranh đấu chống đế quốc, giải phóng dân
tộc mà nhượng bộ một ít quyền lợi chính đáng cho lao động, không thể vin
vào quyền lợi dân tộc mà thẳng tay bóc lột dân chúng. Và củng phải làm cho
giai cấp lao động nhận thấy những cuộc tranh đấu cần dùng chính sách điều
hịa những u sách phải cho thích hợp, đừng địi q cao, để cho sự liên
minh của các giai cấp bổn xứ có thể thực hiện được với trong một đôi tầng
lớp nào của giai cấp tư sản. Sự điều hịa ấy khơng có ý nghĩa gì là đi vào con
đường “giai cấp thỏa hiệp”, vì nó có mục đích là tranh đấu chống đế quốc
Pháp, chống giai cấp tư bản tài chính”. (VKĐ, TT, Tập 6, Nxb CTQG,HN, 2000, tr
552).

> Nghĩa là khi tập trung giải quyết vấn đề độc lập dân tộc, chưa giải quyết
tồn bộ vấn đề ruộng đất của nơng dân vẫn khơng làm giảm bớt lịng hăng hái
cách mạng của nơng dân.
> Vì nếu đất nước được độc lập tự do, nơng dân cũng được hưởng quyền lợi
đó, bao gồm cả quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
+ Thứ ba, trong quá trình chỉ đạo tổ chức xây dựng Mặt trận Việt Minh,

Đảng luôn kịp thời uốn nắn những biểu hiện tư tưởng tả, hữu khuynh như:
> “tả” khuynh: coi nhẹ việc đoàn kết với các giai cấp khơng vơ sản.
> Hịa đồng mọi thành phần trong Mặt trận,
> Hạ thấp vai trò liên minh công nông, hợp tác vô nguyên tắc.
(Thực tiễn lịch sử thời kỳ 1939 - 1945, cũng như thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng mới thành lập, dù khó khăn gian khổ đến mấy, Đảng vẫn khơng ngừng
chăm lo xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, làm nền tảng mở rộng Mặt trận
Việt Minh vì thế cách mạng nước ta đã giành được thắng lợi).

- Ba là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định bảo đảm phát huy sức mạnh của Mặt trận Việt Minh
(2 điểm cơ bản).
+ Thứ nhất, việc giữ vững và nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận Việt Minh là vấn đề có tính ngun tắc.
> Trong thời kỳ hoạt động bí mật, xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.
> Đảng với danh nghĩa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất đã
phát huy vai trị lãnh đạo của mình bằng việc định ra đường lối, chủ trương
đúng đắn và thông qua Mặt trận Việt Minh để phát động, lãnh đạo các phong


trào cách mạng của quần chúng, dựa vào khối liên minh công nông là nền
tảng của Mặt trận.
> Mặt khác, Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng vì Đảng có đường
lối đúng đáp ứng được đầy đủ nguyện vọng của nhân dân, vì dân mà chiến đấu,
gương mẫu trong mọi phong trào cách mạng.
>> Do đó, đã tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân thơng qua
vai trị của Mặt trận và Mặt trận đã thực hiện tốt sự thống nhất bên dưới với quần
chúng, cùng với sự thống nhất bên trên với lãnh tụ, với Đảng.
+ Thứ hai, chủ trương của Đảng được triển khai tới quần chúng thông

qua Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ 1939 - 1945 là trong lúc tập trung lực
lượng làm cách mạng giải phóng dân tộc,
> Đảng đã tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” mà chỉ tịch thu
ruộng đất của bọn đế quốc việt gian, đại địa chủ và đất công điền, đất bỏ
hoang chia cho nơng dân…
> Vì thế, đã được quần chúng ủng hộ một lòng, một dạ đi theo Việt Minh
làm cách mạng đến cùng.
> Rõ ràng đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ của cách mạng trong từng thời kỳ, giai đoạn là vấn đề quan trọng nhất.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chỉ trong đấu tranh và công tác
hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được sự lãnh đạo” (Hồ Chí Minh về
Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb ST, HN, 1992, tr.16).

*TÓM LẠI: Trong thời kỳ 1945 - 1946, cách mạng nước ta đứng trước
những khó khăn tưởng chừng như khơng vượt qua nổi, để tránh mũi nhọn tấn
công của thù trong giặc ngồi,
- Đảng ta đã chuyển vào hoạt động bí mật, dưới danh nghĩa tuyên bố tự
giải tán.
- Nhưng vẫn duy trì sự lãnh đạo của mình bằng sách lược khơn khéo,
mềm dẻo, thơng qua những hoạt động có hiệu quả của Mặt trận Việt Minh để
giữ vững, củng cố chính quyền cách mạng.
- Mặt trận Việt Minh đã làm tròn chức năng chính quyền tập hợp quần
chúng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh đấu tranh chống 3 thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, đưa đất nước vượt qua mọi nguy hiểm khó
khăn để đứng vững và phát triển.


KẾT LUẬN
- Mặt trận Việt Minh ra đời trên cơ sở Hội phản đế đồng minh, hình thức

đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
- Mặt trận Việt Minh có vai trị to lớn, cùng với tồn Đảng, tồn dân
trong đấu tranh giành chính quyền tháng 8/1945 và bảo vệ thành quả cách
mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp
xâm lược.
- Những kinh nghiệm về xây dựng Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền là cơ sở để chúng ta vận dụng phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
+ Theo quan điểm Đại hội IX là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn
thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Văn kiện Đại hội
IX, Nxb CTQG, HN.2001, tr.129).
+ Đại hội X nhấn mạnh: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có
vai trị rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng
lớp nhân dân, đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phịng thành hoạt động
thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân. Nhà nước ban hành và bổ
sung pháp luật để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai
trò giám sát và phản biện xã hội”. (Văn kiện Đại hội X, tr.13)
+ Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn DT,
XD và BVTQ...MTTQ VN là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức CT, tổ chức CT – XH, tổ chức XH và các cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, tầng lớp XH, các DT, TG và người VN định cư ở nước ngoài.
MTTQVN là một bộ phận của HTCT, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân. ĐCSVN vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo MTr. MTr hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành
động giữa các thành viên” (Văn kiện Đại hội XI, tr.86 - 87).



CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Nhiệm vụ, chính sách biện pháp tổ chức của Mặt trận Việt Minh?
2. Vai trò của Mặt trận Việt Minh trong đấu tranh giành chính quyền?
3. Ý nghĩa và kinh nghiệm XD MTVM, vận dụng vào XD MTTQ hiện
nay?



×