Tải bản đầy đủ (.docx) (144 trang)

Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho vận động viên trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.52 KB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

PHẠM THỊ GÁI

QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO VẬN ĐỘNG VIÊN TRUNG TÂM VÕ THUẬT
•••

CỔ TRUYỀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

CHUN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.01.14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TS DƯƠNG BẠCH DƯƠNG


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi , các kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong
chương trình nào khác.

rri r _ • ?

Tác giả

Phạm Thị Gái


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Tâm lý giáo dục và Công


tác xã hội của Trường Đại học Quy Nhơn đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ
tơi trong q trình học tập
Tơi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo và đồng nghiệp Sở Văn hóa -Thể
Thao và Du lịch Bình Định và huấn luyện viên Trung tâm Võ thuật cổ truyền
tỉnh Bình Định đã hết sức quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho tơi hồn thành
luận văn này.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Dương Bạch
Dương. Người đã ln động viên và tận tình hướng dẫn tơi trong q trình
thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không không thể
tránh những sơ sót, kính mong nhận được những lời đóng góp q báu của q
thầy cơ và đồng nghiệp.

TI r _ •?
Tác giả
Phạm Thị Gái


MỤC LỤC
Trang
3.2.1.
3.2.2.

Biện pháp 4: Tổ chức tốt việc triển khai kế hoạch quản lý công

tác giáo dục đạo đức cho vận động viên trung tâm võ cổ truyền Bình

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (Bản sao)



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

CNH- HĐH

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại
hóa

GDĐT

Giáo dục đào tạo

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

HSSV

Học sinh - sinh viên


HLV

Huấn luyện viên

VĐV

Vận động viên

CMVĐV

Cha mẹ vận động viên

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VTCT

Võ thuật cổ truyền

TDTT

Thể dục thể thao

DANH MỤC CÁC BẢNG



7


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã chứng minh q trình phát
triển giáo dục luôn gắn liền với phát triển kinh tế -xã hội.
Giáo dục và đào tạo là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc. Nhiều thập kỉ qua Đảng và nhà nước ta luôn
chăm lo đến sự nghiệp của giáo dục, điều này được thể hiện qua đường lối, các
Nghị Quyết, chỉ thị của của Đảng, chính sách của nhà nước về cơng tác giáo
dục. Từ năm 1986, đất nước ta chính thức bước vào thời kì đổi mới, xóa bỏ chế
độ quan liêu, bao cấp, cả đất nước chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường
chính là lúc sự quản lý của Nhà nước thể hiện nhiều vướng mắc, bất cập,... Xu
hướng tồn cầu hóa, q trình hội nhập quốc tế cùng mặt trái của nền kinh tế
thị trường đã tạo nên những bước chân vững chãi cho trào lưu dân chủ hóa, sự
băng hoại về các giá trị đạo đức, làm lu mờ lý tưởng của thế hệ trẻ, xâm nhập
mạnh mẽ đến chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc.
Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ta đang đặt ra những yêu cầu to
lớn về chất lượng nguồn lực con người; đó là sự phát triển tồn diện về đạo
đức, trí tuệ, sức mạnh, thẩm mỹ và một cách khái quát nhân cách nói chung
của con người Việt Nam, mà trước hết là thế hệ trẻ. Văn kiện Đại Hội X:” Coi
trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên bản lĩnh,phẩm chất và lối sống thế hệ
trẻ Việt Nam hiện đại.
Xu hướng tồn cầu hóa diễn ra trong mặt đời sống xã hội, chúng ta đang
phải đối mặt với những thách thức của thời đại đó là hiện tượng suy thoái về
đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng ở một số thanh thiếu
niên, làm ảnh hưởng đến chất lượng GDĐĐ của nhà trường. Tình hình đó việc
tăng cường GDĐĐ cho học sinh càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, đạo
đức được coi là nền tảng trong phẩm chất, nhân cách con người. Đạo đức là
gốc, là cốt lõi của nhân cách. Do đó, nhà trường phải ln chú trọng giáo dục



8

cả đức lẫn tài.
Những năm gần đây, nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức đã tác động
trên mọi mặt của đời sống xã hội thì mặt trái của nó cũng len lõi, xâm nhập vào
tầng lớp thanh thiếu niên, học sinh, làm suy giảm phẩm chất đạo đức, chạy
theo lối sống tầm thường, thực dụng thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai của mình và đất nước. Điều đáng lo ngại là những tệ nạn xã hội tác
động vào nhà trường làm cho một bộ phận học sinh chậm tiến bộ, khó giáo
dục, thậm chí hư hỏng, phạm pháp đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục tư
tưởng hiện nay.
GDĐĐ vận động viên năng khiếu thể thao nói chung và năng khiếu võ
nói riêng là một mặt quan trọng trong quá trình đào tạo VĐV. Trong tình hình
hiện nay, cơng tác GDĐĐ cho vận động viên ngày càng trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết. Với chính sách mở của và giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng,
đòi hỏi các VĐV thể thao của chúng ta ngồi trình độ chun mơn, phải thể
hiện sự ưu việt của nền thể thao XHCN, đặc biệt là bộ mơn võ thuật người
VĐV phải có đức và tài song song với nhau, nhân cách và văn hóa, mang đầy
đủ những phẩm chất tốt đẹp cũng như truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Thực tiễn từ nhiều năm nay, công tác GDĐĐ cho VĐV võ thuật ở các
cơ sở đào tạo trong cả nước nói chung và Bình Định nói riêng đã đạt được một
số kết quả đáng khích lệ, song vẫn cịn nhiều thiếu sót cả quan niệm lẫn hành
động, chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới, dẫn đến chất lượng rèn luyện đạo đức
chưa cao thì việc tăng cường quản lý công tác GDĐĐ cho VĐV võ thuật là vấn
đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý
công tác giáo dục đạo đức cho vận động viên trung tâm võ thuật cổ truyền
tỉnh Bình Định”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác quản lý



9

GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ thuật cổ truyền (VTCT), luận văn đề xuất các
biện pháp quản lý công tác GDĐĐ cho VĐV, nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả giáo dục toàn diện cho VĐV Trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.

Khách thể nghiên cứu

Quá trình quản lý GDĐĐ cho vận động viên võ thuật cổ truyền.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

Biện pháp quản lý GDĐĐ cho vận động viên võ thuật cổ truyền tỉnh
Bình Định.
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý cơng tác GDĐĐ cho vận động viên võ thuật cổ truyền Tỉnh
Bình Định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của một
con người, góp phần đào tạo nên những con người tốt, những công dân tốt cho
nước nhà. Tuy nhiên, quản lý công tác GDĐĐ bên cạnh những ưu điểm, vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập trên nhiều bình diện. Nếu đánh giá đúng
thực trạng quản lý cơng tác GDĐĐ thì sẽ xây dựng được các biện pháp quản lý
GDĐĐ cho vận đông viên võ thuật cổ truyền có tính khả thi góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo vận động viên võ thuật cổ truyền Bình Định.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về GDĐĐ và quản lý công tác GDĐĐ

cho VĐV Trung tâm võ thuật.
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng công tác GDĐĐ cho VĐV Trung
tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý đối với công tác GDĐĐ cho VĐV
Trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý GDĐĐ cho VĐV
Trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.


10

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp này được sử
dụng trong nghiên cứu nhằm phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, ...
các văn bản, tài liệu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của
vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1.

Phương pháp điều tra: nhằm khảo sát thực trạng quản lý

GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.
7.2.2.

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Rút ra những kinh

nghiệm về công tác quản lý GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ thuật
cổ truyền tỉnh Bình Định.
7.2.3.


Phương pháp quan sát: thu nhận những thông tin thực tiễn

về cơ sở vật chất, nhu cầu húng thú của học sinh và việc tổ chức
các hoạt động ngoài giờ học văn hóa và tập luyện chun mơn,
nhằm tìm hiểu cơng tác quản lý và tổ chức GDĐĐ cho VĐV.
7.2.4.

Phương pháp phỏng vấn, trị chuyện với các chun gia có

kinh nghiệm, hội cha mẹ vận động viên, giáo viên, cán bộ, đoàn
thể để thu nhập thông tin bổ sung cho phương pháp điều tra.
7.2.5.

Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến các chuyên gia để nhận

định, đánh giá và khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết và khả
thi của các biện pháp quản lý GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ
thuật cổ truyền Tỉnh Bình Định.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê tốn học: Nhằm xử lý kết quả nghiên
cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu: Đề cập những vấn đề chung của đề tài.
Phần nội dung: Gồm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDĐĐ cho VĐV Trung
tâm võ thuật.


11


- Chương 2: Thực trạng quản lý GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ thuật cổ
truyền tỉnh Bình Định.
- Chương 3: Biện pháp quản lý GDĐĐ cho VĐV Trung tâm võ thuật cổ
truyền tỉnh Bình Định.

CHƯƠNG 1
_ _ ._? . ____________7k ___? _ _
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO
7

_

_____

7

—_____

7

_________



_

ĐỨC CHO VẬN ĐỘNG VIÊN TRUNG TÂM VÕ THUẬT
•••
1.1.


Khái lược lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một nội dung giáo dục
quan trọng, nhằm giúp các nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục nhân cách
người học. Khi cịn sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất coi trọng mục
tiêu, nội dung giáo dục đạo đức trong các nhà trường như: “Đoàn kết tốt”; “Kỷ
luật tốt”, “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm''[2;136]. Kế thừa tư tưởng của Người
về giáo dục đạo đức cho học sinh và con người; nhiều nhà khoa học đã quan
tâm nghiên cứu về giáo dục đạo đức, xem đó như là động lực, tinh thần để xây
dựng và rèn luyện, hoàn thiện nhân cách con người trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định cũng như sự phát triển của xã hội.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc - một trong những nhà tâm lý học hàng
đầu của nước ta đã nêu lên các định hướng giá trị đạo đức Việt Nam trong thời
kỳ CNH-HĐH và bàn về thực trạng cũng như giải pháp ở tầm vĩ mô về giáo
dục - đào tạo con người Việt Nam theo định hướng trên. Về mục tiêu giáo dục,
tác giả Phạm Minh Hạc nêu rõ: “Hình thành cho mọi cơng dân có thái độ đúng
đắn, tình cảm, niềm tin, đạo đức trong sáng đối với bản thân mọi người, với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc, với mọi hiện tượng xảy ra xung quanh,...
tổ chức tốt giáo dục thế hệ trẻ, giúp họ để mọi người tự giác những chuẩn mực
đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành quy định, nỗ lực học tập rèn luyện, tích


12

cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp CNH- HĐH đất nước [8;169]
Dưới góc độ nghiên cứu về cơng tác giáo dục đạo đức đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước:
Ở phương Tây, thời Hy Lạp - La Mã cổ đại, nhà triết học Socrate (669399 TCN) đã nhìn nhận tín thiện của con người chính là cái gốc của đạo đức.
Cho nên, muốn xác định được chuẩn mực đạo đức thì phải bằng nhận thức lý
tính với phương thức, phương pháp nhận thức khoa học vốn [1,tr21].

Phương Đông cổ đại, Khổng Tử (551-479 TCN) vốn là nhà hiền triết nổi
tiếng của Trung Quốc.Ông cho rằng: “Tiên học lễ, hậu học văn”[1,tr32] vẫn
còn được lưu truyền mãi đến ngày hôm nay.
Ở nước ta, hơn ai hết, Bác Hồ là người đặc biệt quan tâm đến đạo đức
và GDĐĐ cho cán bộ, HS. Bác Hồ cho rằng đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng của người cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng ở mỗi người là kết
quả của sự rèn luyện trong thực tế, trong đấu tranh một cách bền bỉ và thường
xuyên. Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển củng cố,cũng như
ngọc mài càng ngày càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [13]. Tổng bí thư
Lê Duẩn đã nói: “Chủ yếu là do tình hình cách mạng của cả nước ta địi hỏi
chúng ta phải nói nhiều đến phẩm chất đạo đức người cộng sản. Đó khơng phải
là vấn đề cấp bách hiện nay do tình hình địi hỏi, mà cịn là vấn đề thường
xuyên cần phải giáo dục, cần phải nói đi, nói lại, từ đây đến chủ nghĩa cộng
san... ”[6].
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giai
đoạn CNH-HĐH thì vấn đề giáo dục đạo đức cho cán bộ, học sinh, vận động
viên lại càng được coi trọng. Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến cơng
tác này và đánh giá đó là nhiệm vụ hàng đầu của nền giáo dục XHCN. Văn
kiện Đại hội đại biểu lần thứ thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam nêu rõ:
“Tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u nước, chủ nghĩa Mác-


13

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục nhân văn lịch sử dân tộc và bản sắc
văn hóa dân tộc'' [4]. Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng trong
công tác tư tưởng hiện nay đã lưu ý: “Cần hết sức coi trọng nhiệm vụ phát triển
văn hóa, giáo dục, hướng vào việc xây dựng con người có ý thức trách nhiệm
cơng dân, có phẩm chất đạo đức tốt, có trí thức, có sức khỏe và lao động giỏi,

sống có văn hóa và tình nghĩa. Giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế...”
[17].
Để thực hiện tốt mục tiêu GDĐT theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đặt ra, Quốc hội nước ta đã
thông qua luật Giáo dục. Điều 23 và đều 25 trong Luật Giáo dục 2005 đều đề
cập đến mục tiêu cơ bản giáo dục đạo đức cho vận động viên phổ thông là:
“Giáo dục cho vận động viên tiểu học nhằm giúp vận động viên hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất thẩm mỹ.” [16]. Có thể khẳng định một lần nữa, ở bất kỳ giai đoạn
cách mạng nào, thì vấn đề giáo dục đạo đức cho cán bộ, học sinh, vận động
viên được Đảng, Nhà nước và các vị lãnh tụ, ln đặt lên vị trí hàng đầu trong
cơng tác giáo dục, vì nó là mục tiêu quan trọng nhất, là nền tảng của sự phát
triển xã hội [12,tr26].
Đối với ngành TDTT, liên tục trong những năm gần đây, nhằm kịp thời
chấn chỉnh những hiện tượng “xuống dốc” về đạo đức của vận động viên,
Huấn luyện viên,. Ủy ban Thể dục thể thao (cũ) đã có những văn bản chỉ đạo
kịp thời như: Chỉ thị 72-CT/UBTDTT; Chỉ thị số 182-CT/UBTDTT nhằm định
hướng cho công tác GDĐĐ đối với VĐV và Huấn luyện viên.
Chỉ thị 72 đã chỉ rõ vị trí và tầm quan trọng của cơng tác GDĐĐ cho vận
động viên. Chỉ khi thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức này mới có thể đạt
được mục tiêu trong giáo dục là đào tạo cán bộ TDTT vừa có trình độ chun
mơn giỏi, vừa có phẩm chất đạo đức trong sáng, phục vụ tốt cho sự nghiệp
phát triển đất nước. Chỉ thị cũng đã định hướng cho việc xây dựng bộ máy


14

điều hành cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng và đánh giá cao vai trị của tổ
chức Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, trong cơng tác GDĐĐ cho
VĐV [5].

Nghị quyết Trung ương VIII của Đảng nhấn mạnh: “Coi trọng GDĐĐ, ý
chí, lịng tự hào dân tộc cho VĐV. Tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng các VĐV
xuất sắc và phát huy vai trò nêu gương của họ đối với lớp VĐV kế cận và với
thanh thiếu niên nói chung. Kiên quyết đấu tranh khắc phục những hiện tượng
tiêu cực trong thể thao, nhất là trong bóng đá và các mơn thể thao thành tích
cao” [18].
Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, vấn đề đạo đức và
công tác giáo dục đạo đức ở bất kỳ giai đoạn nào, thời điểm nào cũng luôn
được các nhà nghiên cứu quan tâm. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước luôn
quan tâm đến việc trồng người, quan tâm đến phẩm chất và năng lực người
Việt Nam và coi đó là động lực cách mạng. Mục tiêu của thể thao Việt Nam
được Đảng và Nhà nước xác định là làm sao cho dân cường, nước thịnh, xã hội
công bằng và văn minh.
Vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo đức cho vận động viên võ cũng có
một số tác giả nghiên cứu, tuy nhiên ở Bình Định chưa có tác giả nào nghiên
cứu. Do đó, nghiên cứu để tìm ra các biện pháp khả thi, hữu hiệu cho công tác
quản lý giáo dục đạo đức cho vận động viên trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh
Bình Định là vấn đề mang tính cấp thiết. Việc nghiên cứu, đề xuất các biện
pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho vận động viên có ý nghĩa to lớn về
mặt lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng quản lý công tác giáo
dục đạo đức cho vận động viên trung tâm võ thuật cổ truyền tỉnh Bình Định.
1.2.

Các khái niệm cơ bản

1.2.1.

Đạo đức

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm hệ thống

những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực xã hội.


15

Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hơị, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội.
Dưới góc độ Triết học: “ Đạo đức là một trong những hình thái sớm
nhất cuả ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực đều tiết
hành vi cuả con người, trong quan hệ với người khác và cộng đồng. Căn cứ
vào những năm quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi con
người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa, nghĩa vụ, danh
dự”[19,tr145].
Dưới góc độ Pháp luật: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, những quy tắc
sinh hoạt xã hội, những quy tắc hành vi con người,... những quy tắc đó quyết
định nghĩa vụ và thái độ của con người đối với nhau và đối với xã hội''
[21,tr117].
Khái niệm đạo đức còn liên quan chặt chẽ với các phạm trù triết học,
pháp luật chính trị xã hội” [3,tr118]. Do đó, mỗi người khi sống trong xã hội
đều có rất nhiều mối quan hệ phong phú, phức tạp. Các mối quan hệ đó yêu
cầu mỗi người phải có cách giao tiếp, ứng xử phù hợp với lợi ích của mọi
người, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Như vậy, vấn đề đạo
đức nảy sinh trên cơ sở sự đều hành vi của mỗi cá nhân trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Mối quan hệ mật thiết giữa đạo đức - pháp luật - chính trị được thể hiện
ở chỗ những quy định cụ thể bằng văn bản và Nghị quyết, đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa luân lý. Tư tưởng chính trị
của một nhà nước có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử; tuy nhiên, yếu

đạo đức lại được tồn tại lâu dài, bền bỉ kể cả khi phương pháp sản xuất của xã
hội có thay đổi. Qua từng chế độ xã hội khác nhau, những yếu tố đạo đức tiến
bộ được phát huy, những yếu tố lạc hậu tất yếu sẽ bị triệt tiêu bởi tư tưởng


16

đúng đắn của Nhà nước.
Đạo đức chính là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt
nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc
sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, biết phân biệt thiện - ác, biết có những
hành động ứng xử phù hợp.
Như vậy, đạo đức là một phạm trù lịch sử có tính giai cấp, thuộc lĩnh
vực đời sống tinh thần, là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, trên cơ sở
tồn tại xã hội. Đạo đức có ba chức năng:
- Chức năng nhận thức;
- Chức năng giáo dục;
- Chức năng điều chỉnh hành vi.
Chức năng nhận thức của đạo đức: giúp con người nhận thức xã hội về
mọi mặt. Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức xã hội có trở thành
các quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay khơng, đều đó khơng chỉ phụ
thuộc vào tính đúng đắn, tư tưởng đạo đức, của các chuẩn đạo đức vào việc
tuyên truyền, giáo dục trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng
tiếp nhận và chuyển hóa trong hoạt động nhận thức và hành vi của mỗi cá nhân
nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi: có vai trị hết sức quan trọng trong đời
sống đạo đức. Nó giúp cho các hành vi của con người phù hợp với chuẩn mực
và lợi ích chung của tồn xã hội. Muốn có được sự đều chỉnh hợp lý mỗi con
người không chỉ dừng lại ở những mong muốn mà quan trọng là biến những
mong muốn tốt đẹp thành những hoạt động thực tiễn có hiệu quả.

Với tư cách là ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội như là yêu
cầu chung của xã hội. Những yêu cầu chung đó được thể hiện trong một số
lĩnh vực của đời sống như mục đích sống của mỗi cá nhân, trong các mối quan
hệ về hôn nhân, trong thái độ thể hiện với môi trường sống,...
Tóm lại, để xây dựng xã hội mới, chúng ta đang cần những con người


17

phát triển toàn diện cả đức và tài. Để thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển
xã hội trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước, nguồn lực con người là vốn q
báu nhất, có vai trị quyết định nhất,. thì các giá trị đạo đức lại càng phải được
giữ gìn, kế thừa, bằng sự kết hợp những truyền thống đạo đức cao quý của dân
tộc và giao thoa những tinh hóa văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới...
Giáo dục đạo đức cho mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ, HSSV lòng yêu nước
Chủ nghĩa xã hội, yêu quê hương bắt nguồn từ lao động sản xuất, từ sự cần cù,
sáng tạo trong nghề nghiệp, từ tinh thần sống và làm việc theo Hiến pháp và
Pháp luật để họ thật sự trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
1.2.2.
1.2.2.1.

Giáo dục đạo đức
Giáo dục

Theo nghĩa rộng: Giáo dục là một q trình tồn vẹn hình thành nhân
cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các
mối quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và
chiếm lĩnh những kinh nghiệm của xã hội loài người [9,tr30].
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có tổ chức, có
kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm hình thành thái độ, hành vi đạo đức cho

thanh thiếu niên nhân cách mà xã hội đương thời đang mong đợi [9,tr31].
Như vậy để giáo dục hồn thành trọn vẹn chức năng của mình trong q
trình hình thành nhân cách của người học thì quá trình dạy và q trình GDĐĐ
ln bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhằm tạo nên tính thống nhất, tồn vẹn của quá
trình giáo dục chung và phát huy hiệu quả của công tác GDĐT.
1.2.2.2.

Giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức về bản chất là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực
đạo đức, từ những địi hỏi bên ngồi xã hội đối với cá nhân thành những đòi
hỏi bên trong cá nhân, hình thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng
giáo dục.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Giáo dục đạo đức là quá trình tác


18

động tới học sinh để hình thành cho ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức, mục
đích cuối cùng là tạo lập được những thói quen hành vi đạo đức” [24].
Giáo dục đạo đức một mặt khơng chỉ hình thành cho con người những
quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã
hội mà cịn giúp con người có khả năng lựa chọn và đánh giá đúng các hiện
tượng xã hội, cũng như tự đánh giá, suy nghĩ và quyết định hành vi của chính
bản thân mình.
Giáo dục đạo đức cho vận động viên là một quá trình lâu dài, liên tục về
thời gian, rộng về không gian, chịu ảnh hưởng từ mọi lực lượng của xã hội,
trong đó trung tâm chiếm giữ một vị trí quan trọng.
Giáo dục đạo đức trong trung tâm được đặc biệt xem trọng vì thơng qua
q trình tác động tới người học nhằm hình thành cho họ ý thức, tình cảm và

niềm tin đạo đức, mục đích cuối cùng và quan trọng nhất mà chúng ta muốn
hướng tới là tạo lập được cho vận động viên có những thói quen, hành vi đạo
đức.
Ta nhận ra rằng, giáo dục đạo đức trong trung tâm võ là một quá trình
giáo dục bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể; chỉ khi chúng ta đặt nó trong
mối quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục bộ phận khác như giáo dục
kỹ năng sống, giáo dục thể chất, giáo dục đạo đức nghề nghiệp thì giáo dục
đạo đức mới phát huy hết vai trị của nó.
Giáo dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính trị, tư
tưởng, bởi tác dụng lớn nhất của giáo dục chính trị là hình thành cơ sở thế giới
Mác - Lênin và định hướng chính trị - xã hội theo quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng Sản Việt Nam cho ý thức và hành vi đạo đức của mỗi các nhân.
Giáo dục đạo đức cho vận động viên còn được hiểu là quá trình hình
thành và phát triển các phẩm chất đạo đức cũng như việc hoàn thiện nhân cách
của Vận động viên dưới tác động ảnh hưởng có mục đích, được tổ chức theo
kế hoạch, sự lựa chọn kỹ càng về nội dung - phương pháp - hình thức, giáo dục


19

phù hợp với lứa tuổi, với vai trò chủ đạo của giáo dục. Để từ đó chúng ta định
hướng cho vận động viên biết lựa chọn cho những hành vi ứng xử đúng mực
trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; giữa cá nhân với cộng đồng,
với xã hội, với lao động, với tự nhiên. Giáo dục cho VĐV xây dựng cơ sở thế
giới quan Mác - Lênin, những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta như lịng
u nước, sự bao dung, tình đồn kết dân tộc, tinh thần hiếu học, lịng kính u
cha mẹ và biết ơn thầy cô,... Giáo dục đạo đức phải luôn có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với giáo dục chính trị tư tưởng, với giáo dục pháp luật; vì khơng
thể góp phần cho đất nước giàu mạnh khi mỗi cá nhân không phải là một
người công dân tốt và thiếu đi quá trình sáng tạo, chủ động, tự giáo dục của

bản thân họ.
1.2.3.
1.2.3.1.

Quản lý giáo dục
Quản lý

Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học. Các
nhà nghiên cứu từ các góc độ tiếp cận khác nhau mà có những quan niệm khác
nhau về khái niệm này.
Xét về mặt chức năng, quản lý là hệ thống tổ chức. Theo Mary Parker
Follet (Mỹ): Quản lý là nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua
người khác. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng: Quản lý là một quá trình
kỹ thuật và xã hội nhằm thực hiện các nguồn tác động tới hoạt động con người,
nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Xét quản lý với tư cách là một hoạt động: “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đề ra” [10].
Từ góc độ của tâm lý học: Quản lý là sự tác động có định hướng, có
mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thơng tin của chủ thể đến khách thể của
nó.


20

Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy nội lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài
tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức
với hiệu quả cao nhất” [14]

Từ các khái niệm về quản lý nêu trên, ta thấy có những đặc điểm chủ
yếu sau đây: hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một
nhóm xã hội. Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích; nó bao
gồm hai bộ phận cấu thành: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Hoạt động
quản lý là những tác động phối hợp có tổ chức và thống nhất nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức.
1.2.3.2.

Quản lý giáo dục

Giáo dục là hiện tượng xã hội, do đó quản lý giáo dục là loại hình của
quản lý xã hội.
Theo PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan
là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh
phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế
hệ trẻ mà cho mọi người, tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho
nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo dục quốc
dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân” [22tr124].
Cũng như các hoạt động quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là
hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý nhằm theo đuổi mục đích của mình.
Mục đích giáo dục hướng tới sự tồn vẹn của sản phẩm giáo dục, sản phẩm
mang giá trị chân - thiện - mỹ theo lý tưởng xã hội. Quản lý giáo dục nhằm
mục đích tổ chức các hoạt động giáo dục để hiện thực hóa mơ hình nhân cách
con người thời đại, khẳng định giá trị của nó với lịch sử xã hội. Hướng tới mục
tiêu giáo dục, “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định trên


21


cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ thống
giáo dục quốc dân" [20r12].
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống
giáo dục đạt kết quả mong muốn bằng cách có hiệu quả nhất.
1.2.4.

Quản lý cơng tác giáo dục đạo đức.

Quản lý công tác GDĐĐ là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm giúp hoạt động GDĐĐ đạt được kết quả mong muốn.
Quản lý công tác giáo dục đạo đức là những tác động có mục đích, có kế
hoạch của nhà quản lý đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường nhằm huy động họ tham gia, quan tâm và có nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng, tính cấp thiết của cơng tác giáo dục đạo đức trong xã hội; nắm
vững và vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để hướng cho học sinh cũng như mọi thành viên trong xã hội có thái
độ, hành vi đúng đắn đối với công tác giáo dục đạo đức trong xã hội, góp phần
phát triển nhân cách người học một cách tồn diện, biết phê phán những việc
làm xấu, lên án những biểu hiện tiêu cực trái với quy định của luật pháp. Đẩy
mạnh quá trình tự rèn luyện, tu dưỡng, tự hồn thiện bản thân. Chính vì vậy,
đạo đức ln là thành tố quan trọng nhất của nhân cách, bất cứ quốc gia nào
trên thế giới cũng xem trọng quá trình giáo dục đạo đức và nhiệm vụ cao cả
của quá trình này là phải làm cho giáo dục đạo đức tác động trực tiếp đến tất cả
mọi thành viên trong xã hội để chính họ tự có ý thức, xây dựng tình cảm và
niềm tin đạo đức. Từ đó có những thói quen, hành vi đạo đức phù hợp với yêu
cầu, chuẩn mực của toàn xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa quản lý cơng tác giáo dục đạo đức:
là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm

đưa hoạt động giáo dục đạo đức đạt kết quả mong muốn với những biện pháp
hiệu quả nhất.


22

1.2.5.

Vận động viên võ thuật

Vận động viên là những người được đào tạo thi đấu các mơn thể thao
địi hỏi sức bền, sức khỏe và tốc độ; vận động viên có thể là người thi đấu
nghiệp dư và chuyên nghiệp.
- Vận động viên thể thao chuyên nghiệp: các môn thể thao chuyên nghiệp;
ngược lại với các môn thể thao nghiệp dư là các môn thể thao mà vận
động viên nhận được thù lao nhờ thành tích họ đạt được. Tinh thần thể
thao chuyên nghiệp trở nên quan trọng hơn nhờ sự kết hợp của nhiều
yếu tố. Truyền thông đại chúng và sự gia tăng thời gian rãnh mang tới
lượng khán thính giả cao hơn vì vậy mà các tổ chức và đội thể thao có
thể thu về nhiều tiền hơn và giúp nhiều vận động viên có thể trang trải
kinh phí và duy trì sự nghiệp thể thao của mình, có đủ thời gian tập
luyện cần thiết cho việc cải thiện các kỹ năng, sức khỏe và kinh nghiệm
sao cho phù hợp với trình độ thành tích của thế giới. Sự điêu luyện trong
thi đấu cũng giúp tăng độ phổ biến của các mơn thể thao nói riêng và thể
thao nói chung. Hầu hết các mơn thể thao được thi đấu một cách chuyên
nghiệp ngày nay đều có số lượng người chơi nghiệp dư cao hơn rất
nhiều lần so với số vận động viên chuyên nghiệp.
- Vận động viên thể thao nghiệp dư: các môn thể thao nghiệp dư là các
mơn thể thao trong đó người chơi tham gia vào một cách đầy đủ hoặc
khá đầy đủ mà không nhận tiền công. Sự khác biệt giữa người tham gia

thể thao nghiệp dư và người tham gia thể thao chuyên nghiệp, những
người được trả thù lao cho lượng thời gian mà họ thi đấu và tập luyện.
Trong các môn thể thao có sự có mặt của người chơi chun nghiệp thì
những người thi đấu chuyên nghiệp sẽ tham gia ở trình độ chơi cao hơn
các thí sinh nghiệp dư. Tuy vậy, phần lớn người chơi thể thao trên thế
giới là nghiệp dư. Tính nghiệp dư trong thể thao từng là quan niệm phổ
biến trong thế kỷ 19, đặc biệt là ở tầng lớp thượng lưu, nhưng bắt đầu


23

phai nhạt đi trong thế kỷ 20 khi thể thao chuyên nghiệp phát triển cùng
sự thương mại hóa thể thao nghiệp dư và trong trường học, và ngày càng
ít tổ chức thể thao coi trọng quan niệm này ngay cả khi trong tên tổ chức
của họ có chữ "nghiệp dư".
Vận động viên võ thuật là vận động viên được đào tạo để thi đấu về võ
thuật.
Võ thuật là kĩ thuật hay phương thức dùng sức mạnh (nội lực, ngoại lực)
để chiến thắng đối phương. Với tư cách là một nghệ thuật vận động sản sinh ra
trong đấu tranh giữa con người với thiên nhiên (các loài thú dữ), con người với
kẻ thù bên ngoài (địch thủ), và con người với kẻ thù bên trong chính bản thân
anh ta (bệnh tật); võ thuật hướng đến mục tiêu đem lại cho con người sự chiến
thắng trong các cuộc chiến, rèn luyện sức khỏe, và phục vụ một số nhu cầu cần
thiết tuỳ thuộc vào từng bộ môn. Trải theo thời gian, võ thuật hiện đại khơng
cịn nhấn mạnh vai trị chiến đấu và chiến thắng bằng mọi giá như trước, mà đã
chú trọng hơn nhiều đến các mục tiêu khác như để rèn luyện sức khỏe, thực thi
quyền tự vệ chính đáng khi hữu dụng. Một số môn phái được đưa ra thi đấu
như những môn thể thao biểu diễn hoặc đối kháng với những điều luật khắt
khe nghiêm cấm sử dụng các địn đánh hiểm, độc.
Tuy có thể đồng nhất "Võ" và "Võ thuật", nhưng thực ra hai khái niệm ít

nhiều vẫn có ranh giới. "Võ", nói chung chỉ lối đánh nhau bằng tay khơng hay
binh khí, và đơi khi, nhằm chỉ một bộ mơn đối lập với "văn"; cịn "võ thuật" lại
thiên về nghệ thuật vận động hơn. Theo đó võ thuật đề cao phương pháp, cách
thức, sự khéo léo, kĩ thuật, nghĩa là sự phát huy toàn diện sức mạnh của con
người để chiến thắng mọi địch thủ mà không chỉ là những đối thủ trực diện
trên sàn đấu. Bên cạnh các thuật ngữ trên cịn có thuật ngữ "Võ nghệ", vừa có
nội hàm rất gần với thuật ngữ võ thuật, vừa mang ý nghĩa nghề nghiệp, khẳng
định võ cũng là một nghề trong xã hội - nghề võ. Cũng không thể không nhắc
đến một khái niệm thường được các võ đường và các võ sư đề cao, thuật ngữ


24

"Võ đạo", nhấn mạnh tính nhân văn, văn hóa trong võ thuật, khẳng định tột
đỉnh của võ là văn, đằng sau võ học là cội nguồn triết học, hạt nhân đạo đức và
chiều sâu tôn giáo, đồng thời đưa sự khốc liệt có tính bản chất của võ, một
cơng cụ để tàn sát, xuống hàng thứ yếu.
Trong đời sống xã hội còn tồn tại khái niệm “võ học”, đối lập với khái
niệm “võ biền”. Võ học là khái niệm được dùng rất hạn chế trong đời sống võ
thuật tại Việt Nam hiện nay. Võ học chưa được xem là một ngành học chính
thống trong ngành giáo dục & đào tạo. Võ học là sự nghiên cứu, phân tích, hệ
thống hóa,... tất cả mọi mặt của đời sống võ thuật dưới ánh sáng của các
chuyên ngành khoa học (tự nhiên & xã hội) khác như vật lý học, giải phẫu học,
sinh lý, sinh hóa, sinh cơ, tâm lý học, y học TDTT.... Hầu hết các bài viết hoặc
sách, báo về võ thuật hiện nay tại Việt Nam của các võ sư hoặc HLV danh
tiếng đều ít khi đề cập đến thành tựu nghiên cứu của lĩnh vực này. Do đó, đời
sống võ thuật Việt Nam còn khá xa lạ với các thuật ngữ, khái niệm hoặc cơng
trình nghiên cứu của các nhà khoa học về võ thuật (có lẽ có nguyên nhân sâu
xa từ trình độ nhận thức, lý luận & nghiên cứu của giới võ thuật hiện nay).
Những người học võ thuật có suy nghĩ tự vệ cho bản thân mình, những vị võ

sư nổi tiếng cũng có thể sử dụng mơn võ mà mình được học vào lãnh vực kinh
doanh: Điện ảnh, dạy học
1.3.

Công tác giáo dục đạo đức cho vận động viên võ thuật cổ truyền

Trung tâm võ thuật

1.3.1.

Khái quát về đặc điểm tâm sinh lý của vận động viên võ thuật

Giáo dục đạo đức là một hoạt động có mục đích của các nhà sư phạm
nhằm hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho VĐV. Để giáo dục đạo đức có
hiệu quả, các nhà quản lý giáo dục cần phải nắm được đặc điểm tâm lý nhận
thức lứa tuổi của vận động viên. Từ đó lựa chọn phương pháp giáo dục thích
hợp.
Vận động viên vào học tại trung tâm võ thuật chủ yếu là vận động viên


25

đang trong độ tuổi giáo dục phổ thông và một số VĐV Đại học ( trung học cơ
sở và trung học phổ thông); ở lứa tuổi này các em gặp những hồn cảnh mới
như: nhiều mơn học mới hơn, phải thực hiện yêu cầu không chỉ của một giáo
viên mà của nhiều giáo viên, phải giải quyết nhiều nhiệm vụ học tập hơn, phải
hoạt động độc lập với khối lượng công việc tăng một cách đáng kể.
Giai đoạn này các em có bước phát triển nhảy vọt cả về tinh thần lẫn
thể chất, đó là giai đoạn bước từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành. Trong quá
trình học tập, các em thích được giao cơng việc cụ thể, thích ngợi khen và biểu

dương trước tập thể. Nhu cầu hiểu biết đặt ra như một yếu tố khách quan, có
hồi bão hoạt động năng nổ, thích tiếp thu cái mới, tiếp thu rất nhanh nhưng lại
chóng chán hay quên.
Những phẩm chất mới về đạo đức, trí tuệ, ý chí, tình cảm, phong cách và
các thái độ về công việc được giao sự phát triển của các em trong giai đoạn
này là tương đối phức tạp, tâm lý của các em diễn ra biến đổi mâu thuẫn với
nhau xuất hiện những đột biến.
Ở lứa tuổi này, trí nhớ cũng có những biến đổi căn bản, năng lực ghi nhớ
có chủ định tăng lên rõ rệt, hiệu suất ghi nhớ tăng cao, cách ghi nhớ cũng được
cải tiến, tính hệ thống trong việc thu lượm tri thức được tăng lên nhờ việc thiết
lập những mối quan hệ liên tưởng ngày càng phức tạp sâu sắc so với nhi đồng,
ghi nhớ trừu tượng của thiếu niên có tiến bộ hơn hẳn. Trong giai đoạn lứa tuổi
này, biểu hiện cơ bản nhất là hình thành và phát triển giới tính, nên nó làm ảnh
hưởng tới cá tính của các em, tình cảm rất sâu sắc dễ bị kích động, khiến cho
bản thân khơng tự kiềm chế nổi mình, đơi khi bản chất của kích động mạnh
làm cho các em rất dễ đến mức quá trớn.
Các em có tính tự trọng cao, dễ dẫn đến tự ái, bước đầu hình thành
nguyện vọng và sự địi hỏi về nguyện vọng tự lập, hình thành lịng mến mộ,
kính trọng và sự ham thích, nói cách khác, các em đã hình thành các nhân tố
tâm lý bên trong mà biểu hiện là đã hình thành động cơ thích bắt chước các


×