Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học huyện chư sê, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.21 KB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HUỲNH THỊ THANH TUẤN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã ngành: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN MINH TIẾN

Bình Định - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả
cho phép sử dụng và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ một cơng trình nào
khác./.
rri r

• *> 1

/V

w



Tác giả luận văn

Huỳnh Thị Thanh Tuấn


LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành và tấm lịng biết ơn sâu sắc nhất, tơi xin
trân trọng cảm ơn:
Lãnh đạo trường Đại học Quy Nhơn, Thầy giáo, Cô giáo khoa Tâm lýGiáo dục và Công tác xã hội trường Đại học Quy Nhơn;
PGS.TS. Phan Minh Tiến, người thầy - người hướng dẫn khoa học đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, hướng dẫn tơi hồn thành nghiên cứu đề tài luận văn.
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Chư Sê; Ban giám hiệu, q Thầy
giáo, Cơ giáo trường Tiểu học Lê Hồng Phong và các trường Tiểu học trên địa
bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, hỗ trợ,
cung cấp số liệu trong quá trình thực hiện luận văn.
Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, động viên, giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi để tơi hồn thành luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do khả năng còn hạn chế nên chắc chắn
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong q Thầy giáo, Cơ giáo
và các bạn đồng nghiệp chỉ dẫn, góp ý để luận văn được hồn thiện hơn./.
Bình Định, tháng 7 năm 2017
rp f _

_•2

1 /s

Tác giả luận văn


Huỳnh Thị Thanh Tuấn


MỤC LỤC
••
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
1.3.1.
1.3.2.

Đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học và vấn đề giáo dục đạo

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (bản sao)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CBQL

Cán bộ quản lý

CMHS


Cha mẹ học sinh
Cơng nghiệp hóa, hiện đại

CNH, HĐH

hóa

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

GDNGLL

Giáo dục ngồi giờ lên lớp

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

QLGD

Quản lý giáo dục

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở


THPT

Trung học phổ thông

TNXH

Tệ nạn xã hội

UBND
XHCN

Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Hệ thống các trường phổ thơng thuộc phịng Giáo dục - Đào tạo


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thời kì cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế, đất nước ta đã có nhiều chuyển biến về mặt kinh tế, làm thay đổi bộ
mặt xã hội. Tuy nhiên, làm thế nào đẩy nhanh CNH - HĐH vừa giữ vững, vừa
phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, điều đó tùy thuộc vào chính con người
Việt Nam, tùy thuộc vào sự giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân
tương lai của đất nước.

Đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây
dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người. Vì vậy, ở bất cứ quốc gia nào, thời
đại nào, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ cũng được coi trọng. Đối với nhà
trường tiểu học, giáo dục đạo đức là một mặt quan trọng của hoạt động giáo
dục nhằm hình thành những con người có đầy đủ phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ
và lao động nhằm phát triển nhân cách tồn diện. Đó cũng là nền tảng của giáo
dục tồn diện. Vì vậy cơng tác giáo dục trước tiên là phải chăm lo bồi dưỡng
đạo đức cho học sinh, coi đó là căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân cách,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bây giờ phải học, học để yêu tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu khoa học và yêu đạo đức”.
Đối với sự phát triển xã hội có nhiều biến động hiện nay, trẻ em có sự
phát triển sớm về trí tuệ, sự gia tăng khối lượng tri thức của trẻ em ngày nay có
thể xem như sự gia tốc phát triển tâm lý của trẻ. Khuynh hướng của trẻ em
ngày càng được mở rộng, năng khiếu, nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, thẩm mỹ,...
trở nên phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó trẻ được tiếp nhận nhiều luồng
thơng tin nhờ sự tăng dần các phương tiện thông tin đại chúng. Vì vậy, nhà
trường cần phối hợp với các lực lượng giáo dục khác như gia đình, cộng đồng
thường xuyên và chặt chẽ để xây dựng một môi trường giáo dục thống nhất,
nhằm thực hiện tốt mục tiêu và nguyên lý giáo dục.


8

Huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai có 18 trường tiểu học, trong đó có 4 trường
đóng tại trung tâm huyện còn lại tập trung các xã và một số điểm làng vùng
sâu vùng xa, đa phần là học sinh dân tộc thiểu số. Tuy rằng điều kiện kinh tế
của người dân có khá hơn trước đây nhưng nhận thức giáo dục nơi đây vẫn
chưa cao nên việc quan tâm đến giáo dục đạo đức con cái của nhiều bậc phụ
huynh còn nhiều hạn chế. Nhiều bậc phụ huynh mải mê cơng việc đồng áng,
khơng có thời gian để trị chuyện cùng con, nuông chiều thỏa mãn mọi nhu cầu

của trẻ và khoán trắng việc giáo dục con cái cho nhà trường. Việc phối hợp
giữa nhà trường với gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh mới chỉ
bó hẹp trong phạm vi nhà trường nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp,
chưa toàn diện đầy đủ dẫn đến chất lượng không cao.
Từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Biện pháp quản lý công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai” là cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đánh giá thực trạng quản lý cơng tác
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học. Trên cơ sở đó, đề xuất các
biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.

Khách thể nghiên cứu

Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường tiểu học.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học sinh các trường Tiểu học
huyện Chư Sê còn hạn chế, bất cập... Nguyên nhân của những tồn tại này có


9


thể xuất phát từ cả hai môi trường giáo dục: nhà trường và gia đình học sinh.
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích thực trạng, nghiên cứu cơ sở lý luận sẽ xác
lập được các biện pháp quản lý phù hợp góp phần giúp nhà trường quản lý có
hiệu quả hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về GDĐĐ và quản lý công tác GDĐĐ cho
học sinh tiểu học.
- Đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức và quản lý công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
- Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh ở các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.

Phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài, phân tích, tổng hợp, phân loại
các văn kiện, các tài liệu lý luận quản lý nhằm xây dựng có sở lý luận về
GDĐĐ và công tác quản lý GDĐĐ.
6.2.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Lập phiếu hỏi các CBQL, giáo
viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh nhằm đánh giá thực trạng công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh và thực trạng quản lý công tác này ở các trường tiểu
học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
- Phương pháp phỏng vấn: trao đổi với ban giám hiệu, giáo viên, cha mẹ

học sinh và học sinh để bổ sung các thông tin về thực trạng.
- Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến một số cán bộ quản lý giáo dục.
6.3.

Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý, phân tích các số liệu
nhằm định lượng kết quả nghiên cứu.


10

7. Phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian nghiên cứu: 06/2016 - 06/2017
+ Địa điểm nghiên cứu: Các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai.
+ Nội dung
Đề tài luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc quản lý công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh ở các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong
giai đoạn hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn: Luận văn gồm 3 phần
8.1.

Mở đầu

8.2.

Nội dung nghiên cứu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học

sinh trường tiểu học
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức và quản lý công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai.
Chương 3: Các biện pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường tiểu học huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
Kết luận và khuyến nghị


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1.

Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành và phát triển
cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Trong lịch sử phát
triển của xã hội đạo đức luôn được mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi thời đại
quan tâm. Song hành cùng sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và khoa học
cơng nghệ, đồng thời nó giúp nhân loại xích lại gần nhau hơn, hịa nhập giải
quyết những vấn đề tồn cầu, đưa xã hội lồi người tiến cao hơn. Chính vì vậy,
trong lịch sử rất nhiều người quan tâm nghiên cứu đạo đức, để góp phần hồn
thiện nhân cách con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, đã có nhiều nhà nghiên cứu khác
nhau và đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức, GDĐĐ, quản lý
GDĐĐ: Ở phương Tây, Aristote (384 - 322 TCN), Nhà bác học Hy Lạp thời
thượng cổ đã nói câu chí lý: Trước tiên học đạo đức rồi sau đó học tri thức.
khơng có đạo đức, tri thức sẽ khó thành đạt. Xixêrơ nói: Triết lý về đạo đức là
sự chuẩn bị tư duy để tiếp nhận hạt giống trí tuệ [26, tr.52,53]. Thời Hy Lạp La Mã cổ đại, nhà triết học Socrate (469 - 399 TCN) cho rằng, cái gốc của đạo

đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính thiện ấy được lan tỏa
thì con người sẽ có hạnh phúc. Muốn xác định được chuẩn mực đạo đức , theo
Socracte con người phải tự ý thức, phải bằng nhận thức lý tính với phương
pháp khoa học nhận thức [5, tr.21].
Ở phương Đông, thời cổ đại, nhà hiền triết của Trung Quốc là Khổng Tử
(551 - 479 TCN) đã xây dựng một xã hội dựa trên học thuyết “Nhân - Lễ Chính danh”. Trong đó, “Nhân” (lịng thương người) là yếu tố hạt nhân, là đạo
đức cơ bản của con người. Đứng trên lập trường coi trọng GDĐĐ, ông cha ta


đã đưa ra câu nói nổi tiếng “Tiên học lễ, hậu học văn” cho đến ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị đối với nhiều nền giáo dục trên thế giới [5, tr.21].
Thế kỉ XX, một số nhà giáo dục nổi tiếng của Liên Xơ (cũ) cũng có
nhiều nghiên cứu về GDĐĐ cho học sinh như: A.S Macarenco, V.A
Xukhomlinxky,... Những nghiên cứu mới của họ đã đặt nền móng cho việc
GDĐĐ học sinh tạo ra những con người mới trong giai đoạn xây dựng CNXH
ở Liên Xô.
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới. Tư tưởng giáo dục của Người có ý nghĩa to lớn đối với sự phát
triển thời đại mới. Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng ở mỗi người là kết quả
của sự rèn luyện trong thực tế, trong đấu tranh một cách bền bỉ, thường xuyên.
Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời xuống. Nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố, cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [15]. Bác còn căn dặn Đảng ta
phải chăn lo GDĐĐ cách mạng cho doàn viên, thanh niên, học sinh thành
những người vừa “hồng”, vừa “chuyên” thừa kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
sau này.
Thời gian qua, vấn đề đạo đức, GDĐĐ và quản lý công tác GDĐĐ cho
học sinh, sinh viên đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục đặt biệt quan
tâm. Các cơng trình nghiên cứu có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực
này của các tác giả Phạm Minh Hạc, Đặng Vũ Hoạt, Thái Duy Tuyên, Hà Thế

Ngữ, Phạm Hoàng Gia, Phạm Khắc Chương, Vũ Trọng Dung, Đặng Quốc Bảo,
Hà Nhật Thăng,. Trong đó, có thể kể: “Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin”
của Vũ Trọng Dung (chủ biên), 2006; “Giáo dục đạo đức trong nhà trường”
của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, 1988; “Giáo trình đạo đức học” của Phạm
Khắc Chương, Hà Nhật Thăng, 2001; “ Quản lý trường học” của Vũ Khiêu
(chủ biên), 1974; “Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” của Hà Nhật
Thăng, 1998; “ Quản lý trường học” của Hà Sĩ Hồ”, 1985; “Những vấn đề cơ


bản về quản lý giáo dục” của Đặng Quốc Bảo, 1998; “Những đặc trưng của
quá trình quản lý giáo dục trong điều kiện hiện nay” của Trần Kiểm, 1988,...
Có thể nói, các tác giả đã nghiên cứu về GDĐĐ với những cách tiếp cận
khác nhau. Tác giả Phạm Minh Hạc và các cộng sự của ông đã nghiên cứu về
sự phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đã coi trọng về vấn đề đạo đức, GDĐĐ và các giải pháp nâng cao hiệu
quả GDĐĐ trong giai đoạn hiện nay [11].
Tác giả Hà Thế Ngữ đã đề cập đến vấn đề tổ chức q trình GDĐĐ
thơng qua giảng dạy các mơn khoa học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội và
nhân văn, giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức
cách mạng, hướng dẫn các hành vi đạo đức cho học sinh. Tác giả Phạm Hoàng
Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa nhận thức khoa học với GDĐĐ, những biểu
hiện nhân cách trong lối sống và đưa ra dự báo mơ hình nhân cách thanh niên
năm 2000.
Trước sự biến đổi sâu sắc của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế thị trường,
sự hội nhập và những vấn đề tồn cầu hóa, nhân tố con người có vai trị đặc
biệt trong việc giải quyết các xung đột về kinh tế, văn hóa, xã hội, sắc tộc, tôn
giáo, nạn ô nhiễm môi trường. Cho nên, đã có nhiều cơng trình khoa học đi sâu
vào nghiên cứu công tác GDĐĐ, đặc biệt công tác GDĐĐ cho học sinh. Tác
giả Thái Duy Tuyên [32] đặc biệt nhấn mạnh rằng, một vấn đề cấp bách trong
giáo dục hiện nay là tăng cường cơng tác GDĐĐ. Sau khi phân tích sự biến đổi

kinh tế - xã hội, thực trạng đạo đức học sinh hiện nay, tác giả đề xuất một số
đổi mới về nội dung và phương pháp GDĐĐ và đặc biệt là việc quản lý của gia
đình đối với học sinh. Với mỗi góc độ khác nhau, cơng tác GDĐĐ và quản lý
cơng tác GDĐĐ có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, đó chính là những vốn
liếng rất cần thiết cho sự nghiệp phát triển giáo dục. Bởi vì, trong quá trình
giáo dục song hành với dạy chữ là việc dạy người.
Trong thời gian gần đây, có nhiều tác giả luận văn thạc sĩ nghiên cứu về
thực trạng đạo đức và biện pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh của hiệu trưởng


ở các trường THCS, THPT như tác giả Huỳnh Hoàng Chung nghiên cứu tại
trường THCS huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp; Lê Thị Minh Trang nghiên
cứu tại trường THCS huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; Huỳnh Bá Tam nghiên
cứu tại trường THPT ở thành phố Đà Nẵng; Nguyễn Thị Thanh Hằng nghiên
cứu tại các trường THPT Mỹ Vân, huyên Tam Nông, tỉnh Phú Thọ,... Tuy
nhiên công tác GDĐĐ cho học sinh tiểu học hiện nay đang đứng trước nhiều
vấn đề cần được quan tâm giải quyết và chưa được quan tâm nghiên cứu.
Huyện Chư Sê là trung tâm vùng kinh tế động lực phía Nam của tỉnh
Gia Lai, đã và đang nổ lực xây dựng một đô thị văn minh - năng động - an
toàn, tương xứng với vị thế, tiềm lực sẵn có. Cùng với sự phát triển kinh tế
mạnh mẽ thì việc đầu tư cho giáo dục cũng được huyện nhà quan tâm, đặc biệt
về cơ sở vật chất nhà trường, các phong trào dạy và học luôn được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, với bối cảnh phát triển xã hội hiện đại và quá trình hội nhập quốc
tế, nhiều luồng văn hóa mới xâm nhập vào Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình hình thành đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ. Hiện nay trên địa bàn
đã xuất hiện những biểu hiện đạo đức thiếu lành mạnh, khơng trong sáng, biểu
hiện thiếu văn hóa, suy thối đạo đức của một bộ phận trong cộng đồng dân
cư, trong xã hội làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục trong nhà
trường. Hướng nghiên cứu của đề tài luận văn là tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện cơ sở lý luận, đồng thời đề xuất những biện pháp hợp lý, khả thi trong

quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh Tiểu học ở địa bàn huyện Chư Sê, góp
phần giáo dục tồn diện cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục tương
xứng với tiềm lực kinh tế - xã hội của huyện nhà.
1.2.

Các khái niệm cơ bản

1.2.1.

Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường

1.2.1.1. Quản lý
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ bản chất của hệ
thống xã hội, tính chất tập thể và xã hội của lao động. Ngày nay, người ta thừa
nhận tính tất yếu của quản lý. Vai trò của quản lý ngày càng tăng cùng với sự


phát triển của xã hội. Quản lý trở thành nhân tố cho sự phát triển của xã hội,
một hoạt động phổ biến diễn ra trên mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan
đến mọi người.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý: Winslow Taylor cho rằng,
quản lý là biết được chính xác điều mà bạn muốn người khác và sau đó hiểu
được rằng họ đã hồn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất [19]; Theo
V.G Afanatsep, quản lý là nhận thức, phát hiện các quy luật, các khuynh hướng
phát triển xã hội và hướng cho sự vận động của xã hội phù hợp với khuynh
hướng ấy [25]; Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý với gốc từ Hán
Việt tột tả được bản chất của vấn đề, đó là hoạt động chăm sóc, giữ gìn (Quản)
và sửa sang, sắp xếp lại (Lý) để cho cộng đồng theo sự phân công hợp tác hoạt
động được ổn định và phát triển” [7]. Tác giả Trần Kiểm quan niệm rằng quản
lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân

biến thành những thành tựu của xã hội. Quản lý là tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực trong và ngoài tổ chức một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ
chức với hiệu quả cao nhất. Các định nghĩa trên tuy diễn đạt khác nhau nhưng
có chung một thống nhất: Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức,
một nhóm xã hội; là những tác động phối hợp nỗ lực của nhiều cá nhân nhằm
thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Từ các khái niệm trên, chúng tôi nhận thấy rằng: Quản lý bao giờ cũng
là một tác động có hướng đích, có mục tiêu xác định; Quản lý ln thể hiện
mối quan hệ giữa chủ thể quản lý (là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản
lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (là bộ phận chịu sự quản lý); Quản lý là
quản lý con người, là tác động mang tính chủ quan của con người nhưng phải
phù hợp với quy luật khách quan; Xét về mặt công nghệ thì quản lý chính là sự
vận động của thơng tin. Vậy, quản lý là những tác động tự giác của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu của tổ chức.


Quản lý là một quá trình đạt đến mục tiêu của một tổ chức bằng cách
thực hiện các chức năng: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Chức năng
quản lý là các hoạt động quản lý đặc biệt, là sản phẩm của q trình phân cơng
lao động và chun mơn hóa trong quản lý. Thơng qua chức năng quản lý, chủ
thể quản lý tác động có mục đích vào khách thể quản lý nhằm đạt được mục
tiêu nhất định.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục (QLGD) là sự vận dụng một cách cụ thể các nguyên
tắc của quản lý nói chung vào lĩnh vực giáo dục. Quản lý và giáo dục tồn tại
song hành với nhau. Với tư cách là hệ lớn phức tạp, hệ giáo dục cần có sự quản
lý một cách khoa học. Theo tác giả Trần Kiểm đưa ra khái niệm QLGD được
xem xét trên hai cấp độ: Cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) và cấp độ vi

mô (quản lý nhà trường).
Ở cấp độ vĩ mô: QLGD là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội,
ở đây, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Quản lý giáo dục được hiểu là
những tác động tự giác (có ý thức, mục đích, kế hoạch, hệ thống và hợp quy
luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất
đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành
giáo dục [19]. QLGD là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi (emergence) của hệ
thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm
đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân
bằng với môi trường bên ngồi ln ln biến động.
Ở cấp độ vi mơ: QLGD là một chuỗi tác động hợp lý mang tính tổ chức,
sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp
tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quy trình này vận
hành tới việc hồn thành những mục tiêu dự kiến [19]. Cũng có thể định nghĩa,


QLGD thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục
(được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các
lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của học
sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường [20, tr.38].
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đạo đức thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội. ngày nay với sứ mệnh
phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế
hệ trẻ mà cho mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ, cho
nên QLGD được hiểu là sự điều hành của hệ thống giáo dục quốc dân, các
trường trong hệ thống giáo dục quốc dân” [ 7, tr.124].

Các nhà quản lý giáo dục thực tiễn còn quan niệm: Quản lý giáo dục
theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục
không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà còn rộng ra cho mọi người; tuy nhiên trọng
tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều
hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân
[25, tr.16].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật chủ thể quản lý nhằm làm cho
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất” [29, tr.31].
Từ các khái niệm như trên, chúng ta có thể hiểu: QLGD là sự tác động
có mục đích, có ý thức của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt được kết quả cao nhất.
1.2.1.3. Quản lý nhà trường


Quản lý nhà trường (QLNT) hay QLGD ở cấp độ vi mơ. Đó chính là sự
tác động có mục đích, có ý thức của hiệu trưởng tới tất cả các nguồn lực nhằm
đưa hoạt động của nhà trường đạt đến mức cao nhất.
Tác giả Phạm Minh Hạc định nghĩa: “Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [10, tr.66].
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường là hệ thống những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật)
của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ giáo viên, công nhân viên, tập thể học

sinh, CMHS và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường nhằm thực hiện có
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [17, tr.37].
Tác giả Hồ Văn Liên: “Quản lý, lãnh đạo nhà trường là quản lý, lãnh
đạo hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh, hoạt động phục
vụ việc dạy và việc học của cán bộ, nhân viên trong trường. Nhà trường là đơn
vị cơ sở trực tiếp giáo dục - đào tạo, là cơ quan chuyên môn của ngành giáo
dục - đào tạo, hoạt động của nhà trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp,
nên việc quản lý, lãnh đạo chặt chẽ, khoa học sẽ bảo đảm đoàn kết, thống nhất
được mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh đồng bộ nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục đích giáo dục” [23, tr.27].
Như vậy, QLNT thực chất là tác động có định hướng, có kế hoạch của
chủ thể giáo dục lên tất cả các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động của nhà
trường theo nguyên lý giáo dục và tiến tới mục tiêu giáo dục. Thực chất quản
lý nhà trường là quản lý của hiệu trưởng trong quá trình “dạy chữ” và “dạy
người”, đưa hoạt động dạy học càng dần đến mục tiêu giáo dục của Đảng, là
quá trình đào tạo thế hệ trẻ có được những phẩm chất đạo đức, năng lực và sức
khỏe để kế tục sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn mới, đáp ứng
yêu cầu của xã hội.


Như vậy, QLNT thực chất là tác động có định hướng, có kế hoạch của
chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực của nhà trường nhằm đẩy mạnh hoạt
động, chủ yếu là hoạt động dạy học của nhà trường theo nguyên lý giáo dục và
tiến tới mục tiêu giáo dục.
1.2.2.

Đạo đức và giáo dục đạo đức

1.2.2.1. Khái niệm đạo đức
Theo Từ điển bách khoa toàn thư: “Đạo đức là một trong những hình

thái sớm nhất của ý thức xã hội bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh
hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia
đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hoặc toàn xã hội). Căn cứ vào những chuẩn
mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện
ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và nghĩa vụ phải làm. Khác với luật
pháp, các chuẩn mực đạo đức (ĐĐ) không thành văn bản pháp quy có tính
cưỡng chế, song đều được mọi người thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm
của cá nhân và của dư luận xã hội. ĐĐ ra đời và phát triển là do nhu cầu của xã
hội phải điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và hoạt động chung của con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tính ĐĐ biểu hiện bản chất xã
hội của con người, là nét cơ bản trong tính người; sự tiến bộ của ý thức ĐĐ là
cái không thể thiếu được trong sự tiến bộ chung của xã hội” [14].
Theo đạo đức học Mác - Lê nin, đạo đức bao gồm ba yếu tố cơ bản là:
Tri thức - ý thức đạo đức, tình cảm - niềm tin đạo đức, hành vi đạo đức và
quan hệ đạo đức. Tuy nhiên cũng có tác giả cho rằng, đạo đức do các yếu tố
hợp thành là: Ý thức đạo đức, thực tiện đạo đức, quan hệ đạo đức [24,
tr.14,15]. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức là “Nhân - Nghĩa - Chí Dũng - Liêm”, đó là đạo đức cách mạng, đạo đức vì lợi ích chung của dân tộc,
của loài người. Theo Bác, đạo đức là sự thống nhất tư tưởng và phong cách
sống. Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thái ý thức xã hội, bao
gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận,


có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với
người khác và toàn xã hội.
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng: “Đạo đức là hình thái chuyên biệt điều
chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực
hiện sự điều hịa và thống nhất các lợi ích xã hội và lợi ích các nhân. Việc điều
chỉnh đó được thực hiện bằng cách đề ra các yêu cầu về đạo đức, quy định các
bổn phận, các nghĩa vụ về đạo đức dưới dạng các chuẩn mực đạo đức. Chuẩn
mực đạo đức là cơ sở của sự điều chỉnh đạo đức” [27, tr.253].

Theo các tác giả Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng: “Đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với lợi ích hạnh phúc của con người và với tiến bộ
xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội [9,
tr.4].
Như vậy, ĐĐ là một hiện tượng xã hội, là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt phản ánh các mối quan hệ xã hội loài người. ĐĐ được nảy sinh từ nhu
cầu xã hội, nhằm thống nhất lợi ích chung của tồn xã hội với lợi ích riêng của
mỗi cá nhân nhằm đảm bảo trật tự xã hội, thúc đẩy cá nhân, xã hội cùng đi lên.
Để giải quyết các mâu thuẫn đó, xã hội đề ra những yêu cầu chuẩn mực giá trị
được mọi người công nhận và được củng cố bằng sức mạnh tập quán, của dư
luận xã hội, của lương tâm mỗi người.
Trong quá trình hình thành và phát triển, dưới tác động qua lại lẫn nhau
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với
tự nhiên, những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực giá trị đạo đức - xã hội
chuyển hóa thành những phẩm chất đạo đức của cá nhân, làm cho cá nhân đó
trưởng thành về mặt đạo đức, hình thành nhân cách đáp ứng với yêu cầu của xã
hội. Trong nhà trường, ĐĐ học sinh ngoài sự bị chi phối chung của các nguyên
tắc, chuẩn mực ĐĐ xã hội còn chịu sự điều chỉnh của các quy chế, nội quy và
các các nhiệm vụ của người học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện.


1.2.2.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
- Giáo dục
Giáo dục (nghĩa rộng) là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những
sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt
đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người; với hàm nghĩa rộng nhất, khái
niệm này bao gồm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả các yếu tố tạo nên những
nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng các yêu cầu của kinh tế xã hội.
Giáo dục (nghĩa hẹp) bao gồm các quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ

sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện
thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được
xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ xem xét
về ý thức mà căn cứ trên các hành vi, thói quen biểu hiện trình độ phát triển
(cao hay thấp) của trình độ “có giáo dục” của mỗi người.
- Giáo dục đạo đức
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Giáo dục đạo đức (gọi tắt đức dục),
bộ phận có tính chất nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý
thức, thói quen và hình thành ở học sinh các phẩm chất đạo đức như lịng nhân
ái, u Tổ quốc, u lao động, tính trung thực, khiêm tốn, tự trọng, dũng
cảm,... giáo dục đạo đức gắn chặt với giáo dục tư tưởng - chính trị, giáo dục
pháp luật và giáo dục trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, lao động hướng nghiệp. Được
thực hiện bằng hai con đường chủ yếu: 1) Dạy cho học sinh những tri thức về
các chuẩn mực đạo đức. 2) Tổ chức các hoạt động và giao lưu qua đó hình
thành hành vi và thói quen đạo đức. Sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia
đình - xã hội tạo ra mơi trường giáo dục tích cực đối với giáo dục đạo đức”
[14]
GDĐĐ trong trường tiểu học có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
nhân cách của học sinh. Trong nền kinh tế thị trường, các giá trị đạo đức trong


xã hội cịn đan xen lẫn nhau thì GDĐĐ trong nhà trường càng trở nên cấp thiết
và đòi hỏi sự đồng bộ, hệ thống, thích hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học.
“GDĐĐ cho học sinh là làm cho nhân cách của thế hệ trẻ phát triển đúng về
đạo đức; giúp cho mọi người ứng xử đúng trong các mối quan hệ của cá nhân
đối với xã hội, đối với người khác, đối với bản thân; là làm cho mỗi người nắm
được (nhận thức và hành động) các mối quan hệ đạo đức xã hội chủ nghĩa, tức
là các mối quan hệ xã hội trong đó đã giải quyết được các mâu thuẫn giữa lợi
ích cá nhân với lợi ích xã hội, theo hướng lợi ích cá nhân hịa hợp và phục tùng
lợi ích xã hội” [8, tr.208]

Như vậy, GDĐĐ là một mặt của quá trình giáo dục nhằm tác động tới
người học để hình thành cho họ ý thức, tình cảm và một niềm tin đạo đức, đích
cuối cùng quan trọng nhất của GDĐĐ là tạo lập được những thói quen hành vi
đạo đức tốt [21, tr.122]; GDĐĐ là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có
kế hoạch nhằm biến những chuẩn mực đạo đức, từ những địi hỏi bên ngồi
của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục.
GDĐĐ có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục pháp
luật. Đức dục có mối lên hệ biện chứng với các mặt khác tạo nên quá trình giáo
dục như trí dục, mĩ dục, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và hướng nghiệp.
Đức dục và các mặt giáo dục đó thống nhất và sáp nhập xác định q trình giáo
dục tồn diện, dạy chữ với dạy người, xác lập mục tiêu hướng tới chân, thiện,
mĩ, vừa hồng vừa chuyên trong mỗi cá nhân mỗi người.
1.2.3.

Quản lý công tác giáo dục đạo đức

Quản lý công tác giáo dục đạo đức là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa công tác GDĐĐ đạt kết quả mong
muốn bằng những cách thức hiệu quả nhất. Quản lý GDĐĐ là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ thống đảm bảo cho hệ thống vận hành
tối ưu, bảo đảm sự phát triển mở rộng cả chất lượng cũng như số lượng để đạt


được mục tiêu GDĐĐ.
Q trình GDĐĐ có những đặc thù riêng của nó. Vì vậy cơng tác quản
lý GDĐĐ phải được xây dựng trên cơ sở nắm vững những quy luật chung và
quy luật đặc thù, các quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, nắm vững những
chức năng, nhiệm vụ, mục đích và nguyên lý giáo dục. Quản lý cơng tác
GDĐĐ trong trường học là q trình xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung,

phương pháp, hình thức tổ chức, để từ đó xây dựng kế hoạch tổ chức, chỉ đạo
các lực lượng giáo dục trong, ngoài nhà trường thực hiện công tác GDĐĐ, phải
thường xuyên kiểm tra đánh giá điều chỉnh.
Như vậy, quản lý GDĐĐ trước hết là phải làm cho mọi người hiểu và
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nó, đồng thời tham gia vào q
trình một cách tích cực, tự giác. Người quản lý công tác GDĐĐ phải quản lý
cả mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp GDĐĐ, huy động đồng bộ lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ GDĐĐ, đồng
thời phát huy được tính tích cực, tự giác của học sinh. Có thể nói, quản lý công
tác GDĐĐ cho học sinh tiểu học là q trình tác động có định hướng của hiệu
trưởng tới các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động giáo dục nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ của nhà trường.
1.3.

Lý luận về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trường tiểu

học
•J •
^7 ^7
• •

^7
1.3.1.
Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học



Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là xây dựng ý thức đạo đức, bồi
dưỡng tình cảm đạo đức và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức nhằm hình
thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của nhân cách

XHCN.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm hình thành cho học sinh những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm trí tuệ, thể chất
và kĩ năng cơ bản để học tiếp trung học cơ sở. Học xong tiểu học, về mặt đạo


đức, học sinh phải đạt được yêu cầu chủ yếu sau đây: Có lịng nhân ái, mang
bản sắc con người Việt Nam; u q hương, đất nước, hịa bình và cơng bằng,
bác ái; kính trên, nhường dưới, đồn kết và sẵn sàng hợp tác với mọi người
thân, bạn bè, đối với cộng đồng và môi trường sống; tôn trọng và thực hiện
đúng pháp luật và các quy định ở nhà trường, khu dân cư, nơi công cộng; sống
hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin, trung thực.
1.3.2.

Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học

Ở Tiểu học, quá trình giáo dục đạo đức nhằm vào việc hình thành các
chuẩn mực hành vi, phẩm chất đạo đức vững chắc. Vì vậy, quá trình giáo dục
đạo đức cho học sinh là quá trình thực hiện ba nhiệm vụ: giáo dục ý thức đạo
đức, giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức, giáo dục hành vi thói quen đạo đức.
Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học được thể hiện qua nội dung
cụ thể của việc thực hiện các nhiệm vụ đó.
Giáo dục ý thức đạo đức là q trình cung cấp cho học sinh những tri
thức đạo đức cơ bản, sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi, trên cơ sở đó bước
đầu hình thành niềm tin đạo đức cho học sinh. Các chuẩn mực hành vi này
được xây dựng từ các phẩm chất đạo đức: lòng yêu nước, lòng nhân ái, thái độ
đối với lao động, tinh thần tập thể, tính kỉ luật. Chúng phản ánh các mối quan
hệ hằng ngày của các em, đó là:
Quan hệ của cá nhân đối với xã hội: Tơn kính Quốc kì, Quốc ca, kính
yêu Bác Hồ; tự hào về đất nước, con người Việt Nam; biết ơn những thương

binh, liệt sĩ, các chiến sĩ quân đội công an; yêu quê hương, làng xóm, phố
phường; yêu mến và tự hào về trường lớp; giữ gìn mơi trường sống xung
quanh, bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa do ơng cha để lại, ...
Quan hệ của cá nhân đối với những người xung quanh: Đầu tiên là lịng
hiếu thảo với ơng bà cha mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình; kính
trọng và biết ơn thầy cơ giáo; tơn trọng, giúp đỡ, đồn kết với bạn bè; tơn trọng
và giúp đỡ hàng xóm láng giềng, phụ nữ, người già, em nhỏ, người tàn tật...


theo khả năng của mình.
Quan hệ các nhân đối với tài sản xã hội, tài sản người khác: Tôn trọng,
bảo vệ tài sản của nhà trường (trường lớp, bàn ghế, dụng cụ lao động, sách vở,
đồ dùng học tập, dụng cụ thí nghiệm.), của Nhà nước (nhà cửa, máy móc hàng
hóa, các di tích lịch sử - văn hóa, những nơi công cộng.), của người khác (đồ
đạc, thư từ,.).
Quan hệ của cá nhân đối với thiên nhiên: Bảo vệ môi trường tự nhiên
xung quanh nơi ở, nơi học, nơi chơi, nơi qua lại, bảo vệ cây trồng, cây xanh có
ích, động vật ni, động vật có ích, diệt trừ động vật có hại (chuột, muỗi,
dán,.), làm vệ sinh mơi trường.
Quan hệ của cá nhân đối với bản thân: Khiêm tốn, thật thà, bạo dạn, giữ
vệ sinh, có trách nhiệm với lời nói và việc làm của mình.
Những tri thức đạo đức này giúp học sinh biết được cái đúng - cái sai,
cái tốt - cái xấu, cái thiện - cái ác. Từ đó các em sẽ làm theo cái đúng, ủng hộ
cái tốt, tán thành cái thiện và đấu tranh, phê phán, tránh cái sai, cái xấu, cái ác.
ý thức đạo đức đúng đắn sẽ có tác dụng định hướng cho thái độ, tình cảm, hành
vi đạo đức.
Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức cho học sinh là hình thành cho học
sinh những rung động, cảm xúc đối với hiện thực xung quanh, làm cho các em
biết yêu, biết ghét rõ ràng, qua đó có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng
phức tạp trong đời sống xã hội và tập thể. Thái độ thờ ơ, lãnh đạm là sản phẩm

khơng mong muốn của giáo dục tình cảm. Đối với học sinh tiểu học, cần giáo
dục những thái độ, tình cảm như: Kính u Bác Hồ, tơn trọng Quốc kì, Quốc
ca, biết ơn các thương binh liệt sĩ, bộ đội; u mến trường, lớp, q hương
làng xóm. Kính yêu, biết ơn ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em, kính trọng lễ
phép, biết ơn thầy cơ giáo, tôn trọng và yêu mến bạn bè, tôn trọng những người
xung quanh: hàng xóm, phụ nữ, cụ già, em nhỏ. Yêu lao động, chăm học, chăm
làm việc trường, việc lớp; Có lịng tự trọng, khiêm tốn học hỏi, trung trực... Có


×